Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 76

Tổng truy cập: 1359547

THEO GƯƠNG GIOAN, HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN.

(Suy niệm của Phêrô Hà Anh Tiến, OP)

THEO GƯƠNG GIOAN, HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN.

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô thuật lại việc Chúa Kitô đến loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa rằng: đã đến giờ Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ là giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, và kéo nhân loại về với Chúa Cha. Tin Mừng mà các Tiên tri loan báo, dân Israen đang mong chờ ngày được thực hiện. Dân Israen biết rằng Đấng Thiên Chúa sai đến thực hiện là Đức Kitô.

Thánh Marcô còn cho chúng ta biết Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã đến và cũng cho biết Thiên Chúa đang sử dụng những tháng ngày sau cùng của chương trình Cựu Ước là sai Tiên tri loan báo để dọn đường cho Chúa Kitô xuất hiện.

Vị Tiên tri sau cùng của Cựu Ước là thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử mô tả, giới thiệu cho chúng ta biết chân dung khổ hạnh của người: mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da thú, thức ăn là châu chấu và uống mật ong rừng. Sống tu trì, khổ hạnh nhiều năm trong sa mạc, bây giờ người xuất hiện trên dòng sông Gióc-đan miền Giê-ri-cô, nơi chỗ nước cạn gọi là Bêthabara, giảng dạy cho dân về sự thống hối – sự ăn năn và kêu gọi dân chúng quay trở về với Chúa. Nhiều người đã chịu phép rửa của ngài.

Thánh Marcô nhấn mạnh đến việc rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, là Đức Kitô sắp đến, uy quyền hơn thánh nhân; có giá trị cao vời đến nỗi thánh nhân không xứng đáng làm người đầy tớ, làm nô lệ, không đáng cởi dây giày cho Người. Đức Kitô sẽ đến thanh tẩy dân trong Thánh Thần.

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón Chúa Kitô đến, và Chúa Kitô đã đến thực sự làm ứng nghiệm lời Tiên tri Isaia đã loan báo. Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt Người, dọn đường cho Người. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. Nếu Chúa Kitô không đến, thì lời rao giảng của thánh Gioan trở nên mơ hồ. Vì thế, công việc chính của thánh Gioan, mục đích chính của cả cuộc đời thánh nhân là chuẩn bị và giới thiệu Chúa Kitô, cho dân biết phải thanh tẩy, phải từ bỏ đường tà và quay về với nẻo chính đường ngay, phải từ bỏ mọi chướng ngại là tội lỗi. Chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến.

Ngày nay, tiếng nói của thánh nhân vẫn có giá trị, vẫn vang vọng lên mãi mọi nơi và được Hội Thánh nhắc lại trong Mùa Vọng - Mùa Chúa đến. Việc làm trước tiên của chúng ta là phải thống hối. Chúa sẽ đến với ta khi ta biết thống hối. Vì thế, chúng ta cần phải noi gương thánh Gioan trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: từ bỏ xa hoa xét ra không cần thiết, khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, sống yêu thương và phục vụ. Người nào sống xa hoa, phung phí tiền bạc, không đọc và suy gẫm Kinh Thánh, không có lòng khiêm nhường, chưa nói về Chúa cho người khác biết và chưa sống cuộc đời của thánh Gioan, thì cần phải xem lại bản thân. Hãy bạt cho bằng những gồ ghề nơi tâm hồn, hãy sửa cho thẳng những quanh co, gian dối, xảo trá, những bất công, bất hòa trong cuộc sống, hãy lấp cho đầy những hố sâu ngăn cách. Hội Thánh còn mong muốn chúng ta chẳng những nghe lời thánh Gioan, mà còn truyền lời thánh nhân lại cho mọi người. Vai trò của thánh nhân nay trao lại cho mỗi người chúng ta là:

“Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi”.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc đời mỗi người chúng con đều có một con đường riêng biệt. Mỗi người theo con đường của mình để nhắm về cùng đích là Thiên Chúa. Nếu chúng con nhắm đúng đích, dấu chỉ con đường chúng con đi là ngay thẳng. Chỉ có con đường thẳng, nhắm đúng đích mới dẫn chúng con đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu là Nước Trời. Lạy Chúa, bản tính chúng con được dựng nên thuở ban đầu tự nhiên hướng về con đường thẳng là: Chân-Thiện-Mỹ. Thế nhưng, nhiều khi chúng con bị lầm tưởng, chúng con bị mê hoặc bởi những cái đẹp giả tạo, cái thiện ảo tưởng nên chúng con nhắm không đúng đích, vì thế con đường chúng con đi trở thành quanh co và không đón nhận được ơn cứu độ.

Xin Chúa ban Thánh Thần của Người đến sửa lại con đường quanh co nơi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con gặp được Đức Kitô là Đấng đem lại nguồn ơn cứu độ cho chúng con. Amen.

 

81.Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Trích chú giải của William Barclay)

I. GIOAN RAO GIẢNG (Mc 1,1-4)

Một trong những câu chuyện kể về Kitô giáo có thể làm gì là câu chuyện lịch sử đã ghi lại một vụ nổi loạn trên tàu Bounty. Bọn cướp tàu ấy bị tống lên đảo Pitcaim. Có chín tên nổi loạn, sáu người đàn ông bản xứ, mười đàn bà bản xứ và một bé gái mười lăm tuổi. Một trong đám người đó có người biết nấu rượu. Kết quả là tình hình trở nên khủng khiếp. Tất cả đều chết, ngoại trừ Alexander Smith. Smith may mắn gặp một quyển Kinh Thánh. Ông ta đọc sách ấy và quyết tâm xây dựng một quốc gia với thổ dân trên đảo, lập nền trên Kinh Thánh. Mãi 20 năm sau mới có một chiếc thuyền buồm nhỏ đến thăm đảo, người ta gặp tại đó một cộng đồng hoàn toàn Kitô giáo. Ở đó không có nhà tù vì không có tội ác. Không có bệnh viện vì không ai đau ốm. Không có dưỡng trí viện vì không ai bị loạn trí. Không có ai mù chữ và không có nơi nào trên thế giới sinh mạng và tài sản được an toàn bằng tại đấy. Kitô giáo đã thanh lọc xã hội ấy. Nơi nào Chúa Cứu Thế được mời đến thì chất sát trùng của niềm tin Kitô đã tẩy sạch chất độc của xã hội, khiến nó trở nên trong sạch, thuần khiết.

Gioan đến, rao giảng một phép rửa tỏ lòng sám hối. Người Do Thái vốn quen thuộc với nghi lễ tẩy rửa. Lêvi 15 đã mô tả chi tiết các nghi lễ ấy. Tertulian nói “người Do Thái tắm rửa hằng ngày vì mỗi ngày họ đều bị nhiễm ô uế”. Các biểu tượng về tẩy rửa và thanh lọc được đưa vào chính cơ cấu và nghi lễ của dân Do Thái. Người ngoại nhất thiết bị kể là ô uế vì chẳng hề giữ luật Do Thái. Cho nên khi một người ngoại nhập đạo Do Thái, nghĩa là tin theo Do Thái Giáo, thì người ấy phải làm ba việc. Thứ nhất, phải chịu phép cắt bì, vì đó là dấu hiệu về một người của giao ước. Thứ hai, phải dâng một sinh tế, vì với tư cách là người ngoại, người ấy cần được chuộc tội, mà chỉ có máu mới chuộc được tội lỗi. Thứ ba, phải chịu phép rửa vì tượng trưng cho việc mọi ô uế trong quá khứ của mình đều đã được tẩy sạch. Cho nên, lẽ tự nhiên phép rửa không phải chỉ là việc rảy nước lên người nhưng là việc tắm toàn thân trong nước. Người Do Thái biết rõ phép rửa, nhưng chuyện lạ trong phép rửa của Gioan, là ở chỗ Gioan là người Do Thái mà lại dạy người Do Thái cần phải chịu một nghi lễ chỉ có người ngoại mới phải chịu. Gioan đã có một khám phá phi thường là một người Do Thái theo phương diện chủng tộc vẫn chưa phải là thành viên của tuyển dân của Chúa; một người Do Thái cũng ở địa vị như một người dân ngoại, không phải hễ là người Do Thái thì tự nhiên thuộc về Chúa, nhưng người có đời sống được thanh tẩy, đó là người của Chúa.

Phép rửa kèm theo việc xưng tội. Bất cứ hành động nào liên quan đến sự trở về cùng Chúa, việc xưng tội được đòi hỏi đối với ba đối tượng:

1) Người ta phải tự xưng tội với chính mình. Bản tính con người thường là muốn nhắm mắt làm ngơ trước những gì ta không muốn nhìn thấy, và trên hết là chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi của chính mình. Người ta kể câu chuyện về bước đầu tiên đến được với ân sủng của một người kia. Một hôm, lúc đang cạo râu, ông ta thấy mặt mình trong gương, thình lình ông ta thét lên “À ra mày, mày là một thằng khốn nạn, bẩn thỉu”. Và từ đó, ông ta trở nên một người khác hẳn. Chắc chắn sau khi bỏ nhà ra đi, người con trai hoang đàng nghĩ rằng mình là nhân vật tử tế, thích mạo hiểm. Nhưng trước khi quyết định trở về nhà, anh ta đã nhìn lại mình thật kỹ và tự nhủ “ta sẽ đứng dậy, trở về nhà và nhận rằng ta là một đứa con hoàn toàn hư hỏng” (Lc 15,17.18). Trên đời này, đối diện với chính mình thì khó hơn là phải đối diện với bất kỳ ai khác, và bước đầu của hoán cải, của việc làm hòa lại với Chúa là phải tự thú nhận tội lỗi của mình với chính mình.

2) Người ta phải xưng tội với kẻ mình đã đối xử sai quấy. Thưa với Chúa rằng ta ăn năn hối tiếc là vô ích nếu trước đó ta chưa ăn năn hối hận với những người đã bị ta xúc phạm và gây thương tổn, làm buồn phiền. Phải cắt bỏ các chướng ngại giữa người và người với nhau trước khi có thể gỡ bỏ các chướng ngại với Chúa. Thông thường xưng tội với Chúa vốn dễ hơn xưng tội với người, nhưng nếu không có sự khiêm nhường hạ mình, thì vẫn không có tha tội.

3) Người ta phải xưng tội với Chúa. Kết thúc kiêu ngạo là khởi điểm của tha tội. Chỉ khi nào một người nói “tôi có tội”, mới có hy vọng được Chúa phán “Ta tha tội cho con”. Không phải kẻ muốn đến gặp Chúa với tư cách tay đôi như hai người ngang hàng với nhau mà được tha tội, nhưng phải là người quỳ gối xuống với tấm lòng khiêm hạ, ăn năn, thống hối, xấu hổ thì thầm “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.

II. GIOAN SỨ GIẢ (Mc 1,5-8)

Rõ ràng chức vụ của Gioan đã có kết quả lớn vì mọi người đổ xô đến nghe ông giảng và chịu để ông làm phép rửa cho họ. Tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn trên dân tộc ông như vậy?

1) Gioan là người sống theo sứ điệp ông rao giảng. Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống của ông nữa. Có ba điều ở ông đã chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.

(a) Nơi ông ở. Ông ở trong hoang địa. Giữa trung bộ xứ Giuđê và Biển Chết, có một vùng hoang địa khủng khiếp nhất thế giới. Đó là một hoang địa đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da, người ta có cái cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một lò nung ở dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía Biển Chết rồi tạo thành những dốc thẳng đứng đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được về phía bờ biển. Trong Cựu Ước, thỉnh thoảng nó được gọi là Jeshimmon nghĩa là nơi hoang vu. Gioan không phải là một thị dân. Ông là người từ hoang địa, từ nơi hoang vu vắng vẻ mà đến. Ông là người từng đi tìm cơ hội để được nghe tiếng Chúa phán dạy.

(b) Y phục ông mặc, ông mặc áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng ăn mặc như vậy (Lv 1,8). Nhìn một người như thế người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ lại các ngôn sứ thời xưa từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường giết chết tâm hồn.

(c) Thực phẩm. Thực phẩm của ông là châu chấu và mật ong rừng. Cả hai từ này đều có thể có hai nghĩa. Châu chấu là giống vật được luật cho phép ăn (Lv 11,22.23), nhưng cũng có thể đó là một loại đậu hay hột gọi là carob, vốn là lương thực của kẻ nghèo. Mật ong có thể là mật của loài ong rừng đóng tổ trong các bọng cây hoặc cũng có thể là một loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài loại cây. Từ này có nghĩa chính xác vẫn không là vấn đề quan trọng. Dầu thế nào đi nữa thức ăn của Gioan rất đạm bạc, ông đã xuất hiện trong tình trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những người như thế. Người ta kể về Carlyle rằng “Ông giảng hai mươi bộ sách Phúc Âm bằng sự im lặng”. Ngược lại có nhiều người đã đem đến một sứ điệp mà chính đời sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại giảng rằng đừng tích trữ của cải ở dưới đất; nhiều người ca tụng các phúc lộc của kẻ nghèo, nhưng lại sống trong một biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong trường hợp của Gioan, ông là con người của sứ điệp, sống theo chính sứ điệp rao giảng và vì thế dân chúng đã nghe ông.

2) Thông điệp của ông sở dĩ được hiệu nghiệm vì ông nói với dân chúng điều mà thâm tâm họ vẫn biết, ông đem đến cho họ điều mà họ vẫn mong đợi.

(a) Người Do Thái có câu “nếu dân Israel giữ trọn luật Chúa chỉ trong một ngày thì Nước Trời sẽ đến”. Khi Gioan kêu gọi họ hoán cải là ông đặt họ đối diện với sự chọn lựa, với quyết định mà tự đáy lòng họ đã biết rất rõ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Plato đã nói rằng giáo dục không phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra từ ký ức họ những gì họ đã biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm cho bằng nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.

(b) Dân Israel biết rõ rằng từ ba trăm năm qua, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt. Họ đang chờ đợi một tiếng nói thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đã nghe được nơi Gioan. Trong mọi lãnh vực của đời sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc ghế nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy quyền của con người ấy tràn qua trên họ. Chúng ta nhận biết ngay một vị bác sĩ mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu đề tài mình trình bày, chúng ta nhận biết ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ để nhận ra.

3) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.

4) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.

 

82.Chú giải theo Fiches Dominicales

LỜI TỰA TIN MỪNG MÁCCÔ:

TỪ GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN ĐỨC GIÊSU

I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Một lịch sử mới bắt đầu

Tin Mừng thánh Maccô hôm nay bắt đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng, mỗi chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đã cho thấy rõ trọng tâm sứ điệp của Đức Kitô và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin.

Đó là sự "Khởi đầu”, J.Hervieux lưu ý: "Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đã bắt đầu như thế. Chắc hẳn Thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch sử thánh mới, một tạo dựng mới ("Tin Mừng thánh Maccô", Centurion, tr. 15).

Đó là sự khởi đầu của "Tin Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đã loan báo (bài đọc 1 của Chúa nhật này) - tức "Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa vì lợi ích cho dân Ngài - đã hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người.

- Đó là khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Đấng đã giảng dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của Tin Mừng sau khi Ngài sống lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng vui, Tin Mừng này chính là Đức Giêsu.

- Thánh sử Maccô đã mặc khải về Đức Giêsu bằng hai danh hiệu đầy ý nghĩa: "Kitô", "Con Thiên Chúa".

+ "Kitô": từ mà ngày nay chúng ta không còn hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy của nó.

M.E. Boismard lưu ý: "Lẽ ra phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ để nhấn mạnh từ thứ hai là một danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc.

Từ "Kitô”, chuyển âm từ "Christos" của tiếng Hy Lạp. "Christos" dùng để dịch động từ "Meshiah" của tiếng Do thái có nghiã là "xức dầu". Động từ Do thái này cũng biến thành "Messias" trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy, "Kitô" có nghĩa tương tự như “ Mêsia” để chỉ người được Thiên Chúa xức dầu, bằng dầu đã được hiến thánh.

Do đó, trong số những người được thánh hiến bằng dầu thánh, các vì vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người chiêm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ còn dùng để chỉ các vì vua mà thôi.

Như vậy, nghĩa đầu tiên của từ "Kitô" có ý nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua dân Người.

Đàng khác, chúng ta sẽ thấy cảnh Đức Giêsu chiu phép rửa (1,9-11), được Maccô trình bày như là một sự đăng quang làm vua vậy. ("Giêsu, người Nagiarét”, Cerf, 1996, tr. 14-16).

+ "Con Thiên Chúa”: vào thời Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm con, và giữa họ có mối dây liên hệ đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần thời gian để nhân ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một không hai; trong Người, chính Thiên Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ cỏ thể nhận ra điều này sau ngày Chúa phục sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ Ngũ Tuần.

KITÔ, CON THIÊN CHÚA: hai danh hiệu trả lời trước cho câu hỏi luôn vang lên trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: "Người này là ai?”. Hai danh hiệu đã phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này:

Phần đầu dẫn chúng ta đến lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Ngài là Đấng Kitô" (8, 29...).

- Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin của viên sĩ quan Rôma được chứng kiến cái chết của Chúa, đã tuyên xưng: "người này thật là Con Thiên Chúa" (15,39).

- Benoit Standaert kết luận: "Phúc Âm hay Tin Mừng, chính là Đức Giêsu và với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra, Thánh Thần ngự xuống, và quyền năng Thiên Chúa thiên trung quyền lực sự dữ... Ngay những từ đầu tiên của Maccô đã là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh hiệu mới, một sự hiện diện mới: Đức Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Maccô đã nói quá đủ! Ngài chẳng còn gì để nói với chúng ta nữa. (“Tin Mừng theo thánh Maccô”, chú giải, Cerf, tr.41).

2. "Khúc dạo đầu” cho một màn kịch khác.

Ngay sau danh xưng đầy ý nghĩa trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả xuất hiện: "Và Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa". Ở ngay phần đầu, đã có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal 3,1 và 23; Is 40,3); điều đó hàm ý ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới thiệu ông như "sứ giả" được Thiên Chúa sai đến "để dọn đường, như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa đến, qua Đấng Mêsia của Ngài.

Nơi Gioan Tẩy giả thi hành sứ mệnh là "hoang địa", là nơi của Xuất Hành, là nơi vừa để chịu thử thách vừa để được mặc khối tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng trưng cho mọi khởi đầu. Và chính vì thế, Gioan "Kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Bên giòng nước sông "Giócđanô" nơi dân Chúa đã băng qua để vào đất hứa, lời ông vang dội "khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem". Một cách nói của thánh sử để cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi đến tất cả mọi người.

Y phục ông làm ta ngạc nhiên. Y phục ấy mang ý nghĩa tượng trưng vì đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia. Sách Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da" (1V 17,1-6; 9,5-8). Đó là cách thánh sử trình bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ Êlia, Đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia.

Cách sống của ông rất khắc khổ, trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: ‘Người không ăn bận khác thường không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay vì ở trong hoang địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng’ (sách đã dẫn, tr.19).

Công việc của Gioan là mở đầu thời đại mới: "Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà Ngài có bổn phận loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. ‘Đấng đến sau tôi’ – ông tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa làm môn đệ của người ấy – ‘Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày cho Người’. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau ông, mà còn cho mình không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rõ ràng: Phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: "Tôi đã làm phép rửa cho anh em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”.

J. Hervieux kết luận: Sứ điệp rất rõ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi trước “Đấng quyền năng" hơn ông. Ông ý thức về sự thấp kém của mình. Ông phải tự hạ trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho Chúa! Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của Gioan và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đã làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu thì làm phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị tiền hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát (Cv 2,38).

Vì thế ngay từ trang đầu của Tin Mừng, Maccô đã đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ của nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Phần sau sẽ soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa hai con người này (Sách đã dẫn, tr. 19)

II. BÀI ĐỌC THÊM

1. Đáp lại lời mời gọi của Gioan, chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Đức Giêsu. (Mgr. L. Daloz trong: “Ngài là ai”, Declée de Brouwer, tr. 10)

"Lời công bố của Gioan Tẩy Giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ý nghĩa của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: "Hãy dọn đường cho Chúa...". Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một sứ giả đã được phái đến để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón nhận Đức Giêsu nết không có chuẩn bị trước. Người đến với những ai chấp nhận đi vào con đường hoán cải bằng cách xưng thú tội mình, chấp nhận sự đổi mới của phép rửa thống hối. Nhờ thế, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến. Ngài là "Đấng quyền năng hơn...", và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đây là một thái độ đón nhận, chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người đơn sơ và nghèo khó, người anh em của chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài ấy, chúng ta được mời gọi tìm hiểu mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.

2. “Đức tin, sức mạnh đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41).

Đánh giá những biến đổi đang diễn ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn Kitô giáo không phải nhằm làm một bản tổng kết, nhưng là để nhìn nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin.

- Chúng ta có thể bắt đầu từ sự kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân tòng trưởng thành hay những trẻ em chưa được rửa tội học các lớp giáo lý do những bạn bè có đạo dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lý như vậy gia tăng không ngừng. Tại sao đức tin nơi nhưng tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ này? Thưa bởi vì họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nhìn đời của họ, và vì họ thường có thói quen chỉ giữ lại những gì trong Tin Mừng củng cố lý tưởng nhân loại của mình. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền "văn hóa công giáo", họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng như niềm vui được thuộc về Giáo Hội như một gia đình mới. Gia đình này không tuân theo những luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh Thần.

Đó là cách chúng ta phải suy gẫm về những gì đã xảy ra bởi vì Lời Chúa mà các tân tòng khám phá cũng chính là Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc về niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để nhận ra rằng sự kiện tân tòng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự tìm kiếm đời sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này, trình bày đức tin Kitô giáo không thể là một việc duy ý chí, nhưng chúng ta phải dấn thân vào công cuộc tìm kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời gọi, những cám dỗ và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của mình, chúng ta cũng cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với mọi người: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

Tương tự như vậy, chúng ta cũng nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái độ sư phạm phù hợp và xác định đâu là vai trò và thẩm quyền của chứng nhân trong việc truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống hiện nay.

Ngay cả ở đây nữa, điều chúng ta cần thực hiện không chỉ là so sánh những ý kiến khác nhau về mục vụ hay giáo dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc khai tâm đức tin cho thế hệ trẻ.

Chúng ta cũng có thể đề cập đến những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo Hội Pháp.

Sau cùng, chúng ta có thể chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô đã gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con người thế nào, và nói rõ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đã giúp hòa hợp được giữa đấu tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xã hội. Ở đây, những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể nói không còn tồn tại: Chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên của những công đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghiã là xóa bỏ những khác biệt có thực trong những hình thức dấn thân. Nhưng xét đến động cơ sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đòi hỏi như nhau: không thể sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của người mà không sống với những anh em bị xã hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh em bị xã hội loại trừ mà không tìm kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi đam mê phục vụ nhân loại hiện rõ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin.

Do đó, chúng ta có thể trình bày đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân cũng như cho xã hội. Bởi vì, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lãnh vực.

 

83.Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

CẦN LẮM MỘT CON ĐƯỜNG THẲNG!

Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta không ngừng được nhắc đến một con người, con người đó chính là Gioan Tẩy Giả. Sự xuất hiện của Gioan mang một âm hưởng rất đặc biệt. Sự khác thường này được nhận thấy rất rõ bởi cách sống và lời rao giảng.

Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy sự đặc biệt này nơi thánh Gioan.

1. Lựa chọn ưu tiên cho sứ vụ

Chân dung của Gioan được Máccô trình bày rất ly kỳ, tác giả viết: hồi ấy, trong hoang địa Giuđê, xuất hiện một người, người đó có tên là Gioan: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (Mc 1, 6), đồng thời rao giảng rằng: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1,3).

Ông lựa chọn lối sống hết sức đạm bạc giống như những người nghèo. Cuộc sống của Gioan giản dị qua cách sống, ăn mặc cũng như nơi chốn. Gioan đã khước từ một cuộc sống sung túc mà đáng lẽ một người con của gia đình tư tế được thừa hưởng.

Khi lựa chọn mặc áo lông da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng trong sa mạc, Gioan muốn nêu gương về lối sống siêu thoát hầu thi hành sứ mạng tiền hô của Đấng Cứu Thế cho được tốt nhất. Mặt khác, khi lựa chọn cuộc sống đạm bạc, Gioan được trở thành người tự do để rao giảng Tin Mừng.

Từ cuộc sống khổ hạnh như vậy, danh tiếng của ông được loan xa. Vì thế, nhiều người thuộc mọi giai tầng trong xã hội thời bấy giờ đã đến để xin ông chỉ giáo và tỏ lòng sám hối khi muốn ông làm phép rửa cho mình.

Qua lối sống và lời rao giảng, Gioan xứng đáng được hưởng những lời tán dương mà dân chúng tung hô. Tuy nhiên, ngài đã không nhận và quy hướng về Đức Giêsu. Vì thế, ông nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8).

2. Sứ điệp Gioan rao giảng

Quả thật, Gioan đã đến và ông đã thực hiện đúng những gì đã tiên báo về mình trước đó: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1) và “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).

Như vậy, vai trò của Gioan chính là chuẩn bị, dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Đường ở đây rất quan trọng. Nếu không có đường, chúng ta không thể đến được với nhau. Không có đường, mọi sự giao thương trực tiếp bị gián đoạn. Tuy nhiên, nếu có đường mà đường không tốt, có thể gây nguy hiểm hay cản trở công việc, hoặc đôi khi không có tác dụng. Chẳng hạn như đường mà bị ngập lụt thì kể như không có. Đường mà bị đất hay đá lở phủ lên thì mọi phương tiên cũng chẳng qua lại được. Đường lồi lõm, ổ trâu, ổ voi, quanh co…, nếu tham gia giao thông sẽ rất nguy hiểm, bởi không chừng có thể gây nên những tai hại huy hiểm có thể chết người…!

Chính vì vậy, người ta muốn phát triển kinh tế hay văn minh…, một trong những điều cần thiết, đó là phải khai thông những con đường.

Con đường vật lý cần như thế đó! Nhưng có một con đường khác còn cần hơn gấp bội, con đường đó chính là con đường tâm linh, thiêng liêng, con đường của lòng người với người, của con người với Thiên Chúa.

Hôm nay, Gioan đã chỉ ra cho người đương thời với ngài và ngay cả chúng ta những việc cần làm ngay để đón Chúa đến, đó là:

Hãy san bằng những đỉnh đồi kiêu ngạo; bặt cho bằng lòng tự ái ghen tương; lấp cho đầy những tham sân si cũng như những hố sâu của sự chia rẽ, tiền bạc, danh vọng, nhục dục; uốn cho ngay những quanh co, dối trá, vu khống, nói hành, nói xấu….

Đây chính là những đề nghị mang tính trọng tâm của sứ điệp mà Gioan đã chỉ cho dân chúng để họ thi hành mà được cứu rỗi.

3. Thi hành lời dạy của Gioan

Cùng một sứ điệp, vì thế, trong Mùa Vọng này, lời của Gioan vẫn vang vọng và không hề giảm nhẹ tính cần thiết khi mời gọi mỗi chúng ta cũng hãy làm như những gì mà ngài đã đề nghị cho dân chúng khi xưa.

Nhìn vào cuộc sống tâm linh, nhiều người trong chúng ta sẽ giật mình, bởi vì con đường thiêng liêng của mỗi người sao nhuốc nhơ, dơ bẩn, và lồi lõm, quanh co đến thế! Nào là gồ ghề, lởm chởm của sự kiêu ngạo. Nào là ổ gà, ổ trâu, hố voi của những tham sân si, ích kỷ ghen tương. Nào là quanh co của sự dối trá….

Là người Kitô hữu thực thụ, chúng ta cần phải có một tư cách đứng đắn của người công chính, thánh thiện, đạo đức. Tư cách đó chính là phong cách trưởng thành của người quân tử. Không hai mặt, hai lòng; không tiểu nhân; không vu vạ cáo gian; không thêm điều bịa đặt: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37). Bởi vì: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (x. Cn 21, 29), và “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1, 9); “Ngài ghê tởm tâm địa quanh co” (x. Cn 11, 20).

Muốn uốn cho thẳng con đường thì cần thiết lắm một sự khiêm nhường. Điều này đòi hỏi chúng ta phải lột xác, bởi vì ai cũng muốn phình to bản ngã, đề cao cái tôi và ham muốn danh vọng, quyền lực, tiền bạc….

Nếu không có sự khiêm nhường thực sự, mỗi người sẽ phá hoại chương trình của Thiên Chúa trên cuộc đời ta, đồng thời sẽ làm cho sứ vụ của mình bị phản tác dụng khi ngôn hành bất nhất.

Điều nguy hiểm nhất, đó là: nếu không khiêm nhường, chúng ta sẽ là đồ đệ của qua quỷ, bởi vì chúng ta đang làm cho mục đích của chúng hiện hữu trong lời nói và hành động của mình.

Muốn trở nên một con đường tốt để ta đến với Chúa và Chúa đến với ta cũng như ta đến với tha nhân và ngược lại, thì:

Trước hết, noi gương Gioan, hãy vào sa mạc để gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc ở đây chính là canh tân đời sống nội tâm, suy gẫm Lời Chúa, cầu nguyện sâu xa.

Chỉ có như thế, chúng ta mới nhận ra sự yếu hèn của mình và mới dám đối diện với sự lồi lõm, gồ ghề cũng như thùng vũng của con đường tâm linh nơi mình.

Thứ đến, noi gương Gioan, tập sống một cuộc sống giản dị, đơn sơ…, để được thanh thoát, bình an và nhẹ nhàng.

Nếu lối sống đạo quá cầu kỳ những chuyện bên ngoài, chúng ta sẽ đánh mất hay giảm nhẹ giá trị tâm linh cũng như vẻ đẹp đơn sơ của tâm hồn.

Tiếp theo, noi gương Gioan về đời sống khổ chế, nhằm chế ngự thân xác, hãm dẹp những bản năng xác thịt, ngõ hầu tinh thần được thanh cao và thanh thoát, để hướng về Chúa cách trọn vẹn và nhạy bén với người nghèo cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết chuẩn bị cho Chúa những con đường thật đẹp, thẳng và rộng rãi để Chúa đến với chúng con và cũng để chúng con đến với tha nhân được thuận lợi.

Xin cho chúng con biết sống đơn sơ, giản dị và thanh khiết, nhất là biết khiêm nhường để Chúa được vinh danh hơn. Amen.

 

84.Sửa đường tâm linh cho ngay thẳng

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Trong Chúa Nhật I Mùa Vọng, mỗi người chúng ta được mời gọi hãy tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Sang Chúa Nhật II hôm nay, phụng vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng hợp để đón chờ Đấng Cứu Thế đến. Một trong những công việc cụ thể nhất đó là sám hối. Sám hối là thay đổi não trạng cũ để thay vào đó một lối sống mới cho phù hợp với Tin Mừng. Sám hối còn là trở về với Chúa, biết nhận ra lỗi lầm cũng như thực trạng linh hồn của mình.

Tuy nhiên, sám hối như thế nào? Và phải chuẩn bị tâm hồn ra sao là điều mà phụng vụ hôm nay muốn nhắm tới?

1. Ý nghĩa Lời Chúa

Trước tiên, bài đọc I cho chúng ta thấy sứ vụ của tiên tri Isaia là an ủi dân chúng và loan báo cho họ về thời cứu rỗi do lòng thương xót của Thiên Chúa đã đến gần. Ngài sẵn sàng tha thứ cho dân, mặc dù trong quá khứ dân đã cứng đầu cứng cổ và phản bội Thiên Chúa bằng việc bất trung với Giao Ước.

Nay dân hối hận và đã đáp lại lời mời gọi của Isaia để sám hối, thanh luyện tâm hồn và quay trở về với Thiên Chúa. Họ đã biết lỗi của mình, và như thế, tin mừng cho họ chính là họ được hồi hương để về với tiền nhân và quê cha đất tổ. Thiên Chúa tiếp tục dẫn dắt dân như mục tử chăm sóc đoàn chiên, như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh... Đây chính là cuộc xuất hành lần thứ hai của dân Israel.

Sang bài đọc II, thánh Phêrô đã an ủi để dân trung thành đón chờ Chúa đến. Tại sao vậy? Thưa vì họ nghĩ rằng Chúa sắp đến, nên họ chờ mong. Tuy nhiên, khi chờ đợi lâu, họ đâm ra chán trường, mệt mỏi, và điều đó làm cho họ thờ ơ với việc chuẩn bị đón Chúa. Tuy nhiên, thánh Phêrô mặc khải cho họ biết rằng: sự chậm trễ của Thiên Chúa là có lý do. Lý do chính yếu chính là việc Ngài kiên nhẫn chờ đợi để cho dân có thời gian sám hối, thay đổi đời sống hầu được cứu độ. Tuy nhiên, Chúa đến là điều chắc chắn, nhưng lại không biết ngày nào, giờ nào, nên phải tỉnh thức: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Ngài thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3,14).

Sang bài Tin Mừng, thánh Máccô cho thấy, Đấng mà các tiên tri loan báo chính là Đức Giêsu, Ngài chính là Mêsia, sẽ đến để cứu thoát dân Ngài, tuy nhiên, cần phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để được ơn cứu độ do Ngài mang lại.

Lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả cũng chính là lời mời gọi của Isaia trong thời Cựu Ước. Tuy nhiên, Isaia thì loan báo dân sẽ được hồi hương để được sống trong cảnh hòa bình, cũng như được hiện diện trên đất của cha ông. Còn Gioan Tẩy Giả thì loan báo về một trời mới đất mới là chính ơn cứu độ. Tuy nhiên, muốn được vào đó, cần phải thay đổi lối sống cũ, mặc lấy đời sống mới trong tư cách là con cái Ánh Sáng.

2. Sửa cho tốt con đường tâm linh

Lời mời gọi của thánh Gioan: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Con đường mà ngài nói đến đây chính là con đường tâm linh, con đường thiêng liêng. Con đường đó nó có tác dụng chính là việc nối liền đôi đầu. Một bên là ta và bên kia là Chúa. Muốn đến được với Chúa phải qua con đường này. Tuy nhiên, trên con đường ấy, nhiều khi có những lồi lõm, loằn ngoằn, làm cho chúng ta có nguy cơ bị đi lạc... Những con đường như vậy, nó trở thành những rào cản tâm linh, khiến chúng ta khó khăn trong việc gặp được Thiên Chúa là cùng đích của con đường là cuộc đời chúng ta.

Bổn phận của chúng ta chính là hãy làm cho con đường ấy trở nên dễ dàng bằng việc lấp cho đầy những hố sâu do những tham sân si của con người, gây nên như: tự ái, ghen ghét, tự ty, hách dịch, trưởng giả... hay những ham mê bất chính như: danh, lợi, thú... tất cả những thứ đó phải được khước từ, vứt bỏ hết, để con đường tâm linh được nhẵn nhụi, phẳng phưu....

Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải uốn nắn con đường tâm linh sao cho thẳng để khỏi bị lầm đường lạc lối. Những cong queo đó chính là sự sự gian dối, xảo quyệt..., không thành thực, trốn tránh trách nhiệm, sống hình thức, không hồi tâm để biết mình và biết Chúa...

Cuối cùng, con đường gồ ghề chính là hình ảnh của những tâm hồn kiêu ngạo, huênh hoang, tự đắc. Lòng đầy dẫy những sự tàn ác độc địa, bất nhân, gây chia rẽ...

Cần thay vào đó bằng con đường chính trực, công minh. Con đường khiêm nhường, liên đới, hiệp nhất và yêu thương. Con đường của sự thật, công lý và bình an...

3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa

Có một bạn trẻ nọ, lúc còn sinh viên, anh ta sa đà vào con đường tội lỗi khi sống buông mình trong những thú vui thác loạn, tiêm trích, xì ke ma túy, lêu lổng việc học hành. Điểm đến của anh là các quán bar, những tụ điểm hành lạc. Tuy nhiên, một biến cố đến với anh là mẹ anh bị ung thư, và anh ta cũng chứng kiến cảnh nhiều bạn bè chết vì bệnh tật, sốc thuốc và đâm chém nhau. Lúc đó, anh ta hồi tỉnh và nghĩ về cuộc sống mỏng dòn nơi những người thân thiết nhất của anh. Được ơn Chúa giúp, anh ta can đảm từ bỏ con đường tội lỗi cũ để trở về với Chúa. Anh ta quyết định đi xưng tội, tập trung việc học hành và dành nhiều thời gian cho việc đạo đức. Cuối cùng Chúa đã nhận lời, ban cho anh được cải tà quy chính. Giờ đây anh đã trở thành người chồng trách nhiệm, người cha gương mẫu và là Kitô Hữu sốt sắng, đạo đức.

Thật vậy, cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Cuộc đời nào rồi cũng chấm dứt với cái chết. Điều quan trọng là biết điểm dừng và ý thức rằng: bên cạnh những hữu hạn này, chúng ta còn có một cuộc sống vĩnh cửu mai hậu. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, hẳn chúng ta phải từ bỏ những thứ lỉnh kỉnh không tốt cho hành trình lữ thứ của mình. Cần có một cuộc sống lương thiện, thật thà, chân chính, khiêm nhường, bao dung...

Phụng Vụ Lời Chúa và câu chuyện trên đáng đáng để cho chúng ta suy nghĩ và noi gương trong việc sám hối, trở về với Chúa trong Mùa Vọng này.

Giờ đây, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy thành thật xin lỗi Chúa vì những thiếu xót của mình với Ngài và tha nhân, để tâm hồn chúng ta trở nên trong sáng, xứng đáng đón Chúa Giáng Sinh trong linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể mà lát nữa đây chúng ta sẽ lãnh nhận.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sám hối để được ơn cứu độ. Amen.

 

85.Các ngày trong tuần 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

THỨ HAI: Vì ghen tức mà trở thành bất nhân!

(Lc 5,17-26)

Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì vào thời Đức Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Đức Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.

Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Đức Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa.... Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ. Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Đức Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.

Thua keo này, họ bày keo khác…. Và, hôm nay là cơ hội để họ thực thi điều ác tâm đó với Đức Giêsu.

Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa người bất toại cách công khai và nhân đây Ngài cũng mặc khải Thiên Tính của mình khi nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!". Khi nói như thế, Đức Giêsu bị những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Ngài nói lộng ngôn vì tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa khi tha tội cho người ta. Theo quan niệm của người Dothái thì những người mắc bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt vì tội lỗi của họ. Và đương nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Khi họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì hẳn là họ phủ nhận quyền tha tội của Ngài, như thế, họ có lý do để loại trừ Đức Giêsu bằng cái chết.

Về phía Đức Giêsu: khi Ngài bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Đức Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.

Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học:

Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.

Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.

Đức tin cần được biểu lộ qua đức ái. Vì thế, noi gương những người Dothái khi xưa, hãy sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhất là những người cô thế, cô thân, để tăng thêm niềm tin nơi họ ngang qua những việc thiện chúng ta làm.

Tránh những kiểu kỳ thị như những người Pharisiêu và Luật sĩ. Đừng vì ích kỷ hay hình thức bề ngoài mà ngăn cản ơn Chúa đến với mọi người, cũng như căm tức những người vì lòng tốt mà làm được nhiều việc thiện hơn ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ơn đức tin để chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh và sống đức ái với nhau cách chân tình. Amen.

THỨ BA: Tất cả vì tình yêu

(Mt 18, 12-14)

Đức Giêsu thường làm những chuyện gây “sốc” cho những người xung quanh. Vì thế, người đương thời với Ngài và đôi khi cả chính chúng ta cũng có lối suy nghĩ rằng: Ngài chuyên làm những chuyện ngược đời, nghịch lý và khó hiểu...!

Quả thật, nếu xét theo kiểu con người thì Đức Giêsu có rất nhiều những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là:

Ngài kém trí nhớ. Khi cả một đời tội lỗi ngập đầu, đến giờ chết xin Ngài tha thứ tội lỗi thì lại cho họ lên Thiên Đàng trước nhất: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23, 42-43).

Ngài cũng là một người không giỏi luận lý. Có đời thủa nào lại bày cho chủ tiệc đi mời những người nghèo nhất đến dự tiệc cưới của con mình: “...hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc...” (Lc 14, 12-14).

Ngài còn là một người không biết tổ chức công việc. Người làm đầu tiên cũng như người làm giờ chót, tất cả đều được một đồng! (x. Mt 20, 1-16).

Trong mối liên hệ, bạn số một của Ngài lại là những người tội lỗi (x. Mt 9, 11. 12-13; Lc 15, 2; 19, 2. 5.7. 9...)

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một sự nghịch lý đó ngang qua việc Đức Giêsu bỏ 99 con chiên lại để đi tìm một con chiên lạc. Điều này chứng tỏ Ngài không biết tính toán, là người dốt toán hạng chót...!

Nếu chúng ta đứng về phía những người làm kinh tế, hẳn chúng ta sẽ kết luận Đức Giêsu là kẻ điên khùng vì những điều bất thường trên!

Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn dùng những nghịch lý đó để làm sáng tỏ chân lý. Chân lý đó chính là: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Ngài đến để cứu những gì đã mất. Ngài yêu thương đặc biệt những người tội lỗi....

Thật vậy, vì yêu thương, Đức Giêsu không để ý đến quá khứ tội lỗi của con người. Cũng vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận chuộc những kẻ tội lỗi bằng tình yêu và cái chết.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như Chúa, hành xử như Chúa. Hãy tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa như Maria Mađalêna; Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld.... Thiên Chúa không kết án con người vì tội lỗi quá khứ của họ. Nhưng Thiên Chúa nhìn vào thực tại của chúng ta như chúng ta là... trong giây phút hiện tại này.

Mùa Vọng là Mùa mời gọi chúng ta quay về với lòng thương xót của Thiên Chúa bằng thái độ sám hối để được Đức Giêsu “vác lên vai, đưa về nhà”.

Mặt khác, Mùa Vọng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an bình vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...”.

Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, Chúa đã vác lên vai và yêu thương chúng đặc biệt, điều này đã khích lệ chúng con rất nhiều, bởi vì mỗi người chúng con đều cần đến sự tha thứ của Chúa như con chiên lạc khi xưa. Amen.

THỨ TƯ: Hãy mang “ách” và “gánh” của Đức Giêsu

(Mt 11, 28-30)

“Anh em hãy mang lấy ách của tôi...”. Đây chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngài lên tiếng mời gọi những ai muốn theo Ngài thì cũng phải mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài.

Tuy nhiên, “ách” và “gánh” của Đức Giêsu thì hoàn toàn khác với “ách” và “gánh” của các Rapbi Dothái. Nếu “ách” và “gánh” của các thầy Dothái là những lề luật khắt khe và vụ hình thức, thì “ách” và “gánh” của Đức Giêsu lại trở nên êm ái và nhẹ nhàng. Bởi vì “ách” và “gánh” của Ngài cũng chính là đạo lý, cốt lõi Tin Mừng. Thế nên, hệ quả của “ách” và “gánh” đó chính là trở nên hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Như vậy, khi mang “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là chúng ta tin Ngài để trở thành môn đệ. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu thì phải trở nên giống như Ngài ở điểm khiêm nhường. Đồng thời học cho biết và sống sự hiền lành với tha nhân.

Nếu một khi chúng ta sống những đặc tính ấy của Đức Giêsu trong lòng mến, thì hẳn chúng ta sẽ được thanh thản và tâm hồn chúng ta sẽ được an vui bình an, nghỉ ngơi bồi dưỡng.

Ngày hôm nay, con người đang bị cơn lốc của kinh tế thị trường, của ăn chơi hưởng thụ, của những chân lý nửa vời lôi cuốn..., nên họ muốn cho mình được thoát ly khỏi Thiên Chúa. Nhưng khi họ đã mời Chúa đi chỗ khác, thì ngay lập tức, cuộc đời của họ trở nên trống rỗng, cô đơn, bất an và đau khổ.... Họ mong muốn được tự do, nhưng thực ra, con người đang trở thành nô lệ của những thứ mau qua chóng hết.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu chính là từ bi, nhân hậu, hiền hòa, khiêm nhường, là những hy sinh, từ bỏ, và sẵn sàng vác Thập Giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Sống mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Làm mọi việc thiện vì lòng yêu mến Chúa. Tránh kiêu ngạo, hình thức, vụ lợi. Không vì luật mà bỏ qua tình Chúa, tình người để rồi bất nhân với nhau.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con được trở thành môn đệ thực sự của Chúa khi mang trong mình và sống tinh thần của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

THỨ NĂM: Gioan Tẩy Giả là người cao trọng

(Mt 11,11-15)

Trong các cuộc diễn nguyện, lời dẫn phải đi sâu vào nội dung, và người dẫn chương trình phải là người biết truyền cảm hứng cho thính giả thì nội dung mới được toát lên và hấp dẫn. Nhưng điều quan trọng là làm sao cho người tham dự rút ra được bài học từ những cuộc diễn xuất đó mới là điều đáng nói!

Thánh Gioan Tẩy Giả đã xuất sắc trong vai trò này khi ngài trở thành người tiền hô loan báo về Đấng Cứu Thế, và, ngài cũng thành công trong việc truyền cảm cho những người đương thời về tinh thần sám hối, chuẩn bị cho giáo huấn của Đức Giêsu. Ngoài những lý do trên, ngài còn là tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, là người loan báo trực tiếp về Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan đã thực hiện thành công xuất sắc sứ mạng của mình bằng cái chết để làm chứng cho sự thật. Như vậy, ngài xứng đáng được Đức Giêsu khen ngợi: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Gioan Tẩy Giả: sẵn sàng lên tiếng loan báo Đức Giêsu cho mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Sẵn sàng sống sự khiêm tốn để cho nội dung lời loan báo có hồn và vui lòng nhường lại sân khấu cho diễn viên chính là Đức Giêsu. Có thế, chúng ta mới hy vọng Đức Giêsu khen ngợi là người có phúc như Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan khi xưa đã hết lòng vì sứ vụ và đã sống chết cho sự thật. Xin Chúa cũng ban cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng sự khiêm tốn, can đảm và trung thành như Gioan khi xưa. Amen.

THỨ SÁU: Tại sao...?

(Mt 11,16-19)

Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng trước. Nếu hôm qua, Đức Giêsu khen ngợi sự xuất hiện và vai trò cũng như sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả, thì hôm nay, Ngài khiển trách nặng nề đối với các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Gioan. Tại sao vậy? Thưa vì Gioan đã kêu gọi dân chúng sám hối để đón chờ Đấng Cứu Tinh đến. Dân chúng đã tỏ lòng sám hối, xin chịu phép rửa thanh tẩy, còn những người lãnh đạo thì cứng lòng, ích kỷ và không chịu tin. Vì thế, Đức Giêsu đã mượn một trò chơi hát đối của trẻ em thời đó, nhằm diễn tả về thế hệ này vì sự cố chấp, kém tin của họ:

Các trẻ em thường chia làm hai phe. Bên xướng bên đáp. Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn..., còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan....

Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình chọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui. Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!". Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều....

Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả cũng vậy. Lời mời gọi của ngài không được giới lãnh đạo đáp ứng, mà ngược lại, họ còn coi ông như là: người bị quỷ ám. Đức Giêsu cũng chung số phận với Gioan vì Ngài cũng đã từng bị họ lên án là người “mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".

Tin Mừng hôm nay được đọc trong bối cảnh của Mùa Vọng, hẳn sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là những việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái…, để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan để ăn năn sám hối, canh tân đời sống, ngõ hầu tâm hồn chúng con được xứng đáng đón tiếp chính Chúa Giáng Sinh hằng ngày qua việc đón nhận chính Mình và Máu Chúa. Amen.

THỨ BẢY: Đau khổ vì sứ vụ

(Mt 17,10-13)

Trong Mùa Vọng, người được nhắc nhiều nhất chính là Gioan Tẩy Giả. Bởi vì Ngài vừa là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, vừa là người loan báo, chuẩn bị dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Có thể nói: Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri kết thúc thời Cựu Ước, và khai mào cho thời Tân Ước.

Mặc dù ngài là người sống trong sa mạc, tuy nhiên, những lời giảng của ngài đã lay động nhiều tâm hồn, và ngày càng đông người đến để xin thụ huấn.

Sứ mạng của Gioan đến là để canh tân các tâm hồn, kêu gọi sám hối để được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Sứ mạng này cũng chính là của Êlia thời Cựu Ước.

Thật vậy, Êlia đến để loan báo về tình thương của Thiên Chúa trên dân Người, ngài cũng trở thành trung gian để khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, làm nguôi cơn thịnh nộ của Người. Ngài còn đóng vai trò làm người giao hòa giữa mọi người với nhau, xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong xã hội. Đến thời Gioan cũng vậy. Ông đến để kêu gọi dân quay trở lại đường chính nẻo ngay để chuẩn bị tâm hồn, dọn lòng thanh sạch để đón mừng Đức Giêsu đến. Hai con người nhưng cùng chung một sứ mạng. Hai thời điểm, nhưng cùng hướng về một mục đích. Vì thế, nếu Êlia đã phải chịu bách hại vì sứ vụ, thì Gioan cũng không thoát khỏi cảnh tù đầy và bị giết chết. Đặc biệt, chính Đức Giêsu, Ngài cũng đồng số phận với các tiên tri khi thực thi sứ mạng cứu chuộc nhân loại.

Điều này đã được Đức Giêsu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài nói: “Êlia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, ăn năn vì những lỗi lầm thiếu sót của chính mình.

Noi gương Gioan Tẩy Giả, sống cuộc sống hy sinh để làm gương cho dân chúng noi theo. Đồng thời, chia sẻ bác ái cho những người khó khăn. Sẵn sàng loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người bằng nhiều cách, nhất là bằng gương sáng.

Nếu có phải nguy hiểm đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ