Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 44
Tổng truy cập: 1361147
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU MỌI NGƯỜI
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU MỌI NGƯỜI
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào, mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu , nhưng họ đã từ chối, lại còn chống đối Ngài.
Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã khen ngợi:”Lòng tin của bà mạnh thật”, và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói:”Bà muốn sao thì được như vậy”.
Chúng ta là những Kitô hữu , ai cũng đã có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 56,1.6-7.
Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Isaia cho biết: Thiên Chúa không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
+ Bài đọc 2: Rm 11,13-15.29-32.
Trên bước đường truyền giáo, thánh Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Ngài. Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.
+ Bài Tin mừng: Mt 15,21-28.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy? Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm cho Chúa xiêu lòng: Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị quỉ ám.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lòng tin của bà mạnh thật
Lòng tin mạnh mẽ cần thiết, thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi. Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào?
Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và kiên trì xin cho được một ân huệ, bất chấp sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó: Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống... nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.
I. NÓI VỀ ĐỨC TIN.
1. Tin là gì?
Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).
Phân tích chữ TIN.
Chữ TIN bởi chữ TÍN.
Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.
Tiếng Pháp thì chữ CROIRE , nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh lừa ta.
Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có thực. Ví dụ: Tôi thấy có vùng khói trước mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.
Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách: tin là việc hoàn toàn tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể phủ nhận không tin được...
Ông J. Calvet nói:”Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi ta tới chỗ nào mà khoa học không còn gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends et lis dịch bởi Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr 91-92).
2. Thấy và hiểu mới tin ư?
Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là một chuyện khác! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà đi ngược với chân lý thôi.
Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.
Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ giáo sư. Ví dụ: một em bé, học mới trình độ toán cộng, em làm một bài toán: 1+1+1 = 3. Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm toán mà ba con số 1 bằng số 1: 1x1x1 = 1.
Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không? Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác đều chứng minh cho ta thấy rằng: chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin (Sđd, tr 88-89).
Truyện: Hiểu mới tin
Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt đông người rằng: mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi:
- Thưa ông, nếu vậy ông không tin những gì ông không hiểu ư?
- Dĩ nhiên thế.
- Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết: tại sao ông cử động được ngón tay?
- Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.
- Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động được hai tai?
Vị trạng sư bí lối không biết trả lời thế nào, bèn mắng:
- Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta phải không?
Nghe vậy mọi người đều cười.
(Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)
II. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.
Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở nguyện:”Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng ta cùng tìm hiểu.
1. Đức tin mạnh mẽ.
Tại sao một số người co đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia:”Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài:”Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel”(Mt 8,10).
2. Tin và khiêm nhường.
Chữ “con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. Dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.
Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời:”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa:”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
3. Tin và yêu thương.
Người đàn bà Canaan này có đứa con gái bị qủi ám đau khổ lắm. Bà thương con vô cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh huống này. Vì quá thương đứa con gái bị qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa. Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới đây:
Truyện: Người mẹ Arménia.
Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 thuổi kêu lên:”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng:”Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
4.Tin và kiên nhẫn.
Người đàn bà này gặp cản trở vì không phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.
Bà mẹ người Canaan này là người dân ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng:”Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng:”Lạy Ngài, xin giúp tôi”… Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng. Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết mình không thể bị từ chối.
III. ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO?
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.
Kinh thánh nói:”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng liêng. Tổ phụ Abraham được gọi là “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng.
Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi, chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc chưa gây được sự nghiệp: nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St 12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc, lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ phụ.
Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi: nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí khá hơn? Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu của ông Abraham (St 12,2-3): nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St 18,11-12)?
Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất khách quê người: mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ ABBRAHAM ĐÃ TIN.
Đức tin bao giờ cũng là một cuộc VĨNH BIỆT, CHIA LY: vĩnh biệt cái lòng tự phụ làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên. Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác: trật tự siêu nhiên của Thiên Chúa
(Nguyễn huy Lịch, báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr 6-7).
Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.
Truyện: Chính ba tôi cầm tay lái.
Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên. Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.
Lạ lùng! Một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi:
- Em không sợ chết sao?
- Sao lại sợ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu này kia mà.
Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian!
Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó:
“Tôi phải đâu một mình đơn côi?
“Tôi có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”
(Ga 16,32)
Xin Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp đỡ của Chúa. Có như thế đời sống của chúng con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.
88.Ơn cứu độ đến với dân ngoại
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do Thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị coi là dân ngoại. Tuy nhiên người đàn bà xứ Canaan được coi là dân ngoại đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Điều đó giúp ta hiểu cái cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan.
Có lẽ để thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không được sai đến với dân ngoại như bà.
Lúc đầu Chúa có vẻ lãnh đạm, lại còn nói những lời có vẻ chạm đến tự ái của bà như không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con (Mt 15,26). Theo mạch văn, thì con cái đây được hiểu là dân được chọn, còn dân ngoại như bà được ví như chó con. Đó là cuộc đấu lý hay đúng hơn là cuộc chơi chữ. Và bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách đối đáp: "Vâng. Lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bản chủ rơi xuống" (Mt 15,27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà sẵn sàng nhận một ơn huệ nhỏ Chúa ban cũng được vậy.
Thấy bà có lòng tin vững mạnh, Chúa lên tiếng ca tụng đức tin của bà, và ban cho bà được toại nguyện, cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Chúa nói với người đàn bà ngoại giáo sứ mệnh của Người là trước hết giảng dạy và chữa lành dân riêng của Chúa. Dân Chúa có được cơ hội đầu tiên để nhận lãnh ơn cứu độ, sau đó đến lượt dân ngoại.
Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại có lòng tin được hưởng ân huệ, cũng như Chúa đã mở rộng tâm hồn cho người đàn bà dân ngoại, cho viên sĩ quan dân ngoại, cho người phụ nữ dân ngoại ở giếng Gia-cóp, các môn đệ hiểu được cái sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống, một dân tộc mà thôi.
Trước những biến cố này, đức tin vào Đấng cứu độ chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Cái thủ đô và trung tâm tôn giáo của họ là Jerusalem. Tuy nhiên Tiên tri Isaia nhìn thấy một Jerusalem mới, có tính cách thiêng liêng, là trung tâm của lòng xót thương của Chúa. Bài trích sách Tiên tri Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào muốn phụng sự Chúa và yêu mến Người, thì cũng trở nên tôi tớ của Người (Is 56,6).
Jerusalem là thành được chọn cho ơn cứu độ, nhưng ơn cứu độ không phải là độc quyền cho dân thành Jerusalem mà thôi. Cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân riêng của Chúa bây giờ trở nên rộng lớn hơn vì Chúa Cứu Thế đã đến và bày tỏ mình ra, không những cho dân riêng mà còn cho cả dân ngoại nữa. Cái việc chuyển hướng từ cái nhìn có tính cách địa phương, cá biệt, đến cái nhìn có tính cách phổ quát nơi các tông đồ bắt đầu từ khi Thánh Phaolô rao giảng tin mừng cho dân ngoại.
Thánh Phaolô là người Do Thái, nhiệt thành theo đạo Do Thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan tòa để đi bách hại đạo mới là đạo Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, Thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do Thái. Chỉ khi người Do Thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc Âm của đạo mới, thì Thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng tin mừng Phúc Âm cho dân ngoại.
Người đàn bà xứ Canaan khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con bà được khỏi bệnh quỉ ám. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin và lòng kiên trung của bà.
Đối với đạo cũ, đạo Do Thái, ta cũng được coi là dân ngoại. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa Cứu Thế, ta được trở nên dân riêng, mới được chọn. Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Vậy đức tin của ta đang ở mức độ nào?
89.Vững vàng tin tưởng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm, may quá anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy dù nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh thấy choáng váng mặt mày vì vực thẳm sâu, anh cũng biết rõ là không thể bám vúi như thế này mãi được, vì thế, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: "Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn". Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: "Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn biết con có thực sự tin là Ta có thể cứu con được không". Anh thưa ngay: "Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi, con mỏi tay lắm rồi". Chúa nói: "Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi". Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: "Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với".
Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu chuyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà, trong khi những ngọn lửa phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại, rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể nào liều lĩnh đi vào, trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa sổ trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: "Nhảy xuống đi". Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: "Ba ơi, con không thấy ba đâu cả". Cha nó lại quát: "Ba thấy con, nhảy đi", đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hình ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: "Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta", và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: "Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả", và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc chúng ta thật cần đến Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chữa con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.
90.Lời cầu xin kiên định - Huệ Minh
Chuyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Qua đó, ta đọc chuyện bà Canaan để hiểu rằng niềm tin của ơn cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Và ta thấy cuối cùng bà đã được Đức Giêsu lắng nghe, ta thấy đức tin của bà thì luôn luôn mãn nguyện như lòng bà mong muốn.
Trang Tin Mừng hôm nay ta bắt gặp một người đàn bà xứ Canaan đi ra kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi…”. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này.
Và ta thấy sự thật khi bà xin không phải cho bà, bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chả có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
Lời cầu xin của bà biểu lộ một niềm tin vững chắc vào Chúa Giêsu, xem Ngài là Đấng Mêssia, và lời cầu xin có vẻ bi thảm thống thiết, đáng thương, tuy không phải xin cho bà, nhưng là cho con gái của bà. Bà đã xem nỗi bất hạnh của đứa con gái như chính của bà. Hơn nữa bà mang lấy tình mẫu tử mà thưa với Chúa Giêsu, chính tình mẫu tử ấy giúp bà cam chịu cách đối xử của Chúa Giêsu, và cũng chính tình mẫu tử ấy bà có thể thấy được niềm thương cảm của Chúa Giêsu qua lời Ngài nói. Lời van xin nay còn van lên một cung giọng phụng vụ “xin Chúa thương xót chúng con”.
Ta nể phục bà Canaan này bởi lẽ bà đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
Một lời khác bà cũng thưa với Chúa Giêsu mà chúng ta lấy lại trong phần giáo đầu kinh phung vụ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Để khơi dậy và làm sáng tỏ đức tin của bà ngoại giáo này, Chúa Giêsu đã dùng một khoa sư phạm tuyệt vời: trước hết là thinh lặng “ Người không đáp một lời nào”. Kế đến Ngài thẳng thắn từ chối. Nhưng bà vẫn bám riết theo sau Chúa Giêsu mà kêu xin, đến mức các môn đệ phải nao lòng “xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”. Chúa Giêsu đáp “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Cũng như Chúa đã chỉ thị khi sai nhóm mười hai “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn, là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10, 5 – 6).
Đây là chương trình của Thiên Chúa qui tụ dân Israel trước rồi mới đến muôn dân thiên hạ. Tuy vậy tấm lòng của Chúa Giêsu vẫn hằng rộng mở trước lời cầu xin của người dân ngoại như viên bách quản ở Caphácnaum, người đàn bà xứ Canaan. Họ là hoa quả đầu mùa sứ điệp của Ngài, sau đó các môn đệ Ngài sẽ tiếp nối để mở rộng cửa tiếp đón muôn dân nước vào Nước Trời. Lời từ chối của Chúa Giêsu cho bà ấy biết, bà không thuộc về dân của Ngài “không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Người đàn bà tinh ý , lũ chó con trong nhà cũng có khi được chủ cưng mà cho ăn những mẫu bánh vụn, bà trả lời với tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Dothái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa, là những bảo chứng của phúc lộc vương quốc của Thiên Chúa, cho dù Chúa Giêsu xử đối cách bà cứ một mực “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Chúa Giêsu thán phục đức tin của người đàn bà xứ Canaan, cũng như với viên bách quản ở Caphácnaum. Cách đối xử của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đức tin kiên vững của người đàn bà Canaan, và một gương mẫu cho mọi người trong việc cầu nguyện, đức tin là yếu tố căn bản.
Trong việc cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, noi gương người đàn bà trong phúc âm luôn kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm.
Hiểu như thế chúng ta sẽ vui vẻ bình an trong đời sống phụng sự Chúa, và luôn thưa với Chúa “Lạy Chúa, xin cứu giúp con”. Đức tin của người dàn bà Canaan cũng là cơ hội làm cho đức tin của các tông đồ thêm vững mạnh, vì vậy chúng ta cần sống đức tin thế nào để giúp cho đức tin người khác được sâu xa hơn. Chúng ta cũng cần giúp cho nhiều lương dân có đức tin, biết cầu nguyện với lòng tin để họ đáng được ăn bánh sự sống Chúa ban cho. Noi gương người đàn bà Canaan chúng ta còn cần biết cảm thương nỗi đau khổ của người khác, và cầu nguyện cho họ với lòng tin, để nhờ đức tin của chúng ta họ được ơn giải thoát.
Hội Thánh sống giữa lương dân, ta có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
91.Suy niệm của John Nguyễn
1. Thái độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.
2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go - khi thắng khi bại - với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại diện cho dân ngoại.
Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.
3. Thái độ và chủ ý của Đức Giê-su
Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ » (Mt 28,19).
Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân trọng này.
Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.
4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!
5. Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.
Hiện nay, các Ki-tô hữu - chiếm 1/3 thế giới - đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài không khác gì các Pha-ri-siêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.
92.Suy niệm của Jos Vinc. Ngọc Biển
MÓN QUÀ KỲ DIỆU VÀ LINH THIÊNG CỦA “HƠI THỞ”
Bạn thân mến,
Trong cuộc sống:
Nếu bạn đang lo toan…, biết trước những điều sắp xảy đến, khó có thể vượt qua, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ lấy lại sự bình tâm.
Nếu bạn cảm thấy công việc quá căng thẳng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ giải tỏa được bức xúc.
Nếu bạn đang bị cám dỗ chiếm đoạt bằng mọi cách…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nhận ra điều nên làm và điều không nên làm.
Nếu bạn đang có ý định vô ơn với người đã làm ơn cho bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình không được phép bội nghĩa vong ân.
Nếu bạn đang bị cám dỗ sống man trá…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm lại được tiếng Lương Tâm để làm việc thiện và bảo vệ chân lý.
Nếu bạn cảm thấy mình bị thiệt thòi, đối xử không công bằng về một điều gì đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy mình an vui.
Nếu bạn cảm thấy mình không bằng người khác về sắc đẹp, học vấn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình hơn rất nhiều người.
Nếu bạn cản thấy mình sống ích kỷ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm được động lực để sống quảng đại và vị tha.
Nếu bạn cảm thấy mình đang là người sống vô trách nhiệm, ăn bám người khác và vô cảm với tha nhân…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy tính cộng đoàn đang cần sự hiện diện và cộng góp của bạn.
Nếu bạn đang cảm thấy chán trường và muốn kết thúc cuộc sống này bằng cái chết…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy được giá trị của sự sống.
Nếu bạn đang muốn dành dật một điều gì đó bất chính…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy đó là hành động của kẻ tiểu nhân.
Nếu bạn đang muốn nhận hối lộ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy buồn cười, vô lý khi cướp đi gói mì tôm của người nghèo khó đang cần nó để sống qua ngày.
Nếu bạn ham hố chức quyền…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy trách nhiệm phải làm chứ không phải quyền hành.
Nếu bạn muốn ăn trên ngồi trước…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy xấu hổ vì đó là nguyên lý của trẻ con.
Nếu bạn ham hố tiền bạc và tìm mọi cách để đạt được…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy chết là hết, sao phải vất vả và làm nô lệ cho nó!
Nếu bạn có suy nghĩ người chung quanh đều là kẻ thù…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ ngộ ra một điều là đôi khi người ta tốt hơn mình.
Nếu bạn có ý định nói xấu người khác…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy rằng xấu miệng mình trước.
Nếu bạn thấy mình không thể hợp tác được với người khác vì họ bất đồng chính kiến với ta…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mâu thuẫn sẽ làm sáng tỏ một điều khác tốt hơn.
Nếu bạn cảm thấy không thể sống được với những người không cùng xuất xứ với bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy có một nguyên lý thuận là: hiệp nhất trong đa dạng.
Nếu bạn có ý định trả thù ai đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nghiệm ra rằng cần đào thêm cái hố nữa để chôn mình trước và kẻ thù sau.
Nếu bạn đang bị mất phương hướng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm ra được đích đến của cuộc đời.
Và, nếu bạn không còn mục đích nào tốt để đi…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ có một hướng đi mới để đạt được mục đích tốt.
Tại sao vậy?
Thưa, “Hơi thở” là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Bao lâu còn hơi thở, ấy là lúc bạn vẫn sống. Hết thở, bạn sẽ chết.
“Hơi thở” là hình ảnh về Chúa Thánh Thần, mà Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải mọi vấn nạn đang thường trực trong trái tim, suy nghĩ và toàn thể con người bạn.
“Hơi thở” chính là lời cầu nguyện. Nhờ lời cầu nguyện mà bạn được tiếp thêm năng lượng từ Chúa để bạn có đủ sức vượt qua.
Hơi thở thật cần thiết cho sự sống của con người và động vật thế nào thì đời sống cầu nguyện cũng cần cho đời sống thiêng liêng như vậy.
Quả thật:
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như bị đi trong rừng vắng một mình với nhiều bóng đen vây hãm.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như thuyền không người lái và lênh đênh mất hướng.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như đoàn tầu bị trật khỏi đường ray.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người đứng ở ngã ba đường và không biết đi về đâu.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như diều đứt dây.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người lính ra trận và không có tướng.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy mình chỉ là một hòn đảo đơn côi.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người vô nghĩa trên đời.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống này không có ý nghĩa gì và sự hiện diện của bạn chỉ là cái nợ đời.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cá bị vớt lên khỏi nước và sẽ phải chết vì không có môi trường sống.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cành bị lìa khỏi cây.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cái xác không hồn, lập lờ như thây ma, trôi dạt như bèo lá.
Và:
Khi cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy an vui và hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc đời.
Khi cầu nguyện, ta với Chúa và Chúa với ta như hình với bóng. Ta sẽ cần đến Ngài và Ngài luôn ở bên ta.
Khi cầu nguyện, ta được gọi Chúa là Cha và có nhau là anh em.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình còn có bổn phận cầu nguyện và làm ơn cho cả kẻ ghét bỏ chúng ta.
Khi cầu nguyện, ta sẽ không vướng vào vòng lao lý là hăng say kết án người khác.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình yếu đuối và Chúa quyền năng.
Khi cầu nguyện, ta sẽ thấy: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
Khi cầu nguyện, ta sẽ tìm thánh ý Chúa hơn là công việc của Chúa.
Khi cầu nguyện, ta sẽ học được bài học khiêm nhường và hiền hậu của Thầy Giêsu.
Khi cầu nguyện, ta sẽ khám phá ra sự sống từ cây thập giá chết.
Khi cầu nguyện, ta sẽ không có ý định trở thành một ông thánh buồn, vì làm ông thánh buồn là một điều đáng buồn.
Khi cầu nguyện, ta sẽ vui vẻ đến với những người không có gì để đền ơn cho ta.
Khi cầu nguyện, ta sẽ kiên tâm theo Chúa đến cùng. Sự phục sinh chỉ đến với những ai bền đỗ trong sự trung thành.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy cần phải làm nhiều chuyện tốt hơn để bù đắp lại quãng đời phóng túng, lêu lổng đã qua.
Vậy thưa bạn,
Nào chúng ta còn chần chờ gì nữa, hãy mở rộng mọi cơ năng để đón luồng “Sinh Khí Mới” vào trong lá phổi vốn đã héo úa tàn phai, để chúng ta có một lá phổi tràn trề sinh lực của người lực sĩ ân sủng.
Chúa đang ngoài cửa lòng ta, Ngài đang gõ cửa tâm hồn ta và đang muốn cắm lều trong ngôi đền của Ngài là thân xác chúng ta.
Muốn đạt được điều đó, cần loại bỏ hai thái cực:
Cho rằng cuộc đời này ngắn ngủi, nên cứ phải gồng mình để chạy đua kẻo trễ. Tìm mọi cách để chiếm đoạt…, nếu không thì hết cơ hội.
Cho rằng cuộc đời này còn dài, nên cứ mải mê với sự đời. Họ không màng chi đến tương lai. Vì thế, cứ phóng túng cho bõ công vì quan niệm đời còn dài mà!
Thiết nghĩ, những thái cực trên mang nặng tính tiêu cực và hoàn toàn không hợp với giá trị cuộc sống.
Điều phù hợp là: chỉ có giây phút hiện tại là đẹp nhất. Sống trong tình yêu của Chúa cách trọn vẹn, đời sẽ đẹp, bởi nó được dệt nên từng triệu giây phút đẹp nhất. Đừng chờ đợi tương lai. Đừng hồi tưởng quá khứ. Bởi nó chưa tới hoặc đã qua.
Có hồi tưởng hoặc chờ đợi là để tìm ra ý nghĩa qua kinh nghiệm và để sống hiện tại cho tốt hơn mà thôi. “Cần phải nắm lấy cơ hội xảy ra mỗi ngày để chu toàn những công việc tầm thường như một cách phi thường" (Ðường Hy Vọng số 818 x. số 997).
Được như thế, chúng ta sẽ rất khiêm tốn để thưa với Chúa rằng: “lạy Chúa, nếu Chúa gọi con về với Chúa ngay lúc này, con vẫn cứ chơi, vì con đã chuẩn bị trong từng giây phút hiện tại”.
Bạn thân mến,
Các thánh là những người đã sống như thế bạn ạ. Các ngài đã ngã gục nhiều lần, nhưng lần cuối, tức là hiện tại các ngài đã đứng dạy và đứng luôn.
Cầu mong cho bạn và tôi, mỗi khi bình minh ló rạng, ta hãy tạ ơn Chúa vì Ngài ban cho ta thêm một ngày nữa để yêu thương. Đến khi chiều về, ta cũng hãy tạ ơn Chúa vì tất cả đều là ân sủng cho những ai yêu mến Ngài.
Giờ đây, xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy hiệp nguyện với Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cất lên lời cầu nguyện chân thành và đầy yêu mến sau:
"Lạy Chúa Giêsu, con sẽ không chờ đợi nữa. Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu.
Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng (Ðường Hy Vọng số 977).
Như Chúa, lạy Chúa Giêsu, Ðấng đã luôn làm những gì đẹp lòng Thiên Chúa Cha.
Mỗi giây phút con muốn thưa với Chúa rằng: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là "một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu" với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Hội Thánh: "Vinh danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần... Amen".
93.Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”(Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
1. Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc - đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.
Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: "Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống" (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị , nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật" và hẳn nhiên là Chúa phán "Bà muốn sao thì sẽ được vậy" (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
2. Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc... thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.
94.SNLC. các ngày trong tuần 20 TN.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
THỨ HAI
TIỀN CÓ MUA ĐƯỢC NƯỚC TRỜI KHÔNG?
(Ed 24, 15-24; Mt 19, 16-22)
Chúng ta không lạ gì câu nói: “có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà vẫn không mua được. Điển hình như: như sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “ Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống...”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?
Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.
Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.
Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ đồng tiền!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.
Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn, chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy là: con đường duy nhất để nên hoàn thiện và được sống đời đời là dùng tiền của thế gian để mua lấy Nước Trời qua việc thực thi bác ái. Amen.
THỨ BA
TẠI SAO GIÀU CÓ LẠI KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI?
(Ed 28, 1-10; Mt 19, 23-30)
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nói trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp hạnh phúc đời đời.
Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.
Quả thật, vào được Nước Trời thế nào khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp dật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc...! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác...!
Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội. Nếu được, hãy lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.
Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao và làm giàu theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.
THỨ TƯ
HÃY ĐI VÀ LÀM VƯỜN NHO CHO CHÚA
Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
(Ed 34, 1-11; Mt 20, 1-16a)
“Hãy đi và làm vườn nho cho Chúa”. Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta.
Vườn nho được hiểu là Hội Thánh. Người mời gọi là chính Thiên Chúa. Đi làm vườn nho được hiểu là công tác truyền giáo. Việc Thiên Chúa trả lương cách hậu hĩnh và công bằng muốn diễn tả Người là Đấng Giàu Lòng Thương Xót.
Vì thế, lời mời gọi đi làm vườn nho không có nghĩa là một bản hợp đồng lao động, và việc nhận lương không căn cứ vào thời gian hay công việc. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Hội Thánh. Thật vậy, Đức Giêsu muốn nói đến tính phổ quát của của ơn cứu độ, vì Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, cho người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Đồng thời Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: mỗi người, Chúa đều trao cho những nén bạc và tùy khả năng để sinh lời. Phần thưởng dựa vào tiêu chuẩn là người đó có thực sự cố gắng và chu toàn hay không mà thôi.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Thánh nhân trở thành nổi tiếng không phải vì tài cao, hay xuất thân từ một gia đình quý tộc, thế giá trong xã hội. Nhưng thánh nhân được biết đến là nhờ vào cuộc đời tận tụy lo cho phần rỗi các linh hồn.
Thánh Bênađô đã phấn đấu hết sức để phục vụ Nước Trời và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa đến với nhân loại. Vì thế, ngài rất chú trọng thật nhiều đến công việc của Hội Thánh. Ngài đã giúp ích nhiều cho Hội Thánh bằng cách làm tư vấn cho nhiều vị Giáo Hoàng, quận công và sứ thần Tòa Thánh.
Quả thật, thánh nhân là người đã hết lòng lo lắng cho vườn nho của Chúa là Hội Thánh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thưởng công ngài cách xứng đáng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết, biết gắn bó với Hội Thánh và trung thành với bổn phận của mình. Amen.
THỨ NĂM
Y PHỤC LỄ CƯỚI
Thánh Piô X, Giáo Hoàng
(Ed 36, 23-28; Mt 22, 1-14)
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu lấy hình ảnh hôn lễ để nói về Nước Trời. Ông Vua chính là Thiên Chúa Cha. Hoàng Tử là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Khách được mời là dân Dothái, nhưng họ đã khước từ, vì thế khách được mời là hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Thưa! Đó là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài.
Hôm nay phụng vụ mừng kính thánh Piô X Giáo Hoàng, ngài là một vị thánh được biết đến với sự đơn sơ, chân thành và mến yêu Giáo Hội, tôn sùng Thánh Thể Chúa cách đặc biệt.
Cuộc đời của thánh nhân là một cuộc sống nghèo. Sinh ra trong cảnh nghèo. Lớn lên trong sự thiếu thốn. Thành công nhờ sự cộng góp của người thân.... Cái nghèo đã ảnh hưởng và chi phối con người, sứ vụ của ngài rất nhiều. Vì thế, khi làm linh mục, ngài luôn sống trong tinh thần nghèo khó, tận tụy với giáo dân và thương yêu người bé mọn. Tinh thần này tiếp tục triển nở sau khi ngài đã làm giám mục và giáo hoàng.
Quả thật, đức thánh Giáo Hoàng Piô X đã trở nên một người xuất sắc trong y phục lễ cưới. Bởi vì ngài đã sống theo tinh thần mới của Đức Giêsu là mặc vào trong mình sự hiền hậu, nhân từ, bao dung, tha thứ và yêu mến những người nghèo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại việc mình được mời đến dự tiệc Thánh Thể và Lời Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mong thay, mỗi người chúng ta, khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.
THỨ SÁU
“MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI”
(Ed 37, 1-14; Mt 22, 34-40)
Hôm nay thánh Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ tiến vào thành Gêrusalem. Trên hành trình ấy, Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng khi họ hỏi Đức Giêsu về chuyện kẻ chết sống lại. Thấy vậy, nhóm Pharisêu vào cuộc, họ họp nhau lại và cử một người đại diện tiến đến để thử Đức Giêsu để tìm cớ tố cáo Ngài, nhà luật sĩ hỏi Ngài: "Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi". Nhân đây, Đức Giêsu giúp họ nhớ lại một điều luật đã được nhắc đến trong sách Lêvi: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Tại sao Ngài lại nhắc lại khoản luật đó?
Thưa, bởi vì những người Pharisêu, họ chỉ giữ Luật hình thức bên ngoài, mà bên trong thì hoàn toàn trống rỗng. Họ không yêu thương anh em mình cách thật lòng. Vì thế, chính việc giữ Luật của họ đã phá vỡ đi ý nghĩa, cốt lõi tinh thần của Luật.
Với Đức Giêsu, khi Ngài đến, sứ vụ của Ngài là kiện toàn Lề Luật và làm cho chúng trở nên trong sáng. Đồng thời, Ngài muốn cho các môn đệ, những người sống cùng thời và nhất là giới lãnh đạo... ngày càng sống đúng cốt lõi của Luật hơn. Tinh thần và nội dung của Luật chính là: “Mến Chúa và yêu người”. Vì thế, với Đức Giêsu, yêu thương anh em là tuân giữ Lời Ngài. Không yêu thương anh em là không tuân giữ Lời Ngài. Nói mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Thật vậy, nên đã có lần Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”.
Đây không chỉ là lời khuyên, mà còn là một lệnh truyền, một sứ mạng đòi buộc các môn đệ và tất cả chúng ta là những kitô hữu phải thi hành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người phải là cốt lõi của Luật. Thiếu một trong hai thì chẳng những không giữ đúng tinh thần của Chúa mà còn có nguy cơ bóp méo Luật của Ngài và mặc cho nó sự bất nhân trong khi thi hành Luật.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mến yêu Luật Chúa và biết thi hành Luật Chúa cách trung thành. Amen.
THỨ BẨY
HÃY TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN
(Ed 43, 1-7a; Mt 23, 1-12)
Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã nói như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân" (Thông điệp "Evangelii Nuntiandi" số 41). Còn thánh Augustinô thì nói: “Chúng ta là tiếng, Đức Giêsu là Lời, là nội dung của tiếng, của âm thanh”.
Như vậy, người rao giảng Lời Chúa, phải là người trung thành. Trung thành với Lời Chúa và sứ điệp của Ngài. Trung thành với sứ vụ qua lời loan báo. Trung thành với nội dung Tin Mừng. Không thể chấp nhận người tông đồ ra đi loan báo Lời Chân Lý, mà họ lại thuộc về thành phần: “ngôn hành bất nhất”, tức là không thật, hai lòng, nói một đàng, làm một nẻo.
Sự giả tạo này được Đức Giêsu cho thấy qua hình ảnh những người Pharisêu: “Họ là những người nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào”; mặt khác, họ còn là những người thích sống hình thức đến độ: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’. Đức Giêsu không muốn để các môn đệ của mình rơi vào tình trạng như vậy, nên Ngài quay sang các ông và nói: “Phần các con thì không được vậy…”.
Vì thế, người tông đồ phải là người: “nhất ngôn, nhất hành”, nếu không, thay vì làm chứng, chúng ta lại rơi vào tình trạng phản chứng.
Thoạt nghe, chúng ta có thể dè lưỡi, bữu môi khinh chê những người kinh sư và Pharisêu! Nhưng thực ra, nếu lắng đọng lại một chút thì hẳn lời trách móc của Đức Giêsu khi xưa lại là lời cảnh tỉnh cho chính chúng ta hôm nay.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta sống trong cung cách của những kẻ bất nhân. Không khoan nhượng. Không cảm thông. Sống lối sống xa hoa, hình thức, kỳ thị, ích kỷ, kiêu căng, trác táng, ngông nghênh, ngạo nghễ và xét đoán...
Những lúc như thế, ấy là lúc nhãn hiệu Pharisêu, vẫn lủng lẳng quanh cổ chúng ta! Và như một hệ lụy, chúng ta nói về Chúa là đấng nhân từ, hiền hậu, khiêm nhường và yêu thương làm sao khi hình ảnh của Ngài đang méo mó nơi hành động xấu xa, lời nói chua chát, lối sống buông thả... của ta! Như vậy, chúng ta trở thành những người đang phá hoại sứ điệp yêu thương của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta cần phải tránh những thứ xa hoa, diêm dúa bên ngoài. Hãy tập trung vào cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chứ đừng giả dối như những kinh sư và người Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa, nhiều khi chúng con tìm mọi cách để uốn nắn ý của Chúa theo ý chúng con. Nhiều khi chúng con tìm vinh dự và muốn được trọng vọng bản thân thay vì làm vinh danh Chúa. Những lúc đó, chúng con đã đi sai đường, trệch lối theo tinh thần của Chúa, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.…
95.Hai đoản khúc suy tư
(Lm. Richard Leonard SJ. - Mai Tá lược dịch)
“Trời nào đã tạnh cơn mưa,”
“Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn.”
(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Cơn mưa cuộc đời khi xưa nay tạnh rơi. Giông tố lòng Đạo, lúc này vẫn ngổn ngang, chưa muốn tàn. Thật khó tàn, khi lòng nguời còn chứa chất nhiều tình-tiết rất Sa-tăng, như trình-thuật còn diễn-tả.
Trình thuật hôm nay diễn và tả về đời đi Đạo, là sống với thực tế cả một đời, trong đó có các sinh hoạt cả Đạo lẫn đời. Trong sinh hoạt Đạo, người tín hữu gặp đủ mọi loại người, từ thần thánh đến quỷ ma. Nơi đây, người đi Đạo vẫn cứ suy tư những chuyện trên trời lẫn trần gian, địa ngục. Ở đây, người người vẫn quan tâm đến đủ mọi thứ truyện kể. Những truyện kể như bên dưới:
Vào buổi sáng đẹp trời ngày của Chúa, nhiều người trong huyện đã thức giấc chuẩn bị để đến nơi nguyện cầu. Trước giờ lễ, người đi cầu nguyện có thói quen xì xào nhỏ to phía bàn quỳ. Họ kể cho nhau nghe những chuyện gia đình, và cuộc sống. Nói với nhau, về những chuyện có liên quan đức tin, kinh kệ, không thiếu xót.
Bất chợt, Sa-tăng xuất hiện như người thật bằng xương bằng thịt. Có người rú lên, sợ hãi; bỏ Chúa, bỏ Mẹ, chạy ra cửa tìm đường thoát thân. Chẳng mấy chốc, ngôi thánh đường trở nên êm ắng, lạnh tanh. Duy có lão bà vẫn lặng yên, bình thản ngồi nơi bàn quỳ. Chẳng bày tỏ nỗi lo lắng, xúc động. Khiến Sa-tăng tức giận, ngấc đầu ngạo mạn, hỏi:
- Này, lão bà, mụ có biết ta là ai không?
- Đương nhiên là biết.
- Thế, mụ không sợ ta sao?
- Lão muội đây chẳng bao giờ sợ quỷ ma!
- Sao mụ lại dám coi thường ta, đến như thế?
- Muội đây, 48 năm trời từng sống với người anh của ngươi, nay còn biết sợ chi ai!…
Đến hôm nay, ở nhiều nơi có văn hóa khác biệt, vẫn còn thấy tổ chức lễ hội đình đám, lớn nhỏ. Ở đó, người văn minh thời đại vẫn đưa đẩy, kéo lôi mọi người về với quyền lực của tà thần, tăm tối. Điều này dễ nhận hơn, vẫn có vào thời của Đức Chúa. Những nào: bệnh trầm trọng, thân hình quái dị, thần trí bại xuội, lại đến: dịch tễ nhiễu nhương, thiên tai hãm hại. Lại cả những trận-địa nhục-nhã thất-bại, với đấu tranh.
Cứ thế, người người quy lỗi cho đó là hình phạt từ Đức Chúa. Hoặc, do ma quỷ nhúng tay vào. Dù, không coi đó là chuyện “khó tin nhưng có thật”, tai mắt ta vẫn cứ văng vẳng đâu đó, quả quyết của người đời, thời vi tính: quỷ thần có thật.
Truyện kể hôm nay, về người nữ miền Tyrô - Siđôn là ảnh hình minh chứng niềm tin nơi con người. Người đàn bà quê mùa ấy cho rằng: ma vương vốn lộng hành, nên con gái mình mới bị dày vò, vật vã. Thật ra, con gái bà chưa hẳn đã bị quỷ ám, hành hạ. Nhưng, bà ngại con mình mắc chứng ngặt nghèo, chẳng thể chữa. Thêm vào đó, bà còn bị người đời khinh khi, coi thường; bị những ánh mắt đầy đối kháng.
Ghét ghen. Kỳ thị. Suốt đời, bà chỉ là dân ngoài Đạo, luôn sống bên lề cộng đồng cao sang, người Do Thái. Nói tóm lại, chuyện kể về bà không làm Đức Kitô yên lòng. Và, nhìn từ góc cạnh nào đó, tình trạng của bà xem ra không ổn. Nơi bà, là cả một khác biệt về sắc tộc và Đạo giáo. Bởi vậy, môn đệ trung kiên của Đức Chúa mới nghĩ: dù bà có mon men đến gần, cũng chẳng xin được điều gì lớn lao, nơi Thầy mình.
Và xem ra, Ngài biểu đồng tình với các môn đệ về chuyện này, đã làm ngơ. Nói cách khác, người nữ phụ nọ nếu không cả gan nài nỉ, có lẽ bà cũng chẳng đạt được ân huệ khó kiếm, từ người Do Thái. Đồng thời, lời ví von về người đàn bà ngoài Đạo, như lũ chó con hèn hạ, được xã hội trong Đạo mặc nhiên công nhận, vào thời ấy.
* Một lần nữa, nhờ lanh trí đối đáp, tin vào sự kiên nhẫn của mình, người nữ phụ miền Tyrô - Siđôn mới làm cho sự thể trở nên khác thường. Bà thuần hóa mọi gièm pha, ghét ghen kỳ thị của người đời, vào thời ấy. Bà có lý khi biện giải rằng: dù có bị coi rẻ như lũ chó đớn hèn đi nữa, bà vẫn không là loài thú hoang, đáng bị bỏ rơi ở bên ngoài.
Trái lại, bà vẫn coi mình như loài thụ tạo thuần thục, chỉ quanh quẩn trong nhà chầu chực một ân huệ, Chúa đánh rơi. Bà biết phận, và hiểu mình hơn ai hết. Hiểu rằng: là thân phận bọt bèo, bà mới kéo được về phía của mình, sự quan tâm chú ý của Đức Chúa.
Có như thế, con bà mới được cứu chữa. Có như thế, lớp hậu duệ là chúng ta mới học thêm được bài học, là: Nước Trời luôn xuyên phá rào cản chặn ngăn ân huệ xuống ban cho chúng ta. Ơn cứu độ được ban xuống bằng những phương thức khá đặc biệt. Đặc biệt hơn, vẫn qua trung gian người ngoài Đạo.
* Phúc Âm hôm nay, cho thấy sức mạnh của lời cầu, qua trung gian một người. Và người ấy, lại là người ngoài Đạo. Người nữ trong truyện đã phải trải qua giờ phút căng thẳng, của đời bà. Bà cố chịu căng thẳng, nhục nhã không phải cho mình, mà cho con gái. Niềm tin của bà, là gạch nối qua đó cuộc sống của người khác được cải thiện. Bà làm thế, còn để cho tất cả chúng ta, nữa. Là tín hữu, ta thường cho bạn bè người thân biết rõ, ta luôn quan tâm nguyện cầu, cho họ. Cứ thường tình, khi nghe chuyện, dù không cùng niềm tin ai cũng đều cảm kích.
- Thành thử, khi nguyện cầu cho bất cứ ai, dù ở nhà hay tại nguyện đường, dù buổi Tiệc Thánh, hoặc gặp lúc có liên hoan, đây là giờ phút cao đẹp nhất cho tất cả. Ta học nhiều điều từ giáo xứ/cộng đoàn, cũng là nhờ vào nguyện cầu đỡ nâng như thế. Đây là giây phút quên mình đi, để chỉ nghĩ đến người khác. Cho người khác. Dù chỉ một khoảnh khắc. Dù, theo cách dị biệt.
Bởi, cầu và nguyện như thế, là tự đặt mình vào cảnh tình của người khác. Đến với người khác, bằng hiệp thông. Cầu và nguyện như thế, sẽ nhắc nhớ ta một điều: khi dự tiệc khoản đãi “cấp trên cao”, hay ở đâu đó, có thể vẫn có người nào đó quanh ta, mỏi mệt đang mong chờ nhặt nhạnh, dù chỉ là vụn bánh đánh rơi. Dù, chỉ là cơm thừa canh cặn. Với họ, đó là hạnh phúc. Thứ hạnh phúc, mà họ chưa một lần ấp ủ.
- Nguyện cầu sẻ san, còn khuyên ta nên ra đi về chốn bùn đen cuộc đời, ở nơi đó, có những người đang xuống cấp, ngã ngựa. Có ra đi, ta mới có thể đỡ nâng đàn con Đức Chúa ở chốn nghèo hèn, được lên nơi đủ ăn, đủ mặc. Nơi mọi người, đáng được hưởng ơn lành hơn ai hết. Sở dĩ đã nên nghèo, vì không ai để tâm đoái hoài đến họ. Nhưng thật ra, họ đều là con cái. Là, tạo vật của Đức Chúa.
- Trong tinh-thần cảm-nghiệm được những điều như thế, cũng nên ngâm lên lời thơ rằng:
“Trời nào đã tạnh còn mưa
Mà giông-tố cũ còn chưa muốn tàn,
Nhà người tôi quyết không sang
Thù người, tôi những đem nằm nghiến rằng.
Quên người – nhất quyết tôi quên,
Mà sao gặp lại còn kiên-nhân chào.”
(Nguyễn Tất Nhiên – Trúc Đào)
Tình người ở đời, xưa nay vẫn là thế. Tình người ở nhà Đạo, lúc này phải khác xưa. Khác, người, khác thời, khác cả tinh-thần mà mọi ngưòi cần đối xứ với nhau hệt như thành-viên của Nước Trời, ở đời. Vẫn cần ghi nhớ đến thiên thu.
96.Chuyện Phiếm
Đọc trong tuần thứ 20 mùa Thường niên năm A
“Hãy cứ là tình-nhân,”
“Để tháng ngày hoa mộng.
Để hẹn hò yêu đương,
Và khắc khoải chờ nhau.”
(Tú Minh – Hãy Cứ Là Tình-Nhân)
(Mt 12: 38-42)
Giả như có người thời nay nghe nhạc-bản này, lại hiểu chữ “tình-nhân” như nhân-tình, hoặc “người tình” nào đó mình từng gặp, thì còn được. Chứ đằng này, vừa mới nghe xong hai chữ “tình-nhân” lại hiểu ý của người viết như câu hát tiếp, e không ổn. Ổn sao được, khi người em của ai đó, cứ hát mãi những câu nặng chình-chịch, những bảo rằng:
“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng.
Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ...”
Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán.
Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.”
(Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, nói thế là nói lên lập-trường của người nghe hoặc hát ca-từ mang dáng vẻ lơ-mơ/trữ-tình, nhưng thật ra: đâu muốn thế. Không muốn, là bởi: thế-gian này, đầy những chuyện cụp-lạc, lại bất ổn, làm sao đảm-bảo được “tình nồng đôi lứa” sẽ “cứ mãi là tình-nhân” được?
Thật tình mà nói, khi nhớ lại chuyện đời nhiều éo-le nên em mới hát thế, chứ mai kia/mốt nọ anh đây “cao bay xa chạy” rồi, làm sao chắc được rằng: em và anh vẫn trung-kiên, chung tình để chỉ là tình-nhân, thôi?
Thật tình mà nói, mỗi khi bàn chuyện đời/chuyện người, thì anh đây nhiều lúc, đã thấy khó lòng. Anh đi trước còn tránh được, chứ em đây lẽo-đẽo theo sau làm sao né?
Thật tình mà nói: ví dù anh và em có hát câu trữ-tình ấy, lại gồm tóm ý/lời cũng như sau:
“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em.
Và nắm tay nắm tay cho hồn em ngất ngây.
Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời
Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.”
(Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, bàn chuyện đời với người đi Đạo, cũng thấy nhiều người từng nói và hát lời yêu-thương da-diết quá, đến khi giáp mặt thực-tế, mới thấy cuộc đời thật không dễ. Vì thế, nên người đời nay, vẫn cứ phải tìm đến thánh-nhân/Mẹ Hiền để cầu khấn các đấng giúp mình thành “mãi mãi là tình-nhân” theo nghĩa: vẫn yêu nhau mãi, dù không thành vợ/chồng.
Thật tình mà nói: đòi hỏi như thế, khác nào trông chờ một phép lạ từ “Bà Tiên”, hệt như truyện kể ngắn gọn, ở dưới:
“Bác-sĩ nọ, bước vào phòng mạch với dáng vẻ trang-nghiêm, nhưng hy-vọng. Gia-đình bệnh-nhân chờ tin vui, cứ hồi hộp nhìn ông đợi một quyết-định quan-trọng. Ông chậm rãi nói rất khẽ cốt để mọi nguời đều nghe thấy:
-Tôi báo cho ông bà cùng quí vị đây biết, là: “phép lạ” có thể xảy ra ở đây/hôm nay, nhưng điều này có thành hiện-thực hay không, vẫn tùy thuộc một người...
-Là ai vậy, thưa Bác sĩ? Xin cho biết để chúng tôi đến đó mà tìm! Giọng người mẹ của bệnh-nhân trẻ ra như ứ-nghẹn từ trong cổ.
-Người đó là Bà Tiên, nhưng...
-Nhưng, sao Bác sĩ? Người cha tiếp tục hỏi dồn.
-Nhưng, đến giờ phút này, phép lạ vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào quyết-định cuối của Bà ta.”
Kinh-nghiệm đời, nhiều chuyện cũng như thế. Người đời, xưa nay, vẫn ao ước gặp “Tiên Bà” có phép mầu thần-thông biến-hoá, ra như thế. Tiên Bà đây, sẽ biến không thành có, như câu hát ở bài “Hãy mãi là tình-nhân”. Và, Tiên Bà còn có thể biến có thành không, như truyện trên.
Muốn cho sự thể “Hãy mãi là tình-nhân” với nhau suốt đời, đã là khó. Còn khó hơn, khi mọi người trong gia-đình vẫn không chấp-nhận được cái chết dành cho người thân đang trọng bệnh. Vì thế nên, mọi người bèn chạy đến với “Tiên Bà”/“Mẹ Hiền” ở chốn miền cao tít đó, hầu khấn vái đủ mọi điều, chí ít là chuyện “mãi mãi là tình nhân” của nhau, với nhau.
Kinh-nghiệm về việc đến với Tiên Bà/Mẹ-Hiền ở trên cao, là kinh-nghiệm của nhiều người. Ở mọi thời. Từ thời rất sớm, đã thấy tâm-trạng của nhiều người chỉ muốn xin làm “tình-nhân” thôi, nhưng không được. Thế nên, các “cụ” bèn làm một chuyến đi về miền xa xôi, cõi trời Tây xứ người để nguyện-cầu/khấn-vái Đức (Tiên) Bà” thành Guađdalupê đất nước Mêhicô xa xôi/diệu vợi, quyết đạt cho được những gì mình mong muốn.
Trong số những vị lâu nay từng quyết như thế, thấy có đấng bậc nọ có nhiều thắc-mắc về trường-hợp Đức (Tiên) Bà thành Guađalupê nổi tiếng, bèn có thư hỏi đức thày John Flader ở Sydney, một câu ly-kỳ như sau:
“Thưa cha.
Con có cô bạn từ nước Mêxicô qua đây làm việc, khi biết con muốn xin “Tiên Bà” hay “Đức Bà” có tên gọi sao đó, ngõ hầu người yêu của con sẽ mãi yêu con và coi con là tình-nhân thôi. Cô bèn đề-nghị con hãy thử cầu-nguyện với Đức Bà thành Guađalupê, xem sao. Cô kể cho con nghe nhiều điều về chiếc khăn có hình Đức Bà, này nữa. Nay xin hỏi: có gì đặc-biệt nơi bức ảnh hiện trên khăn ấy? Và Đức Bà thành Guađalupê có thực sự làm phép lạ như người ta đồn, không?” (Một giáo dân Sydney gửi thư nhờ “The Catholic Weekly” giải-thích).
Nhờ ai, chứ lại nhờ Đức thày John Flader giải-mã chuyện “phép lạ” do Đức Mẹ đây đó từng làm, là chuyện nhờ vả cũng rất đúng. Đúng nơi/đúng chỗ rất không sai! Và, viết thư hỏi về chuyện gì, chứ chuyện lạ nhiệm-mầu của Đức Bà nổi tiếng nước Mêhicô, thì Đức thày đây lúc nào cũng cố trả lời ngay cho kịp, kẻo trễ. Thế nên, câu trả lời của Đức thày John Flader về chuyện này, như sau:
“Nhiều hình-ảnh về Chúa Mẹ hiện ra trên khăn/vải có mặt cùng khắp trên thế-giới vẫn là phép lạ. Phép lạ đây, tách-bạch khỏi chuyện sùng-kính diễn ra ở quanh đó. Có hai ví-dụ cụ-thể nên kể ra đây, là: vụ Chiếc Khăn ghi đậm diện-mạo Chúa ở thành Turinô, nước Ý. Và, hình Đức Mẹ thành Guađalupê, nước Mêhicô cũng là sự lạ khá nổi tiếng.
Hình Đức Bà thành Guađalupê có thời-gian-tính từ hậu bán thế-kỷ thứ 16, ở Mêhicô. Người Tây Ban Nha khi đó gặp khó trong việc kêu gọi thổ-dân Aztêca trở lại Đạo, là truyền-thống tin-tưởng, hành-đạo từ nhiều năm. Niềm tin, theo truyền-thống của người sống ở đây, từng hy-sinh tánh-mạng mỗi năm cả ngàn người, để vừa lòng thần-linh của mình.
Theo truyền-thống, thì: vào ngày 9/12/1531, có dự-tòng tên là Juan Diego có thói quen đi bộ hàng giờ nơi đồi Tepeyac vùng ngoại-ô thành-phố Mexico City, chợt thấy một Tiên Bà rất đẹp lại rất trẻ, anh hiểu ngay đó là Đức Maria mà anh từng cầu khấn. Đức Mẹ, khi ấy, đã dùng ngôn-ngữ của thổ-dân, yêu cầu anh cho xây-dựng một lăng-tẩm để vinh-danh Mẹ. Juan Diego bèn đi tìm vị Giám-mục chủ-quản giáo-phận mình là Giám-mục người Tây Ban Nha có tên là Fray Juan De Zumárraga nhờ giúp-đỡ; nhưng Giám-mục này còn ngờ-vực nhiều điều, nên bảo anh hãy quay lại xin vị nữ-lưu kia một dấu-hiệu để làm bằng.
Ba ngày sau, tức vào ngày 12 tháng 12 cùng năm, trong khi Juan Diego vội chạy lên đồi cao để thăm viếng ông cậu đang hấp-hối, anh lại được Đức Mẹ hiện ra với anh, một lần nữa. Anh nói với Đức Mẹ là: anh phải chăm sóc cho ông cậu sắp về chầu Chúa, nhưng khi đó Mẹ lại an ủi anh bảo rằng cậu của anh sẽ được chữa lành và quả y như rằng: ông cậu của anh vẫn còn sống. Khi ấy, Juan Diego bèn xin Mẹ ban cho anh một dấu chỉ để về trình với Giám-mục. Và, Mẹ khuyên anh hãy chạy lên đỉnh đồi nơi anh đứng, sẽ thấy nhiều loài hoa đang nở rộ.
Anh tức tốc làm ngay việc ấy, bèn thấy sự việc xảy ra đúng như lời Mẹ khuyên, dù tháng 12 nơi này không là mùa hoa nở, chí ít là trên đồi trọc như thế, từ xưa giờ. Anh rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhiều loài hoa lạ đã nở rộ vào ngày ấy. Và, anh được Mẹ giúp trang hoàng một bó hoa đẹp cắm trong ống xương rồng tươi đem về cho Đức Giám-mục mình, làm bằng.
Vừa về đến nhà vị Giám-mục địa-phận, tức thời mọi người đều thấy ảnh Mẹ hiện rõ trên ống xương rồng xanh tươi. Hình-ảnh này, nay còn đặt tại Vương-Cung Thánh-Đường Đức Bà thành Guađalupê ở Mexico City, để mọi người sùng-kính. Và, sự-việc này xảy ra với Juan Diego cách nay đến 500 năm.
Nhiều khoa-học-gia trên thế-giới đã bắt tay vào việc nghiên-cứu xem thực-chất của hình-ảnh xuất hiện trên ống xương rồng, đã khẳng-định rằng: đây không là hình vẽ vẫn thấy ngoài đời, vì không có các vết chấm phá như mọi người thường làm. Hơn nữa, chính hình-ảnh này đã tự điều-chỉnh sau lần bị chất a-mô-ni-ắc đổ lên đó, năm 1791. Và đặc biệt hơn nữa, sau vụ bom nổ dưới bàn thờ có di-ảnh Mẹ, xảy ra vào hôm 14/11/1921 mà di-ảnh không bị hư hại gì hết.
Tóm lại, có thể nói di-ảnh Đức Bà thành Guađalupê là cách sùng-kính Đức Mẹ được nhiều người biết đến. Lễ mừng tước hiệu Mẹ là Đức Bà thành Guađalupê được Giáo-hội mừng là ngày 12 tháng 12 mỗi năm. Và, thánh Juan Diego cũng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm bậc hiển-thánh ngày 9/12/2002. Từ đó đến nay, tước hiệu Đức Bà thành Guađalupê trở thành Nữ Vương nước Mêhicô, Đấng Bảo-trợ Châu Mỹ và là thánh Bổn Mạng các hài-nhi chưa được sinh”. (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 20/7/2014, tr. 18)
Thật tình mà nói, khi nghe Đức thày Flader kể chuyện “lạ” do Đức Bà với đủ tước hiệu khác nhau xảy ra ở đây, thấy hệt như nghe cha/cố vẫn kể ở nhà thờ, từ nửa thế-kỷ khi trước.
Thật tình mà nói, có phán về “sự lạ” do Tiên Bà ở nơi này/chỗ khác từng làm, phải nói theo kiểu thời nay thì người người mới chịu nghe và chấp-nhận. Bằng không, cũng như người nghệ-sĩ cứ hát những câu khó tin và khó nhận, như sau:
“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng.
Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ...”
Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán.
Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.”
(Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, có nói hay/nói phải rất nhiều thứ, cũng chỉ nên nói những gì cần nói và cần có nghe, thôi. Chí ít, là những chuyện lạ trên đời với người đi Đạo và giữ Đạo. Bởi, đi Đạo và giữ Đạo thời nay, đâu phải và đâu chỉ giữ lại cho mình những chuyện chẳng liên-quan gì đến mỗi mình.
Thật tình mà nói, mỗi khi đề-cập đến “chuyện lạ” hoặc sự việc nổi cộm theo trào-lưu/thị-hiếu của người đọc/người nghe, người nói vẫn thấy đó là chuyện khó làm. Khó hơn nữa, là lúc ta bàn về chuyện “lạ” của “Bà Tiên” hay Đấng Thánh hiền ở đâu đó vẫn hay làm. Cái khó đó, mới là vấn-đề.
Và vấn-đề, là: nói làm sao, bàn thế nào về sự lạ như “phép lạ”, cho phải phép. Về chuyện này, xin chạy đến bậc thày ở trời Tây, từng giảng dạy rất nhiều điều cho học trò mình, như sau:
“Về “Phép lạ”, thật ra có sự khác-biệt khá trổi-bật giữa phép lạ tự-nhiên và sự việc chữa lành, hoặc gọi là việc “trừ tà” do từ Chúa. Phép lạ tự-nhiên dành để cho đồ-đệ (hoặc Mẹ) Đức Giêsu, còn việc chữa lành hoặc “trừ tà” là cho người ngoài...
Suy-tư về các truyện kể Tin Mừng thêm nữa, ta sẽ càng thấy rõ việc ấy. Như truyện kể về đồ-đệ Chúa tranh-cãi nhau trên thuyền về cách-thức làm giảm cơn giông xảy đến trên Biển Hồ Galilê vào lúc Đức Giêsu không có mặt ở đó, các thánh tông-đồ đành chào thua, không làm được gì. Kịp khi ấy, đã thấy Đức Giêsu đến với các thánh bằng việc Ngài lướt đi trên mặt nuớc, tức thì mọi việc trở nên im-ắng, an-lành. Ở truyện khác, các môn-đệ lên thuyền đi đánh cá ở Biển Hồ Galilê, hôm ấy lại cũng không có Đức GIêsu cùng đi với các ngài, nên môn-đệ chẳng bắt được thứ gì. Tức thì, từ trên bờ Biển Hồ, Đức Giêsu lên tiếng ới gọi các thánh và thế là, các thánh bắt được nhiều cá đến độ không ghì nổi.
Theo tôi, cả hai truyện trên, đều mang tính biểu-trưng, chứng tỏ một chuyện, là: nếu không có Đức Giêsu ở cùng, Hội-thánh không làm được gì hết. Ngược lại: có Đức Giêsu đồng-hành, là có hết mọi sự. Trong con thuyền Giáo-hội, chỉ mỗi Đức Giêsu mới thật đáng kể; Ngài là Đấng có trọng-trách đích-thực. Các thánh tông-đồ, dù có là lãnh-tụ cỡ nào đi nữa, vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào Đức Giêsu...
Phép lạ tự-nhiên, là các câu truyện dụ-ngôn nói về quyền-bính mang tính quyết-định. Phép lạ tự-nhiên, thật ra không nói về quyền-uy của Đức Giêsu với thiên-nhiên, nhưng là thực-quyền của các tông-đồ trong Hội-thánh. Tôi xin phép nói thêm một điều, cốt ý bảo rằng: nếu ta hiểu truyện kể ở Tin Mừng một cách từng chữ, nghĩa đen, là ta hiểu sai toàn-bộ đại-ý của truyện...
Việc Đức Giêsu chữa lành và trừ tà, là đến từ quan-điểm khác hẳn. Ngài làm thế, là nhắm vào người dưng khách lạ ở ngoài cuộc, hơn là nói về đồ-đệ hoặc người trong cuộc. Ở đây, tôi xin được phép nói thêm đôi chút về trường-hợp riêng-tư mình trải-nghiệm cốt giúp ta hiểu về sự hiện-diện của Thiên Chúa trong lịch-sử nhân loại, đó mới là điều hệ-trọng.
Trước đây, tôi đã có dịp viếng trung-tâm Lộ-Đức ở Pháp, và Fatima ở Bồ Đào Nha, tức các tụ-điểm linh-thiêng kể về việc Đức Maria đã chữa lành nhiều người. Và tôi cũng có dịp ghé thăm trung-tâm Epidaurus ở Hy Lạp, và trung-tâm Pergamum ở Thổ Nhĩ Kỳ, là hai tụ-điểm linh-thiêng của thần Asklepios ngoài Đạo Chúa, từng chữa lành cho tín-đồ của họ. Các hồ-sơ chữa-lành ở cả hai nơi này, đều được ghi vào sổ bộ theo cùng một kiểu cách giống Đạo Chúa.
Tỉ như, tại hang Lộ-Đức có treo nhiều nạng gỗ cho thấy đây là chứng-cứ thầm-lặng ghi tạc cảnh những người đui mù/què-quặt đã tới đây và đã trở về lành-lặn. Tuy là thế, tôi vẫn không thấy có ai để lại các bộ-phận như chân tay giả, để làm bằng. Như thế, ta kết-luận thế nào đây?
Kết luận rõ nét nhất, là: Niềm tin chữa lành được nhiều điều!
Điều này cũng chắc-nịch như biết bao điều ta biết được. Có một số tật-bệnh đối với một số người, trong một số hoàn-cảnh, đều được chữa lành bằng niềm tin mang tính khả-thi giống như thế, như Epidaurus với người ngoại Đạo, như hang Lộ Đức với người Công-giáo, và như Benarès với người theo Ấn-giáo, và cứ thế ta nhân rộng thêm lên... Và, như Lời Đức Giêsu từng nói đi nói lại nhiều lần, là: Niềm tin của con đã chữa lành cho con!
Có câu hỏi: có đúng là những người đến với Đức Giêsu là để được chữa lành, không?
Đúng thế! Có ai hoặc có nhiều người được như thế không? Có chứ! Thế nhưng, có nhiều điều về Đức Giêsu khiến cho dân chúng đến với Ngài để được chữa lành, lại khác hẳn trường-hợp người đến với thánh Gioan Tẩy Giả là để thanh-tẩy chứ không để chữa lành. Đó là chuyện ta cần sưu-tra cho thật kỹ.
Hãy thử lấy ví-dụ cụ-thể xem Đức Giêsu từng chữa lành cho những ai? Ngài chữa bệnh gì?
Quay lại truyện kể về những người bị bệnh phung và coi đây như để rút kinh-nghiệm học hỏi, thì: trước nhất, điều hệ-trọng ta cần để ý, là: hỏi rằng từ-vựng ngày nay nói về bệnh phung cùi lại khác hẳn ý-nghĩa của từ-vựng dùng ở Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp.
Từ vựng dùng trong Tân Ước Hy Lạp, đã qui về một số bệnh ngoài da khác nhau, hầu hết có liên-quan đến bệnh về da hoặc vết sần-xùi, có vảy như: bệnh vảy nến, chàm bội-nhiễm, hoặc xùi nấm, vv. Thành thử, mỗi khi đọc Kinh thánh thấy nói đến từ-vựng “phung cùi”, ta phải hiểu từ-vựng này dẫn về một số tật bệnh tương-tự như thế chứ không là thứ bệnh mà nay ta gọi là bệnh Hansen hoặc “phong hủi”, đâu...
Việc chữa-lành người bệnh nói ở Kinh thánh, vẫn là điều cần bàn. Nhưng, vấn-đề thâm sâu trong truyện kể về việc chữa lành ở Kinh thánh, còn đi sâu hơn thế. Đó là dụ-ngôn diễn-tả xã-hội nhân-loại nói chung. Các nhà nhân-chủng-học thường cho ta biết: cơ thể con người là biểu-tượng của xã-hội. Cung-cách ta đối xử với thân xác diễn-tả sự hiểu-biết về quan-hệ khác-biệt ở xã-hội.
Ngày nay, người trưởng thành đều đã hiểu, là: việc xâm-hình trên da, nhuộm tóc đủ mầu, xuyên lỗ/mổ xẻ hoặc trang-điểm thân xác đều trở thành chuyện thách-thức về văn-hoá xuất từ nhóm người nào đó một cách triệt-để, cũng để xác-định là mình nối-kết với nhóm nào đó.
Ví dụ như hồi thập niên 50’, hễ cứ để tóc dài là có ý cho thấy mình có thái-độ chống đối thể-chế nào đó ở xã-hội hoặc đạo-giáo. Thế nên, khi xét truyện kể về việc chữa lành, ta cũng nên đề cao cảnh giác về các vấn-đề “hình-ảnh thân xác” ở xã-hội thời Đức Giêsu còn sống. Điều đó nói lên rằng: thân xác con người đã trở-thành biểu-tượng của xã-hội. Xã-hội Do thái xưa bị đe-dọa tháp-nhập vào thứ văn-hoá đế-quốc đầy quyền-lực.
Trong tình-trạng có áp-bức về chính-trị, quân-sự, văn-hoá và đạo-giáo quyết nhấn mạnh lên việc bảo-vệ ranh-giới xã-hội được biểu-tượng-hoá bằng việc bảo vệ ranh-giới của thân xác. Thế nên, vấn-đề đặt ra, là: khi Đức Giêsu chữa lành người bị phung, có phải Ngài hoạt-động chỉ với tư-cách người chữa-lành bệnh-tật hoặc phê-bình toàn-thể xã-hội, không?...
Xem thế thì, điều mà Đức Giêsu vẫn làm cho người bị bệnh phung, đích-thực là để chào-đón họ vào lại với quan-hệ xã-hội mà họ bị đẩy lùi ra bờ rià xã-hội ấy. Nếu Đức Giêsu xuất-hiện ở đây/hôm nay, tôi lại sẽ không tin rằng Ngài sẽ chữa lành căn bệnh thời-đại là AIDS; nhưng tôi vẫn tin chắc rằng Ngài sẽ chữa lành cho cơn đau ốm có cùng một tên là AIDS, rất như thế.
Còn nếu hỏi: như thế tức bảo rằng: Đức Giêsu đã chữa lành cho người phung mà thôi chứ đó không phải là phép lạ, thì câu rả lời của tôi, là: tất cả đều tùy thuộc chuyện người hỏi hiểu thế nào là “phép lạ”, mà thôi. Nếu bạn hiểu theo nghĩa Ngài sử-dụng uyền-uy siêu-nhiên để gạt qua một bên mọi diễn-tiến thông-thường của thế-giới tự-nhiên, thì câu trả lời là: Không! Đó không là phép lạ.
Chắc chắn đó không là bằng-chứng cho thấy Thiên-tính của Ngài như một số người nhiều lúc vẫn cứ quan-niệm như thế, do bởi Ngài từng dạy những người theo chân Ngài cũng làm hệt như thế. Theo tôi, Đức Giêsu không chữa lành tật/bệnh nào có sự can-thiệp từ thế-giới thể-lý, nhưng Ngài chữa lành cơn ốm đau nào đó qua sự dính-dự của thế-giới xã-hội. Ngài chữa lành bằng cách chối-bỏ việc phải tuân theo các tập-tục đối với người lâm bệnh.
Đức Giêsu chữa lành “người phung” qua việc Ngài chào mời họ vào lại với cộng-đồng nhân-loại, đó là lý-tưởng mà cộng-đồng nhân-loại gọi đó là Vương Quốc của Chúa. Ngài từ-chối không chấp-nhận rằng: tật/bệnh như là sự nhơ-nhớp về nghi-thức phải bị loại-bỏ khỏi cộng-đồng xã-hội; và từ đó, Ngài thúc-bách mọi người hoặc chấp-nhận “người phung” trở về lại với cộng-đồng, hoặc từ-chối không cho chính Ngài được như thế. Quyền-uy chữa lành là quà-tặng của Thiên-Chúa xây-dựng vĩnh-viễn trong công-trình của vũ-trụ, chứ không chỉ là sự can thiệp tạm thời trong chốc lát của Thiên-Chúa vào vũ-trụ khép kín vốn thiếu xót khả-năng vẫn làm như thế.
Tóm lại, thì: riêng tôi, tôi vẫn tin rằng phép lạ không phải là sự thay đổi về thế giới thể-lý cho bằng sự đổi-thay trong thế-giới xã-hội. Dĩ nhiên, cũng nên có một số phép lạ giúp đổi thay thế-giới thể-lý nếu ta làm được, nhưng với tôi, điều đó xem ra vẫn chỉ là niềm ao-ước làm được một số đổi-thay còn nằm trong uy-quyền của ta trong thế-giới xã-hội, mà thôi”. (x. Richard G. Wattd & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1996, tr.62-68)
Thật tình mà nói: có nói về sự lạ hay phép lạ do Đấng bậc đầy quyền phép ở đâu đó, đã làm và đã bảo, cũng chỉ là thực-hiện những điều được khuyên dạy ở Kinh Sách vẫn từng kể:
“Bấy giờ có mấy kinh sư và người Pharisêu
nói với Đức Giêsu rằng:
Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.
Người đáp:
Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.
Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào,
ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna.
Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào,
thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.
Trong cuộc phán xét,
dân thành Ninivê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này
và sẽ kết án họ,
vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng;
mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa.”
(Mt 12: 38-42)
Thật tình mà nói, khi bình-giải câu Chúa nói “mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa”, Lm Nguyễn Thế Thuấn lại đã bàn rằng:
“Dấu lạ: để chứng thực về sứ-mạng của Ngài, Chúa Yêsu nêu ra lời giảng của Ngài, kết-thúc nơi sự Sống lại của Ngài. Đây ám-chỉ rõ-rệt đến sự Sống lại. Nhưng Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 16 câu 1-4 chứng ở ngay nơi công việc rao-giảng của Chúa Yêsu.” (Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, Kinh Thánh 1976, phần Tân Ước tr. 38)
Thật tình mà thưa với người đọc và người nghe ở đây rằng: tất cả mọi điều viết và đọc ở đây, chỉ để chứng thực mỗi điều đó, tức: sứ-mạng của Chúa đặt trọng-tâm nơi Sự Sống Lại của Ngài. Nếu không có Sống lại của Ngài, mọi sự lạ và phép lạ, đều ra như không, rất hư-luống.
Trong chiều hướng rất như thế, cũng nên thông-cảm ý/lời người nghệ-sĩ trong bài “Xin cứ làm tình nhân”, qua câu hát được tóm gọn làm đoạn kết rất như sau:
“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em.
Và nắm tay nắm tay, cho hồn em ngất ngây.
Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời.
Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.”
(Tú Minh – bđd)
Thật đúng thế. “Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.” Như thế mới là sự lạ, và cũng là “phép lạ” dành cho người đời, ở trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mong mọi người ở đời
Hãy tìm nhau rồi nhìn nhau
mà đắm say,
yêu thương nhau suốt đời.
Thế đó mới là chuyện lạ
và là phép lạ trong đời,
với mọi người.
2 đoản khúc suy tư năm 2011
“Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp,”
một chuyện tình cay đắng…
(Mạc Phong Linh – Chuyện Tình Lan và Điệp)
(2Cr 12: 3b-4)
Kể cho người nghe, mà sao chị cứ kể mỗi chuyện tình Lan và Điệp? Giảng cho người hiểu, mà sao anh cứ giảng và giải rất dài. Cũng rất dai. Chẳng ai hiểu? Chẳng kể gì người nghe có muốn nghe về “chuyện tình (rất) cay đắng”. “Lúc tuổi mộng mơ”, “đem viết thành bài ca”, ca về nhà Đạo?
Sống đời nhà Đạo, lại có những truyện kể về tình đời. Giống ở đời. Nghĩa là, tôi và bạn, lại cứ kể lể rồi còn giảng giải nhiều chuyện. Cả những chuyện, như đời “Lan và Điệp”, có những câu:
“Lan như bông hoa ngàn,
thương yêu vô vàn,
nguyện thề non nước,
sẽ không hề lìa tan.”
(Mạc Phong Linh – bde9d)
Sống Đạo giữa đời, người đi Đạo cũng từng sống, giống như thế. Tức, vẫn nhiều chuyện để kể. Cứ lễ mễ mà kể lể. Hết chuyện này chuyện khác. Kể, từ đầu đời đến cuối đời, vẫn không hết.
Trong chuyến ghé thăm đất miền Mễ Tây (rất căn) Cơ, bần đạo học được nhiều điều. Không phải để giảng Đạo, mà để kể về dân gian. Có vua quan cùng lãnh chúa. Rất bí nhiệm. Chuyện, của bậc vị vọng ở chốn trên cao chót vót, rất vua chúa. Chuyện vua quan lãnh chúa, không kể bằng miệng, suốt thế hệ này qua tthế hệ khác. Nhưng, bằng hoạ đồ khắc trên đá, mà bộ tộc giống giòng Maya, đã tô vẽ từ nhiều thế kỷ, mà không cần chữ viết. Khiến người người cứ cảm kích. Thán phục.
Điều mà nền văn minh Maya xứ miền rất Mễ chú trọng nhiều đến quyền của vua quan chốn cao tít mù tắp, rất uy lực, nay được một số đấng bấc ở thế kỷ 21, còn thực hiện.
Điều, mà nhà Đạo ở trên cao đang hiện thực, nay quên hết tình tiết xưa như nghệ sĩ từng viết:
“Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về,
Điệp cùng Lan chung bước.
Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi
Lan khóc đợi người đi.”
(Mạc Phong Linh – bđd)
Nhà Đạo hôm nay, không còn thấy cảnh tình sánh bước giữa “Lan và Điệp”, dù hiu hắt. Mà, chỉ là cảnh “chia ly”, “khóc đợi người đi”, chẳng thi vị. Nhưng ê chề. Tham vọng nhiều, như người trong truyện kể dân gian rất phàm trần, lếu láo, như sau:
“Có một người đến nhà thờ xin Chúa cho 3 điều ước nguyện. Chúa thầm hỏi:
-Con nguyện và ước điều gì mà “căng” thế?
-Thưa Chúa, điều con nguyện ước chẳng có gì quá sức Ngài đâu! Con chỉ xin Chúa ban cho con 3 điều ước nguyện vỏn vẹn mỗi thế này: Điều một: Con ước mình được quyền “ăn trên ngồi chốc” giống các cha trong nhà thờ, hễ cứ phán bảo điều gì giáo dân nghe răm rắp thôi!
-Thế cũng được, Ta cho con ngay đây! Thế điều kế tiếp là những gì?
-Dạ thưa Chúa, điều kế tiếp con xin được giàu sang phú quí, chẳng làm gì, chỉ quát tháo doạ nạt đủ điều mà con chiên già trẻ lớn bé, vẫn cứ phục rồi dâng cúng
-Điều này không có gì khó, Ta sẽ ban cho con. Thế còn nguyện ước cuối?
-Điều cuối cùng, thì con muốn được mọi sự, cả những điều ước ở trên, lâu nay..
Chúa nhìn người đàn ông đang nài xin, mà tội nghiệp bảo:
-Con có thấy chân ta đang bị gì không?
-Dạ, chân của Chúa bị đóng đinh vào thập giá…
-Đúng! Chân ta mà không bị đóng đinh, thì Ta sẽ cho tất cả một đạp… Bọn con chỉ tham lam quyền bính với giàu sang thôi, chẳng được tích sự gì!...”
Truyện kể trên, chỉ là truyện tào lao, chẳng đáng cười. Bởi, Chúa nào lại làm thế. Có chăng, chỉ là phản ảnh của dân gian, dùng tiếu lâm nhạt để nói cạnh, nói xéo đấng vị vọng nhiều tham vọng. Lại hay lắm chuyện. Những chuyện không mang tính thiêng liêng, đạo đức gì hết.
Lắm chuyện hay không, thật ra cũng chả là chuyện có thật, ở nhà Đạo. Thời bây giờ. Thế nhưng, nhà Đạo hôm nay, cũng có một đôi “chuyện”, tức vấn đề làm người người cứ bứt rứt. Thao thức. Đến nản lòng. Tựa hồ vấn đề/truyện kể của đấng-bậc-không-còn-được-trọng-vọng nhưng vẫn muốn bày tỏ đôi sự thật thấy rất rõ, ở nhà Đạo, như sau:
“Tính đến nay, cũng đếm được 30 năm, kể từ ngày có những chuyện bê bối về xách nhiễu tình dục đối với con trẻ do một số linh mục vấp phạm. Nhưng vấn đề hôm nay hỏi rằng: lâu nay việc bứng tận gốc căn bệnh ung bướu loại này, đi tới đâu rồi? Ta học được gì, từ những bài học ấy?
Dù ngôn ngữ chọn lựa có xứng hợp hay không thuận lợi, vẫn có lời xin lỗi được đưa ra. Các thủ tục thực hiện nhằm giúp nhiều người hiểu được vấn đề, cũng đã có một số người tìm cách tự chữa lành. Và, nhiều dấu hiệu cho thấy vấn đề đã cải thiện cũng rất nhiều. Các vi phạm theo hình thức mới mẻ cũng đã suy giảm. Và, dù không phải là do có gia tăng lòng đạo đức, thì ít ra cũng vì một số người cũng đã biết sợ, bị bắt gặp.
Đàng khác, nhiều nạn nhân trên toàn quốc chưa cảm thấy thoải mái để kể lại chuyện riêng tư của mình và/hoặc chưa hài lòng về những giải pháp này khác hay không, nhiều nơi, nhiều nước vẫn chưa công khai phải đối phó với vấn đề. Cũng như, Hội thánh vẫn gặp nguy cơ bị cắt đứt, chia lìa đến nỗi chết xảy đến vào các thập niên tới.
Dù có thế, vấn đề chính vẫn còn mang tính đậm sâu hơn. Vẫn còn một số yếu tố thông thường khiến kẻ phạm pháp dễ tạo xách nhiễu. Và cũng có những vấn đề khác mang tính cách đặc biệt đối với cá nhân mỗi tội phạm. Giữa hai yếu tố ấy, hiện có những chuyện không lành mạnh đang xảy đến với một vài tổ chức hoặc xã hội mang tính riêng biệt khả dĩ khích lệ sự tăng trưởng một thứ văn hoá qua đó việc lạm dụng xách nhiễu càng có cơ xảy đến dễ dàng hơn. Hoặc cùng lắm, vẫn có thể làm ngơ trước vấn đề bằng cách đưa ra một đáp trả khá nghèo nàn.
Xách nhiễu lạm dụng chừng như dễ xảy đến khi cả ba yếu tố bao gồm một tâm lý không lành mạnh, những ý kiến bệnh hoạn và môi trường sống rất yếu kém cộng chung lại; đồng thời, việc đáp trả lại nghèo nàn khi những gì nằm trong nền văn hoá ấy lại khơi mào điều lợi cho người trong cuộc làm đối tượng cho lợi thế của cơ chế ấy.
Tôi nghĩ rằng, cho đến nay, sai lầm chính nơi đáp trả của Hội thánh đối vấn đề này là ở chỗ Hội thánh không chịu nhìn vào bất kỳ giáo huấn, lề luật, cung cách thực hiện hoặc động thái của chính mình trong chiều hướng đóng góp bất cứ thứ gì để sửa sai.
Hội thánh lại không thấy rằng có thể có những yếu tố trong “nền văn hoá của Đạo Công giáo” mình từng đóng góp vào việc xách nhiễu/lạm dụng hoặc đã đáp trả cách nghèo nàn đối với vấn đề xách nhiễu như thế. Tôi nghĩ có tất cả 7 yếu tố trong nền văn hoá Công giáo đã tạo nên xách nhiễu/lạm dụng và 5 yếu tố góp phần vào việc đáp trả khá nghèo nàn.
Bảy yếu tố góp phần vào hành vi xách nhiễu lạm dụng, phải kể đến, là:
1. Chỉ tôn thờ một Đức Chúa rất giận dữ, nay không còn tác dụng;
2. Nhiều yếu tố cho thấy hành vi xách nhiễu đều do nam nhân vướng mắc. Và, hầu như mọi chuyện lâu nay vẫn nằm trong tay người đàn ông, trong khi giới nữ ít quyền ăn nói;
3. Rất nhiều linh mục sống đời độc thân cách miễn cưỡng. Không ưa thích cũng chẳng vui lòng chọn lựa và không phải ai cũng cũng ở độc thân như thế. Thứ độc thân không ôm trọn tình yêu;
4. Thiếu trưởng thành về đạo đức, cứ tưởng rằng mọi tốt lành về mặt đạo đức chỉ nằm ở việc tuân phục một Đức Chúa mà họ nghĩ Ngài chuyên luận phạt,thôi. Thêm vào đó, là quan điểm chỉ biết vâng lời Hội thánh mà không biết tự mình nhận lãnh trách nhiệm;
5. Luôn có ý tưởng cho rằng nội việc nghĩ đến chuyện tình dục thôi, cũng đã là mắc tội trọng rồi. Và, đáng bị Chúa đời đời giáng phạt. Nói tóm lại, lúc nào cũng cho rằng đạo lý về dục tình đặt cơ sở trên luật tự nhiên hoặc trái với thiên nhiên, hơn là chú trọng đến những điều mà Tin Mừng của Chúa khuyên dạy;
6. Chủ nghĩa phò giáo sĩ hoặc đặc tính bí ẩn về chức linh mục
7. Cuộc sống linh mục và tu sĩ thiếu chuyên nghiệp thực thụ.
Năm yếu tố khiến hệ cấp giáo triều ứng đáp với sự việc cách nghèo nàn,là:
1. Chuyên ưa chuộng tính chính thống (tức: cho rằng niềm tin của mình là đúng) hơn là tạo thói quen công chính và trung thực (tức: phải có hành xử cho đúng). Bởi thế nên, mỗi khi nghe mọi người xầm xì về chuyện nên truyền chức cho nữ giới, là quyết thẳng tay lên án không thương xót. Ngược lại, hễ thấy linh mục xách nhiễu tình dục trẻ con lại dễ thứ tha;
2. Cho rằng Đức Giáo Tông là đấng bậc không thể nào sai lầm đuợc, dù việc ấy không thuộc phạm vi tín điều “vô ngộ”. Tức là: những gì dính dấp đến uy quyền của ngài, cũng đều “vô ngộ”;
3. Sự kiện Đức Gioan Phaolô II im hơi lặng tiếng của suốt hơn 25 năm về chuyện xách nhiễu tình dục trẻ em;
4. Văn hoá lặng thinh đã hằn sâu trong Giáo triều La Mã đến mức thâm căn;
5. Luôn ngăn chặn gạt ý hướng trung thực mỗi khi bàn luận về qui cách ứng đáp với cáo buộc về xách nhiễu tình dục.
Chính ra, Đức Giáo Tông cũng nên chủ động hướng dẫn giáo triều khai triển cách ngăn ngừa và đáp ứng các trường hợp như thế. Nhưng, ta cũng không nên chờ ngài có những quyết định như thế. Tôi thấy không có lý do gì khiến Hội Đồng Toàn Quốc Giáo Sĩ lại không chịu đưa vào nghị trình thảo luận hàng năm của mình để bàn về những gì liên quan đến hàng giáo sĩ, ra như thế.
Chẳng hạn, ta có thể nhìn vào cung cách xem ta có chủ trương giáo sĩ trị đang thể hiện trong cuộc sống của ta, trên toàn quốc hay không. Và, hãy nhìn vào cung cách hành xử để xem ta có thật sự thiếu ý thức chuyên nghiệp khi suy tư và hành xử, không.
Cũng nên nhìn vào cách ứng xử của hàng linh mục mình khi đất nước mình đang có những “phát giác kinh khủng”; nghĩa là, hãy tự hỏi xem mình có đứng về phe linh mục - phạm pháp hoặc cảm thông bước về phía nạn nhân bị xách nhiễu tình dục, là con trẻ? Các linh mục của mình có là thành viên theo phe của mình không, trong khi đó, các nạn nhân bị họ lạm dụng, giờ này ra sao? Ta có đến với các nạn nhân bị lạm dụng nhiều hơn với linh mục phạm pháp chứ? Hay, cả ta nữa, vẫn dễ dàng cho mình vô tội? Phải chăng ta ứng đáp chỉ đơn giản bằng cách mong cho vấn đề xách nhiễu tình dục/ấu dâm nơi hàng ngũ linh mục được xếp xó, để khỏi bận tâm, không? Các giám mục nhà mình có thành “địch thù” xử bất công với các linh mục mỗi khi đáp ứng trước những cáo buộc về xách nhiễu tình dục, nơi đàn em đệ tử mình?
Các câu hỏi của đấng bậc không-còn-là-chủ-quản nữa, có lẽ đẽ khiến tôi và bạn, lại nhớ đến ca từ của nghệ sĩ ngoài đời, rất hay hát:
“Bao nhiêu niềm vui cũng chôn vùi từ đây,
vùi chôn từ đây!...
Lỡ một cung đàn,
phải chăng tình đời là vòng giây oan trái?”
(Mạc Phong Linh – bđd)
Nghệ sĩ đời gặp chuyện ngang trái lại hỏi thế. Đấng bậc nhà Đạo, nhận định sự kiện “không phải”, ở trong Đạo, lại nghĩ khác. Khác, nhưng rất thực tiễn, như sau:
“Để hành xử của mình được lành mạnh, tưởng cũng nên đề cập đến những điểm gây bén nhạy, như hỏi rằng:
*Phải chăng hàng ngũ linh mục ở quanh ta đang sống cuộc đời độc thân mà không thích. Hoặc, không chứa đựng một tình yêu, mình đã chọn? Ta quan niệm thế nào về chuyện ấy? Hãy đưa vấn đề ra mà bàn thảo, cho nghiêm chỉnh.
*Ngày nay, ta có thực sự tin vào luân lý dục tình không? Phải chăng mỗi khi tưởng nghĩ đến chuyện tình dục, là mắc tội? Ta vẫn cho rằng mọi sa ngã về tình dục là trọng tội có thể dẫn đến nỗi chết, chứ? Ta vẫn coi động thái tự nhiên và phản thiên nhiên như nền tảng của đạo lý về tình dục chứ? Nếu không, ta tìm ra được nền tảng nào khác không?
*Ở giáo xứ, ta có thực sự lắng nghe tiếng nói của chị em giáo dân không? Các vị ấy có hoàn toàn đồng ý với câu đáp trả ta đưa ra không?
*Ta có còn quan niệm về Thiên Chúa chuyện giận dữ, trong đời mình không? Quan niệm như thế có còn ảnh hưởng lên ta không? Để ý lắng nghe cả trăm linh mục chia sẻ Lời Chúa vào ngày Chủ nhật, thông thường khi ra về ta mang theo ý nghĩ về Thiên Chúa như thế nào?
*Trong hành trình đời sống, ta đã bỏ đi ý tưởng về chuyện giáo hội dạy ta phải sống thế nào để làm hài lòng một Thiên Chúa chuyện luận phạt chưa?Trong cuộc sống, ta đạt mức độ trưởng thành về luân lý, đến cỡ nào?
*Ý hướng về luân lý đạo đức của ta là thế nào? Nhận thức của ta ra sao khi bị xã hội lên án, dẫu biết rằng ta là người vô tội? Ta đối đầu thế nào với thái độ của Hội thánh khi ứng đáp một cách nghèo nàn đối với các cáo buộc xách nhiễu tình dục, nói ở trên?
Những phát giác kinh khủng về xách nhiễu tình dục nơi hàng giáo sĩ lâu nay quả là một kinh nghiệm thương đau cho đội ngũ linh mục của ta. Nỗi lo ngại của tôi là nhiều người đã khoá sổ chỉ giữ cho mình những tư tưởng tiêu cực thôi. Và, xách nhiễu tình dục đã trở thành chuyện “khủng long chui tọt vào phòng”, mỗi khi các linh mục tụ tập.
Tôi khẩn thiết yêu cầu Hội Đồng Linh Mục Toàn Quốc hãy đóng vai trò đúng đắn để có được những trao đổi mang tính dựng xây về mọi khía cạnh của vấn đề này. Lâu nay, ta có quá đủ nỗi hãi sợ, chối bỏ, chạy trốn hoặc yếu kém rồi. Đã đến lúc, ta cần sống thực sự cởi mở, chính trực và xây dựng trong vấn đề này.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The Elephant in the Room, rút từ The Swag 16/7/2011)
Như mọi lần, mỗi khi gặp các vấn đề gay góc xảy đến với người và với mình, chí ít là người mình ở nhà Đạo, bần đạo lại chạy đến với Lời của các thánh viết ở Tin Mừng. Hôm nay, bần đạo nhận được ân huệ “bắt gặp” một đoạn thơ có lời lẽ, xin san sẻ với bạn và với tôi, rất như sau:
“Đức Kitô, Người không nhu nhược đối với anh em đâu,
nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em.
Thật vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn,
nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
Cả chúng tôi nữa, trong Đức Kitô,
chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn,
nhưng cùng với Người,
chúng tôi sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa
để xử sự với anh em.”
(2Cr 13: 3b-4)
Nhớ lời “thơ” của thánh nhân nhà Đạo, nay lại nhớ thơ lời của người đời, cũngnhư sau:
“Người ta nói yêu là ngốc,
Bởi chữ tình là nguồn gốc chữ ngu...
Đôi khi con người ta cần dừng lại..
Dừng lại để rồi bước nhanh hơn......
Đôi khi con người ta cần buông tay..
Cần cho đi để rồi có nhiều hơn.....
Đôi khi con người ta cần khóc..
Khóc thật lớn để rồi cười thật to.....
Đôi khi con người ta cần một mình..
Một mình là để biết có nhau quan trọng như thế nào.”
Đã nhớ lời “thơ” Đạo cũng như đời rồi, nay lại tưởng nhớ chuyện của Lan và Điệp, cũng có những tình tiết như sau:
Nếu vì tình yêu,
Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau.
Nàng sống mà tim như đã chết
Riêng bóng cô đơn đôi môi xing phai tàn
Thương thay cho nàng
buồn xa nhân thế náu thân cửa Từ Bi.”
(Mạc Phong Linh – bđd)
Bần đạo thiết nghĩ: câu thơ trên, đâu chỉ áp dụng cho các vị nương náu cửa Phật hay nhà Đạo, đang “có vấn đề”, mà thôi. Nhưng, có lẽ, cũng áp dụng cho cả nạn nhân tội phạm xách nhiễu, hoặc sai lầm nhiều sơ xuất. Ở bất cứ nơi đâu. Thời nào. Như hôm nay.
Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ thương và nhớ
hết tất cả.
Trong Đạo. Ngoài đời.
Suy Niệm Chúa Nhật thứ 20 thường niên Năm A 14-08-2011
“Đàn rơi phiếm rũ, sầu mưa gió,”
“Nguyệt khuất mây mờ, lạnh khói sương”
(dẫn từ thơ Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân)
Mt 15: 21-28
Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể, đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt khuất mây mờ. Nhjưng, cũng chưa hẳn là tình tự của người trong Đạo, bấy lâu nay.
Tình tự nhà Đạo, nay thánh Mát-thêu kể về nữ phụ xứ Canaan gặp Chúa, rất cảm kích mới có lời xin. Xứ Canaan, có thủ phủ Ty-a và Si-đôn là đất miền cận duyên, bên bờ Địa Trung Hải. Hai thị trấn cách đất liền đến 80 cây số, phía Nam Phênixia. Hôm nay, thánh sử kể về các sinh hoạt khác thường của Chúa, ngoài đất nước Do thái, ở xứ Canaan.
Về sinh hoạt Chúa làm, ngoài xứ miền Do thái, thánh sử kể cũng khá nhiều. Nhưng, không nói lý do tại sao Chúa đi xa như thế. Có thể, Chúa đã mệt vì đường xa, xứ lạ. Thế mà, khi nữ phụ xa lạ lại đón Chúa vào thôn làng. Cũng có thể, luận cứ ở truyện kể còn quan yếu hơn chi tiết địa dư, khoảng cách.
Trình thuật nay là truyện kể nữ phụ “ngoài luồng” và con gái bà lâm bệnh. Đúng ra là, mẹ con sinh sống ở xứ miền Phênixia. Với người Trung Đông, Canaan là một trong những địa danh có tên rất xấu, gồm toàn những người lạ kỳ, về nhiều thứ ít thấy trong Thánh Kinh.
Nói gì thì nói, nữ phụ Canaan đây, thuộc lớp người ngoài Đạo, là người dưng khách lạ mà lại được Chúa đón nhận như người trong cuộc. Bởi thế nên, luận điểm đề cập nơi trình thuật hôm nay là để nhấn mạnh lối hành xử rất nhân lành hầu đón nhận người ngoài vào với cộng đoàn Hội thánh mình.
Trình thuật, nay nhấn mạnh khuynh hướng gọi họ bằng những tên rất xấu, để loại bỏ. Loại và bỏ, như người thời nay khi nói đến dân con Ả Rập/Hồi giáo, người người có thói quen chụp lên người họ bằng những mũ chụp thiếu thanh tao/lịch sự, như: dân Rệp hoặc đám Hồi giáo khủng bố. Và, trình thuật nay cũng nói đến cung cách Chúa dung nạp những người mang tai tiếng, xấu đến như thế.
Mặt khác, nữ phụ này lại có người con vướng mắc một thứ tật bệnh mà người thời ấy gọi là “quỷ tha ma bắt” khiến bà phải gào thét đến cuồng điên, cốt để Đức Chúa Nhân Hiền nghe biết đến với bà, để chữa trị cho con gái bà. Ngài có chữa kẻ ngoài luồng mắc chứng dơ bẩn hay không, đó mới là vấn đề. Và, dân thường thời bấy giờ vẫn còn thắc mắc.
Kể ra, thì nữ phụ Canaan dù ngoài Đạo, nhưng đã tin Đức Kitô, nên bà gọi Ngài là “Con Vua Đavít“. Với thánh Mát-thêu, bà là người đầu tiên trong kinh thánh, dám tuyên xưng Ngài là Chúa, bằng miệng lưỡi. Chính bà là người dùng lời khẩn cầu phụng vụ và thánh vịnh của các đấng bậc từng tuyên tín vào Đức Kitô, như lời kinh phụng vụ lâu nay vẫn nhắc: “Xin Chúa thương xót chúng tôi.”, một lời kinh bằng tiếng Hy Lạp, rất “Kyrie eleison”, trong thánh lễ. Bà còn bái gối lạy quỳ trước mặt Ngài, một động thái khẩn nài ít thấy nơi người Do thái, khi nhắc nhớ điều gì với Giavê Thiên Chúa.
Nói rõ hơn, nữ phụ ngoài Đạo đã van xin Chúa một ân huệ, rất khó thực hiện: là, xin Ngài vượt lằn ranh thói tục luôn chê bai kẻ hạ cấp/thấp hèn như mẹ/con bà, những kẻ bị đào thải khỏi mọi chọn lựa trở nên dân riêng của Giavê. Bà xin Ngài thực hiện điều mà Giavê Đức Chúa không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa toàn thể mọi người về với tình thương. Cả khi đồ đệ Ngài bày tỏ:”Hãy bảo bà ấy đi đi, đừng đến mà làm phiền Thày.”
Nơi trình thuật, chừng như Đức Giêsu đã thách thức lời kêu cầu của nữ phụ bằng lời từ chối. Đây là việc ít thấy ở Tin Mừng, mà các thánh vẫn ghi. Bởi lẽ, kinh nghiệm cho thấy, hễ ai kêu cầu Chúa điều gì, Ngài vẫn đáp ứng bằng đáp ứng trọn vẹn cho người ấy. Trường hợp ở đây, không giống thế. Ngài không ứng đáp lời kêu cầu của nữ nhân ngoại luồng, là bởi vì Chúa Cha gửi Ngài đến với dân con được chọn, thôi. Sứ vụ Ngài thực viện, chỉ dành cho dân con người Do thái, rất đích thực. Chính vì thế, mà người đọc mới nghe thấy những câu so sánh cũng khá lạ:“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (ở ngoài)." (Mt 15: 26). Bằng vào lời này, ta thấy người Do thái xưa vẫn coi dân “ngoài luồng”, rất thấp hèn. Thách thức ở đây, còn có nghĩa: Chúa phản ứng như người Do thái bình thường sống theo luật, không để lời nài van từ ngoài, áp lực Ngài hành xử ngoài ý định của Cha.
Nhưng, nữ phụ Canaan vẫn thưa:”Đúng thế, thưa Ngài, nhưng lũ chó con cũng được hưởng vụn bánh trên bàn chủ, rơi xuống." (Mt 15: 27) Điều mà bà goá xứ Canaan muốn nói đến, là: loài chó nuôi trong nhà, tuy chạy rong ngoài đường, nhưng cũng được hưởng ơn lành như thú đã thuần hoá. Tức, phải được hưởng công bằng cần thiết. Bên tiếng Hy Lạp, mỗi khi nói đến loài chó nuôi, là nói đến gia súc sống gần gũi với chủ, do đó ít nhiều cũng được đối xử như người nhà, gần chủ nhà. Tức, cũng có chỗ đứng/ngồi gần bàn tiệc, dù dưới gầm. Và đây là trọng điểm mà vấn đề trình thuật đặt ra.
Ngay đó, Chúa thay đổi cung cách Ngài đối thoại bằng ngợi khen niềm tin của người đàn bà. Trình thuật không nói rõ đó có là niềm tin vào Ngài, vào Chúa hay không. Nhưng, nữ phụ Canaan lại đã chứng tỏ rằng bà vẫn là bản vị hiện hữu cần được đối xử như người trong cuộc. Xem thế thì, qua việc khen ngợi niềm tin của bà goá, Chúa muốn bảo cho mọi người biết: nữ phụ “ngoài luồng” này, nay đã là người trong cuộc. Tức, đã có trọng trách khiến cho người dưng khách lạ thấy được sự công bằng cần có, khi đối xử với người trong cuộc. Trong Đạo. Tức, cần dân con trong Đạo yêu thương, đón nhận họ để họ trở nên thành viên Hội thánh, như mọi bản vị biết thương yêu. Nhân hiền.Cởi mở.
Cũng có thể, thánh Mát-thêu đã ghi lại tâm tình của Chúa muốn nói đến các chủ thể lâu nay vẫn bị coi rẻ như loài chó, cốt để thử thách niềm tin, thôi. Kịp khi nữ phụ Canaan sẵn sàng chấp nhận thân phận thấp hèn lâu nay của mình, bị đối xử tồi tệ như loài thú, nhưng vẫn muốn được yêu thương/trọng đãi như người nhà. Bởi, loài chó lâu nay vẫn được coi là gia súc rất trung thành với chủ mình. Vậy thì, loài gia súc đã thuần hoá, có thuỷ chung với người trong nhà, hay không? Nữ giới trong cuộc, có được đối xử đồng đều như nam nhân không? Có được yêu thương kính trọng không thua kém nam nhân không?
Đó là qui cách mà nữ phụ Canaan dùng đến, cốt để thuyết phục Chúa. Chính bà là người dám bộc lộ với Chúa tâm trạng của người “ngoài luồng”. Và, kêu cầu của bà, chính ra là để mọi người trong cuộc nên coi lại mà đối xử bà ngang bằng như người trong cuộc, một khi dân con của Chúa tin vào tình thương và sự lương thiện. Đây còn nói lên một đặc trưng yêu thương là không bao hàm yếu tố “lằn ranh/biên giới”, trong với ngoài!
Ngay đến ý định của Chúa Cha khi chọn lựa con dân trong hoặc ngoài luồng để cứu rỗi, giống như thế. Chúa có tự do thực hiện việc chữa lành cho bất cứ ai, kể cả những người trong hay ngoài luồng. Họ vẫn là những hữu thể, cũng tử tế, ngang bằng nhau. Và, họ cởi mở, ăn ở phải phép hệt như nhau. Lời nài van của nữ phụ, tuy không nói rõ, nhưng đã chứng minh được điều đó. Và, kết quả là: Chúa đã ban cho bà những gì bà khẩn nài. Con gái bà được chữa lành. Vậy, ý của trình thuật thánh sử muốn nhấn mạnh, là: hãy coi khách lạ người dưng, như người nhà vậy.
Điều khác nữa, là: thông thường thì, loài thú ít được nhắc đến ở Tin Mừng. Nhưng, khi đã được nhắc nhở, chúng đều có tên. Ta biết được tên loài thú vào hôm kiệu lá, lễ Vượt Qua, là: chú lừa. Và, loài thú được nói đến, khi thánh Phêrô chối bỏ Thầy mình, là gà trống. Ngoài ra, còn có: chiên lạc. Dê hiền. Đàn heo sạch vv...
Có vị giáo lý viên nọ người Pháp, vẫn quen thói đặt tên cho một số loài thú được nhắc đến ở Tin Mừng, như: chú lừa vào lễ Vượt Qua gọi là: lừa Placiđô. Gà trống hôm thánh Phêrô chối Chúa, là gà “Archibald”, vv… Còn chó nuôi trong nhà, ở trình thuật hôm nay, nên đặt tên gì đây?
Còn một điều cần kể thêm, là: ở trình thuật các thánh ghi, bất cứ ai được Chúa chữa lành, đều đã trở thành đồ đệ đắc lực, quyết theo chân Ngài, mà rao giảng. Con gái nữ phụ xứ Canaan đây, có làm những việc như thế không?
Tựu trung thì, bài học mà thánh Mát-thêu để lại nơi người đọc hôm nay, là: khi nghe ai đó gọi người Ả Rập bằng những tên rất xấu, như “dân Rệp”, hoặc “bọn Hồi giáo chuyên khủng bố”, vv… thiết tưởng người nghe/đọc Tin Mừng cũng nên liên tưởng đến chú chó vẫn nằm chực dưới gầm bần của chủ, để được hưởng ơn mưa móc của người trong nhà. Suy cho cùng, thì: loài chó nuôi trong/ngoài nhà, vẫn là gia súc được yêu thương, nể trọng. Không phải vì chúng sở hữu đặc tính trung thành với chủ. Mà, vì chúng được coi như thành viên như người nhà. Không là người dưng nước lã, nữa.
Sở dĩ Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người, trong ngoài nhà Israel , vì Ngài là Đấng Nhân Hiền trong cuộc. Rất cao cả. Học được bài học quý giá rút tỉa từ trình thuật hôm nay, hẳn người nghe/đọc, sẽ quyết tâm noi gương lành của Chúa mà xử thế. Xử giống như Ngài vẫn dạy.
Với tâm tình đó, cũng nên ngâm nga lời ca mà người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, từng bộc bạch:
“Gương hờn tủi phận, vùi son phấn,
Lược trách buồn duyên, lỡ đá vàng!
Hương sắc đắm chìm, thân mệnh bạc,
Thương lòng xót liễu, rụng đài trang!”
(Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân – Thương Tiếc)
Thương và tiếc, không chỉ “xót liễu, rụng đài trang” thôi, mà còn “trách buồn duyên, lỡ đá vàng”. Trách và thương, những ai vẫn cứ coi dân “ngoài luồng” như chú chó chạy ngoài đường, không thương tiếc. Mà quên rằng, Chúa vẫn tiếc và thương hết mọi người. Mọi loài. Vào mọi thời.
Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam