Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 39
Tổng truy cập: 1361058
THIÊN CHÚA NGÀI LÀ AI?
THIÊN CHÚA NGÀI LÀ AI?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa không ở trong gió bão, cơn động đất, lửa...
Elia vẫn trò chuyện với Thiên Chúa, ông cầu nguyện và Thiên Chúa nhận lời ông nhưng ông không thấy được Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn nói với con người, nhưng con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa bằng mắt trần. Người ta chỉ có thể thấy Thiên Chúa nhờ con mắt đức tin! Tương quan với Thiên Chúa, con người phải nhờ đức tin, chính đức tin giúp chúng ta "thấy" những thực tại vô hình.
Gặp gỡ Thiên Chúa, là một từ ngữ để chỉ việc con người "thấy" Đấng vô hình, "cảm nghiệm" Ngài yêu thương mình dù mình không thể đụng chạm Ngài bằng thân xác. Thiên Chúa luôn ở bên con người. Ngài ở gần con người hơn chính con người. Ngài ở gần ta hơn cả chính ta.
Thiên Chúa sống thân phận con người, để con người biết sống ...
Thiên Chúa là Đấng siêu vượt, nhưng Thiên Chúa muốn ở gần con người.
Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta:
Ngài biết no biết đói như chúng ta;
Ngài cảm thương nỗi thống khổ của người như Thiên Chúa luôn cảm thương con người;
Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa như chúng ta phải cần cầu nguyện. Ngôi Lời luôn hướng về Thiên Chúa (Ga.1, 1); và cả chúng ta là những con người, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa qua việc cầu nguyện để được Thiên Chúa dạy bảo, để biết sống như thế nào cho phải đạo!
Tại sao Đức Yêsu lại cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện trong mọi lúc, mà con người chúng ta lại ít cầu nguyện? Tại sao Đức Yêsu luôn đi tìm và thực hiện Ý Cha, thế mà con người lại không mau mắn và sẵn sàng thực hiện Ý Cha, khi Ý Cha đem lại hạnh phúc thật cho con người?
Thiên Chúa ở gần con người, nói chuyện với con người, đối thoại với con người, cứu giúp con người khi con người bị "chìm" hay sa ngã. Con người rất mỏng dòn "tinh thần thì nhanh nhẹn nhưng thể xác thì yếu nhược" (Mt.26, 41), cần cầu nguyện để luôn ý thức về con người thật của mình, để luôn bám vào Chúa, trông cậy vào Chúa.
Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?
Phêrô đã nghi ngờ không tin vào Đức Yêsu, nên đã "chìm" khi đi trên biển!
Đức Yêsu cũng bị cám dỗ không tin vào Thiên Chúa "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc.15, 34), nhưng Đức Yêsu vẫn một niềm tín thác nơi Cha "Lạy Cha, con phó thác hồn Con trong tay Cha" (Lc.23, 46).
Điều làm con người bất hạnh, lo âu, thao thức băn khoăn, mất bình an, là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình!
Ước gì chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương, để chúng ta luôn bình an và tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Nếu bạn không tin vào Thiên Chúa, thì bạn thường tin vào ai?
2. Bạn đã gặp gỡ Thiên Chúa bao giờ chưa? Bạn có thể cho các bạn khác biết kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của bạn không?
3. Theo bạn, Thiên Chúa là ai?
38.Tương quan giữa con người và Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Cần nhau, tin vào nhau, yêu thương nhau, là những nét diễn tả tương quan giữa con người. Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đi tìm con người, Ngài có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời trong tương quan với con người.
1. Thiên Chúa đi tìm con người
Trong bài đọc sách Các Vua hôm nay, người ta nhận thấy Thiên Chúa muốn tỏ mình cho Elia. Ngài đã truyền cho Elia ra khỏi hang động nơi tiên tri đang trú ẩn và đứng chờ vì Thiên Chúa sắp ngang qua. Thiên Chúa không ở trong cơn giông, không ở trong cơn động đất, không ở trong ngọn lửa… Thiên Chúa không muốn đến với con người qua những gì làm con người sợ hãi.
Không phải Elia chủ động đi tìm Thiên Chúa nhưng chính Thiên Chúa đã có ý muốn tỏ mình cho Elia. Thiên Chúa muốn có tương quan với con người. Khi Adam và Evà không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, nên đã nghe lời ma quỷ bất tuân lệnh Thiên Chúa mà ăn trái cây Ngài cấm ở vườn Eden, thì chính Thiên Chúa đã chủ động đi tìm con người, gọi con người, bắt chuyện với con người. Khi con người không còn tin vào Thiên Chúa, muốn trốn Thiên Chúa, không muốn nói chuyện, không muốn có tương quan với Ngài nữa, thì Thiên Chúa vẫn muốn nối lại tương giao với con người bằng đối thoại. Mỗi người khi phạm tội là chối bỏ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục tác động nơi lòng mỗi người, làm mỗi người nhận ra lỗi lầm của mình, ăn năn sám hối để bắt đầu lại.
Thiên Chúa là nguồn bình an. Cơn giông, động đất, lửa, là những dấu chỉ Thiên Chúa sắp đi ngang qua, nhưng bình an nhẹ nhàng thanh thản là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện. Bình an là một dấu chỉ đặc biệt cho người ta thấy mình đi đúng đường, cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện cách đặc biệt với con người.
2. Khiêm tốn chấp nhận chương trình của Thiên Chúa
Thánh Phaolô có một tình yêu đặc biệt đối với đồng bào của ngài. Với Phaolô, Đức Yêsu là tất cả, và thánh nhân sẵn sàng đánh đổi tất cả để được Đức Yêsu. Khi Phaolô thấy dân Do Thái, đồng bào của ngài, không nhận biết Đức Yêsu thì ngài buồn biết bao. Nói theo ngôn ngữ con người, ngài sẵn sàng và ao ước các anh em của Ngài nhận biết Đức Yêsu, và nếu ngài bị những tai ương bất hạnh mà đổi lại các anh em Do Thái của ngài nhận biết Đức Yêsu, thì ngài sẵn sàng và muốn được điều đó.
Chắc chắn Thiên Chúa không yêu dân riêng của Ngài thua thánh Phaolô. Chắc chắn Thiên Chúa luôn làm điều tốt nhất cho dân riêng của Ngài. Thánh Phaolô cũng tin như vậy. Thánh Phaolô biết mình không hiểu chương trình của Thiên Chúa về dân riêng của ngài; và thánh nhân đã phải chấp nhận sự thực như nó đang là trong niềm phó thác vào Thiên Chúa: đa số người Do Thái không tin nhận Đức Yêsu.
Trên thế giới hiện tại có bao nhiêu người chưa tin nhận Đức Yêsu. Kitô-hữu phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, như Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái. Kitô-hữu phải có thái độ đối với họ như thánh Phaolô có thái độ đối với đồng bào Do Thái của ngài. Yêu thương, tôn trọng dân Do Thái. Không than trách Thiên Chúa tại sao lại để chuyện đó xảy ra, nhưng khiêm tốn nhận biết rằng chương trình của Thiên Chúa thật cao sâu vô cùng mà mình không thể hiểu thấu được.
3. Đức tin được diễn tả qua cầu nguyện, phó thác và yêu thương
Đức Yêsu cầu nguyện với Thiên Chúa sau một ngày làm việc. Đức Yêsu, một người luôn kết hiệp với Thiên Chúa nhưng vẫn cần có thời gian đặc biệt để cầu nguyện. Nếu Đức Yêsu còn cần cầu nguyện, thì mỗi người chúng ta còn phải cần cầu nguyện hơn nữa. Cầu nguyện là ý thức Thiên Chúa đang hiện diện với mình và yêu thương mình. Cầu nguyện là nhìn lại tất cả những gì mình làm trong tương quan với Thiên Chúa. Cầu nguyện để mình là mình hơn, để mình tự do với bạc tiền danh vọng tình duyên, để mình bình an và hạnh phúc hơn.
Đức tin vào Thiên Chúa và thái độ phó thác tất cả cho Thiên Chúa phải đi với nhau. Phêrô đã có thể đi trên mặt nước; nhưng một khi thiếu tin tưởng vào Đức Yêsu và vào Thiên Chúa thì ông bị chìm. Cuộc sống như con thuyền trên bể đời, không thiếu những sóng gió như thể làm chìm thuyền đến nơi. Các tông đồ cũng đã thiếu tin tưởng trên hồ Galilê nên đã phải đánh thức Chúa dậy. Phêrô cũng đã xin Chúa cứu khi thấy mình hầu chìm. Đức tin rất quan trọng để có tương quan thân tình với Thiên Chúa và đứng vững trong mọi nghịch cảnh.
Không ai thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện đó. Với đức tin, người ta như thể thấy được Thiên Chúa là Đấng Vô Hình. Với niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, người ta có thể chịu đựng và vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, để có thể bình an trong mọi hoàn cảnh. Cũng nhờ đức tin vào Thiên Chúa, con người có thể tin tưởng vào nhau; vì tin rằng con người luôn có thể được Thiên Chúa biến đổi. Chính nhờ tin vào Thiên Chúa, mà con người có thể tin tưởng và yêu thương nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người liên hệ mật thiết với nhau. “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối; vì nếu anh em là những người hữu hình mà người đó không yêu thương thì làm sao người đó có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng vô hình được” (1Ga. 4, 20).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin Thiên Chúa yêu thương bạn không? Đâu là bằng chứng?
2. Theo bạn, cầu nguyện thì được lợi ích gì?
3. Theo bạn, “Thiên Chúa cần con người” hay “con người cần Thiên Chúa” hơn?
39.Con tưởng! – Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người! Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!
Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”
“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.
Lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy”…. Amen.
40.Con đường của Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
41.An toàn trên biển cả.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!
Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển, mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.
Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.
Thưa anh chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.
Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu. Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại, bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu việt của Thầy Giêsu.
Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu, đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.
Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh, ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: “Lạy Chúa, xin cứu con!”Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.
Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm vì “con thuyền Giáo Hội”có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an. Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn tưởng là bóng ma.
Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm… để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng định.
Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện diện.
42.Thuyền đời con
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Biến cố xảy ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta suy tư, đặt bản thân mình vào tâm thế của Thánh Phê-rô và các thánh Tông đồ xưa, khi chứng kiến sự việc Chúa Giê-su đi trên mặt nước đến gặp các ông vào khoảng canh tư, tức là 1 - 3 giờ sáng.
Phải chăng đời chúng ta như một con thuyền trôi giữa dòng đời biển lặng hay sóng xô, giữa cảnh gió mát trăng thanh hay bão bùng giông tố! Dù ở trạng huống nào chăng nữa, Chúa vẫn luôn đồng hành và dõi theo chúng ta. Chúa luôn đến gặp gỡ và dang tay che chở chúng ta như Ngài đã cứu giúp Thánh Phê-rô khi bước ra khỏi con thuyền, đi trên mặt nước đến với Ngài.
Có một điều chúng ta nhận thấy rõ ràng: trong Kinh Thánh luôn tường thuật lại sự việc trước và sau khi Chúa Giê-su thực hiện chương trình gì, Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện một mình, “giải tán họ xong, Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Ngài vẫn ở đó một mình” (Mt 14, 23); và nhất là sau khi Ngài làm phép lạ nuôi sống năm người đàn ông chưa kể đàn bà, con trẻ. Thánh sử Mát-thêu không viết chi tiết sự việc xảy ra sau đó, nhưng các thánh sử khác trình bày: sau khi được ăn no nê, mọi người tìm kiếm và muốn tôn Ngài làm vua (x. Ga 6, 15)! Với lẽ thường, Ngài được phong vương là điều tất yếu; nhưng vinh hoa chóng qua ấy, sự quang vinh trần thế ấy chẳng phải ý định của Chúa Cha, và không thuộc về sứ mệnh của ‘tôi trung của Thiên Chúa’.
Sau khi rời xa vinh quang chóng vánh ấy, Ngài lại kết hiệp mật thiết với Chúa Cha qua hơi thở cầu nguyện, qua mọi sinh hoạt thường nhật của Ngài. Dẫu đời chúng ta có lẽ là con thuyền trôi đi chăng nữa, nhưng nếu chúng ta được ‘phong vương’ trong thuyền ấy, thì chắc gì chúng ta rời thuyền, bước ra ngoài giữa biển đời rộng lớn bao la xung quanh ta!
Mặc khác, nỗi sợ hãi vô hình trong hay ngoài chúng ta luôn bủa vây, chúng ta có dám đưa chân bước ra, đến gặp gỡ Chúa và anh chị em! Các thánh Tông đồ trên thuyền giữa biển hồ sương mờ giăng kín, lúc canh tư (1-3 giờ sáng) trời vẫn chưa sáng tỏ để nhận diện ai đó, thì Chúa Giê-su lại đến gặp các ông (x. Mt 14, 25) ngay thời điểm khó lòng nào biết trước được. Trong trạng huống này, các ông không nhận ra Ngài, và hoảng sợ, kêu la vì tưởng là bóng ma cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, sau khi nghe giọng nói thân quen: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27), thì các ông được trấn an phần nào. Và như bao lần khác, Phê-rô luôn tiên phong, đại diện cho nhóm Mười hai, xin Chúa cho ông đi trên mặt nước đến cùng Ngài.
Trong đời mỗi chúng ta, biết bao nhiêu e ngại, hãi hùng đưa chúng ta đến việc trốn tránh, chạy trốn hay dối diện với nó? Nào là:
nỗi sợ hãi vô định, bất an giữa màn đêm cuộc đời,
nỗi e dè mong lung, nhạt nhoà, mờ ảo trong cuộc sống,
nỗi hãi hùng trước phong ba gió lớn nổi trôi giữa đời,
nỗi nghi ngờ, mất niềm tin khiến chân tay rụng rời,
nỗi xốn xang bộn bề trong tâm trí làm con tim yếu đuối…
Thật vậy, khi được truyền đi trên mặt nước đến cùng Chúa, chỉ là cơn gió mạnh thổi qua cũng đủ làm Phê-rô sợ hãi, muốn chìm xuống biển hồ. Vốn là một ngư phủ dày dạn kinh nghiệm, dẫu lúc ấy ông có thể bị chìm đi nữa, cũng không đáng sợ cho lắm vì ông biết bơi cơ mà! Tuy nhiên, khi nỗi sợ hãi chiếm lĩnh con người chúng ta, khi xung quanh chúng ta vây kín với bóng đen tối tăm vô định, thì sở trường cũng trở nên sở đoạn, điểm tối ưu cũng trở nên điểm yếu và tệ hơn nữa là mất nhuệ khí, can đảm!
Nói chính xác hơn, nhờ câu nói của Chúa Giê-su với Phê-rô sau khi ông đi trên mặt nước một đoạn, bỗng sợ hãi thốt lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” (Mt 14, 30), chúng ta biết nguyên nhân sâu xa hơn vì sao ông trở nên như vậy, “người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31). Trong phút chốc, Phê-rô đã kém tin, đã không tín thác vào Thầy Giê-su đang đứng chờ trên ‘biển đời’ dù tối tăm ra sao, dù sóng to gió lớn thế nào. Phê-rô đã rơi vào tâm trạng hoài nghi, có lẽ vì quá sợ hãi! Thiết nghĩ, hơn một lần, chúng ta cũng đã từng rơi vào hoàn cảnh như thánh Phê-rô trong biến cố này, cũng bất tín, nghi ngờ sự hiện diện, đồng hành, nâng đỡ, chở che của Chúa. Có lẽ nhiều lần trong đời, chúng ta kém lòng tin vì đủ mọi lí do, vô vàn lời khước từ chăng?
Ước gì sau mỗi biến cố lớn nhỏ xảy ra trong cuộc sống, chúng ta đều nhận ra bàn tay yêu thương của Chúa, và biết tuyên xưng đức tin như các thánh Tông đồ khi xưa, “chứng kiến mọi việc đã xảy ra, các ông trong thuyền đến sụp lạy mà rằng: Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (x. Mt 14, 33).
Thuyền con lênh đênh sóng khơi
Trôi đi trôi mãi xa nơi bến bờ
Có Chúa con chẳng bơ vơ
Đưa tay dẫn lối con thơ tháng ngày.
Đời con lắm lúc đắng cay
Dường như vắng Chúa, chẳng hay tình Ngài!
Tiếng mời tha thiết đêm dài
Chứa chan dìu dắt tương lai con cùng. Amen!
43.Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không đồng ý với phản ứng của dân chúng… Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để ‘củng cố đức tin anh em’, nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông. Chúng ta hãy để ý các điểm này:
1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.
2) Phải lượng định làm sao cách hành động của các môn đệ và của Phêrô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão, hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta phải thưa nhiều lần: ‘Lạy Chúa con tin, nhưng xin tăng thêm đức tin cho con’ sao?
3) … tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.
44.Phép lạ.
Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel, tiên tri Elia bị hoàng hậu Giêxabel đòi mạng. Thất vọng, ông tìm đường trốn lên núi Horeb miền. Thiên Chúa hiện đến và Ngài đã mạc khải cho ông, như xưa Ngài đã mạc khải cho Maisen, nhưng không còn là trong bão táp sấm chớp, cũng không trong tiếng rung chuyển của trái đất, hay trong lửa hồng bừng cháy, nhưng trong cơn gió nhẹ hiu hiu thổi.
Qua biến cố này chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa vượt trên mọi sức mạnh thiên nhiên, nhất là sự hữu hiệu của lời Ngài rất đơn sơ và xem ra cũng rất nhẹ nhàng. Sự hữu hiệu ấy nói lên lòng thương xót và dịu hiền của Ngài vượt trên sự công bình và sợ hãi. Và giờ đây, những phép lạ của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, còn kỳ diệu hơn cả thời Elia, đã làm rạng rỡ cho lòng thương xót và dịu hiền vô bờ của Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán:
- Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì khác xa tư tưởng và đường lối của con người.
Vậy ai dám giới hạn Ngài trong một phạm trù, đặt để Ngài trong một hệ thống và hạn chế Ngài trong chính hành động của Ngài. Từ chối không chấp nhận phép lạ chính là từ chối tự do của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu.
Thánh vịnh cũng nói: Mọi vật được tạo dựng nhờ Ngài… Đúng thế, khắp nơi các nhà bác học khám phá ra những định luật thiên nhiên. Những định luật này họ không hề sáng chế hay ẩn định, thế mà không lề luật nào mà lại không có người làm luật.
Vậy ở đây phải chấp nhận một Đấng làm luật toàn năng và vĩnh cửu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi sự. Nếu có đấng nào ở trên mọi lề luật, thì đấng ấy chỉ có thể là Ngài. Ngài luôn có thể hành động không cần nhờ trung gian. Một sự can thiệp trực tiếp được gọi là phép lạ, hành động của Thiên Chúa.
Qua Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ, chúng ta thử đưa ra một vài trường hợp tiêu biểu để khám phá ra ý nghĩa và mục đích của sự can thiệp này, bởi vì Đức Kitô thường giảng dạy chúng ta qua những hành động và ngôn từ, qua việc làm và lời nói của Ngài.
Trước hết là tại tiệc cưới Cana. Bữa tiệc đang tiếp diễn thì Mẹ Maria đến nói nhỏ với Chúa: ‘Họ hết rượu rồi’. Chúa Giêsu sai đổ đầy nước vào các chum rửa tay chân và dạy múc đưa đến cho chủ nhà. Phép lạ được thực hiện. Chỉ với ý muốn, Chúa Giêsu thực hiện được một phép lạ, mà chẳng cần đến một phương tiện nào cả. Hành động của Ngài vượt quá mọi mơ tưởng của các nhà khoa học, không cần gì chất hóa học hay giòng điện để biến đổi.
Tiếp đến là nơi hoang địa, với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi sống năm ngàn người, không kể đàn bà và con nít. Và lần khác, với bảy chiếc bánh, Ngài đã cho bốn ngàn người được ăn no nê. Và hôm nay, Ngài đã vớt Phêrô lên thuyền và làm cho sóng yên biển lặng.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi hành động của Thiên Chúa đều mang tính cách phép lạ, nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta không nhận ra. Chẳng khác chi trước sự tận tâm của người mẹ, nào có mấy đứa con cảm nhận sâu xa được, cho dù thực tế đó là những hành động thật phi thường.
Tuy nhiên, đôi khi Thiên Chúa cũng làm những phép lạ như một phương tiện thay đổi tùy thời, tùy nơi, tùy nhu cầu và não trạng. Nhưng mục đích Ngài nhằm tới đó là củng cố niềm tin, giúp chúng ta thay đổi cuộc sống và con người của mình.
Gặp thời thuận tiện, cũng như không thuận tiện, chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và nâng đỡ chúng ta.
45.Thầy đây mà! Đừng sợ!
Anh chị em thân mến,
Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ trẻ mới học nghề, anh ta muốn được nổi tiếng và vừa để kiếm tiền, anh họa hình Đức Tân Giáo hoàng. Hình họa không giống, không đẹp lắm! Anh đem bức họa vào để xin Đức Piô 9 ký tên bên dưới. Đức Piô 9, vẫn vui vẻ nhận lời. Bên trên chữ ký, ngài ghi lại câu Phúc âm này, Matthêu 14, 27: "Cứ bình tĩnh, Cha đây, đừng sợ." Ý Đức Thánh Cha cũng hơi hài hước. Ngài muốn nói: hình họa vừa xấu vừa không giống nữa... Nhưng anh chàng họa sĩ xem ra không hiểu, vẫn đem bức họa in ra và đi bán... Kính mời anh chị em cùng suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và lời nói của Chúa, chúng ta vừa nêu ở trên...
a/. Nguồn gốc câu chuyện phép lạ Chúa đi trên mặt biển: Câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no nê, chúng ta nghe trong tuần trước. Câu chuyện này xảy ra, vị trí ở phía bên kia bờ biển hồ Tibêriađê; tức là phía bên hoang địa; bên này bờ hồ là thành Capharnaum. Như vậy Chúa giảng dạy rồi hóa bánh ra nhiều cho họ ăn là ở phía bờ bên hoang địa. Ăn xong trời muốn tối; dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Người không đồng ý, nên bảo các môn đệ xuống thuyền mau về bên kia bờ là Capharnaum; còn Chúa, Người lại lên núi một mình. Canh tư đêm đó, lối quá nửa đêm, Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi đến thuyền của các ông. Khi Chúa đi gần tới họ tưởng là ma nên la hoảng lên. Chúa Giêsu đã trấn an họ: "Bình tĩnh, Thầy đây, đừng sợ."
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Trên đời này, nếu không có niềm tin, con người sợ nhiều thứ lắm: sợ chết - sợ bệnh tật - sợ bị thua kém - sợ người khác (sợ ma, quỉ)... Con người sợ những thứ đó, cũng phải thôi, vì trong vũ trụ này, thực ra con người là một tạo vật xem ra khá bé nhỏ. Bài tin mừng của chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu lại dạy mỗi người kitô hữu chúng ta: "đừng sợ", đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn...chỉ sợ Đấng đã giết rồi, lại còn ném vào hỏa ngục nữa (Lc 12, 4 - 5) - đừng lo cho mạng sống, lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc (Lc 12, 22) - Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi (Lc 12, 7). Con người lo sợ cũng phải, vì con người thấy mình thua kém, và không có chổ nương tựa. Ở đây Chúa dạy: "đừng sợ", nhất là "hãy tin cậy nơi Chúa"
Câu chuyện sau đây, minh chứng cho lòng tin mến vững vàng, không sợ hãi, của một người cùi, lại mù lòa nữa. Chị Vêrônica, một người Pháp, vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh cùi, 20 năm bị mù lòa, chị vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của người cùi tại nước Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời kinh đầy niềm tin, không sợ hải như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con cũng hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn đôi mắt của con. T rước đây con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con... Mỗi khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin đôi tay của con...
Con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn một sợi tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa! Chỉ còn lại vài que củi... khô queo nhám nhúa...!
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến độ nào rồi... Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn...Vâng lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn...Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của Chúa... Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha... Chiều nay, con xin dâng lên lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương đặc biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy hoại họ. Chiều nay, trong âm thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng là anh chị em của con...
Con là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình. Hãy nhận chìm con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với mọi người thân yêu của con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen..."
Chúng ta vừa nghe một lời kinh tràn đầy niềm tin yêu, không hề sợ hải, như chính những gì Chúa Giêsu muốn dạy qua bài TM chúa nhật hôm nay. Rõ ràng đây là một lời kinh nói lên chân lý: Tình yêu mạnh hơn sự chết...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua bài Tin mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy tin vững vàng nơi Chúa mà không sợ hải. Là người kitô hữu, ta có đủ tin vào lời Chúa không? Câu chuyện của Chị Vêrônica ta vừa nghe, có đánh động ta không? Ta có muốn cầu xin Chúa cho ta biết sống niềm tin vững vàng, không sợ hải trước mọi thử thách, khổ đau trong cuộc sống không?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam