Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1363586
THIÊN CHÚA TRUNG THÀNH
THIÊN CHÚA TRUNG THÀNH
(Suy niệm của Lm. Trần Thanh Sơn)
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, mùa sự đợi trông Chúa đến. Đức Giêsu Kitô đã đến không chỉ là một lần trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xử toàn thể thế giới.
Chính trong tâm tình đó, trong hai tuần lễ đầu của mùa Vọng, tiếp nối với tư tưởng của những ngày cuối năm Phụng vụ, lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tỉnh thức và sám hối để xứng đáng đón chờ ngày Đức Kitô tái lâm trong vinh quang. Còn trong Chúa nhật vừa qua, lời Chúa cho thấy Đức Giêsu vẫn đang hiện diện đồng hành với chúng ta trong mỗi nẻo đường của cuộc sống. Ngài vẫn đang đến với chúng ta qua mọi biến cố lớn nhỏ, vui buồn trong cuộc sống mỗi ngày. Và hôm nay, lời Chúa trực tiếp hướng tâm hồn chúng ta đến sự kiện có một không hai trong lịch sử: Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
1. Từ một lời hứa: Ngay khởi đầu của lịch sử nhân loại, kể từ sau khi Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa để đi vào cõi diệt vong, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban một Đấng Cứu Thế, để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã mất (x. St 3, 15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo đuổi lấy con người (x. 2 Tm 2, 13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. Và trong dân đó, Đấng Messia của Thiên Chúa đã được báo trước là sẽ thuộc dòng tộc vua David (x. 2 Sm 7, 12-16).
Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua David vẫn không giữ được lòng trung thành như chúng ta vừa nghe thuật lại trong bài đọc một. Khi đó vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN, các vua phương Bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua của Giuđa lúc bấy giờ là Akhaz thay vì hoán cải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyrie. Và để làm đẹp lòng vua của Assyrie, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngoại. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngoại, thiêu sinh cả con ông làm của lễ toàn thiêu. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho ngôn sứ Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thoát dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của mình, vị ngôn sứ bảo nhà vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.
Thế nhưng, nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thoát họ khỏi mọi đe doạ của quân thù.
2. Đức Giêsu, Đấng kiện toàn lời hứa: Dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia loan báo đã được thực hiện. Êdêkiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua mới này mặc dù cũng rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng Messia. Cuối cùng, vào năm - 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babilon. Như thế, lời tiên báo của ngôn sứ Isaia không dừng lại ở vua Êdêkien, nhưng còn đi xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế.
Vâng, với việc nhập thể của Đức Giêsu lời loan báo của các ngôn sứ đã được thực hiện, lòng mong ước của muôn dân từ bao đời nay đã được đáp ứng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không gò ép con người. Ngài vẫn tôn trọng tự do và mời gọi con người cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Lúc đó, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần, nhưng Đức Maria vẫn chưa về nhà chồng. Đức Giêsu vẫn chưa chính thức được nhận vào dòng dõi vua David như lời Thiên Chúa đã hứa. Thế là Thiên Chúa đã lên tiếng mời gọi sự cộng tác của một người thuộc dòng dõi vua David, đã đính hôn với Đức Maria, có tên gọi là Giuse. Trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã cho Giuse biết ý định của Thiên Chúa và muốn ông đón Đức Maria về nhà, và ông sẽ trở thành dưỡng phụ của Con Thiên Chúa. Một vinh dự thật lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm thật nặng nề. Thế nhưng, vì là “người công chính”, nên trong niềm tin tưởng và phó thác, Giuse đã sẵn sàng đáp lời. Tin mừng ghi lại: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”.
Từ đây, với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thật sự thuộc về hoàng tộc David, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho toàn thể nhân loại. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gởi cho các tín hữu thành Roma, thủ đô của cả đế quốc thời bấy giờ, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi David, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
3. Chúng ta hôm nay: Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa. Ngài đã đến và ở giữa chúng ta, thế nhưng chúng ta phải làm gì để xứng đáng với vinh dự ấy? Đó cũng chính là suy nghĩ của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ai sẽ được trèo lên núi Chúa. Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện Người”. Và cùng với câu hỏi, vịnh gia cũng đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời: “Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá”. Hay nói cách khác, đó là người sống công chính, có lòng yêu thương anh em, luôn nghĩ đến ích lợi cho người khác. Tắt một lời, đó là người có tâm hồn bác ái, yêu mến. Mà theo thánh Phaolô: “lòng mến thì khoan dung, nhân hậu; lòng mến không ghen tuông; lòng mến không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không vui mừng trước sự bất công, nhưng luôn biết chia vui cùng lòng chân thật” (1 Cr 13, 4-6).
Tóm lại, khi hướng chúng ta nhớ lại mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, Giáo Hội không chỉ là tưởng niệm lại một sự kiện đã qua, nhưng Mẹ Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta xác tín rằng: Con Thiên Chúa một khi đã đến thì chắc chắn Ngài sẽ lại đến, để rồi khi vui sống mầu nhiệm Giáng Sinh, mỗi người chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, gian truân trong đời sống với một lòng yêu mến, cậy trông và phó thác. Nhờ đó, ngay từ bây giờ, chúng ta xứng đáng đón Con Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta trong bí tích Thánh Thể và vào ngày Ngài trở lại, chúng ta cũng được hân hoan ra đón Ngài. Amen.
59.Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ở Giữa Chúng Ta
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mt 1: 18-24 Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có nghĩa là 'sinh ra', nói đến chính ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có nghĩa là 'sinh ra', nói đến chính ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô: Đây là biến cố trung tâm của lịch sử Cứu độ và của toàn bộ lịch sử nhân loại. Ngày sinh của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa rất quan trọng, đó chính là ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa như Tiên tri Isaia đã loan báo: Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa trong con người của Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô đã làm người để chia sẻ thân phận con người phải chết với nhân loại, để nhân loại được chia sẻ bản tính Thần linh với Thiên Chúa.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 7,10-16
Dấu chỉ Emmanuel
Để thúc đẩy vua Achaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh của liên minh quân sự, Tiên tri Isaia đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa sẽ yêu thương hiện diện với dân và cứu thoát dân tộc.
a. Bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các dân láng giềng, Vua Achaz nghĩ đến việc nhờ người Assyriens giúp đỡ. Tiên tri Isaia đã khuyên can ông không nên làm thế.
b. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của tiên tri, vua Achaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa sẽ ban cho ông một người con trai từ dòng dõi ông, chính người con này sẽ là người giải phóng dân tộc.
c. Người con này là Ezéchiaz, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô là Đấng Emmanuel đích thực.
2. Bài đọc II: Rm 1,1-7
Lời loan báo về ơn Cứu độ nơi Đức Giêsu,
Con Thiên Chúa, Con Vua Đavít.
Bản văn được trích đọc này khởi đầu lá thư dài của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Văn phong của bản văn như là một cách chào hỏi của tác giả. Thánh nhân nhấn mạnh đến sứ điệp Tin mừng mà Ngài đã lãnh nhận, sứ điệp này mạc khải về Đức Giêsu Kitô con vua Đavít, Người chính là Đấng Messia.
a. Thánh Phaolô được vinh quang và danh dự không phải do công trạng gì cả mà chỉ do được chọn gọi để công bố sứ điệp Tin mừng. Đó chính là điều làm nên phẩm giá của người môn đệ và trách vụ của người Tông đồ.
b. Sứ điệp Tin mừng này cho thấy phẩm giá cao quí của Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Người đã làm người thuộc dòng dõi vua Đavít theo xác thịt, là con người thật ; là Con Thiên Chúa theo Thánh Thần.
c. Trong thời gian mùa Vọng này, chúng ta hãy cảm nghiệm hơn nữa ân sủng cao quý vô song mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta qua Mầu nhiệm Nhập thể: Con Một của Ngài đã làm người ở giữa chúng ta đã mang lại thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi.
3. Tin mừng: Mt 1,18-24
Vai trò cao trọng của Thánh Giuse
Tin mừng hôm nay cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha của Chúa Giêsu theo luật pháp, Con Một Thiên Chúa, đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Với vai trò này, Thánh Giuse đã cộng tác cách đặc biệt với Thiên Chúa trong công trình cứu độ của Ngài.
a. Giuse, người công chính: Sự công chính của Thánh Giuse không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật mà là sự công chính tôn giáo. Ngài là người công chính vì tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria, Ngài thấy mình không có quyền dành lấy người mà Thiên Chúa đã dành riêng. Và cũng vì tế nhị nên cẩn thận không tiết lộ mầu nhiệm thần linh nơi Đức Maria. Thánh Giuse phản ứng như bao người công chính khác trong Thánh kinh trước Thiên Chúa: Môisen cởi giày trước bụi gai bốc cháy, Phêrô sợ hãi trước mẻ cá lạ phải thốt lên: "Lạy Chúa, xin hãy trách xa con vì con là người tội lỗi".
b. Sau khi được thiên sứ báo mộng, Thánh Giuse không còn thụ động nữa, Ngài đã trỗi dậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho Ngài trở nên một thành viên tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, nên người công chính.
c. Emmanuel: Matthêu đã nhắc lại lời tiên báo của Isaia 7,14 để minh chứng rằng Chúa Giêsu chính là Đấng đã được các tiên tri loan báo. Lời Thiên Chúa hứa thuở xưa nay đã được thực hiện. Chúa Giêsu Con Một Thiên Chúa đã đến làm người ở giữa nhân loại để ban ơn Cứu độ.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nơi Chúa Giêsu lời hứa đã thành hiện thực:
Thiên Chúa ở cùng chúng ta là để yêu thương và ban ơn cứu độ. Điều này đã được Chúa Giêsu thực hiện cách trọn vẹn. Mátthêu trong trình thuật hôm nay đã trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước để minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria chính là để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia. Ở phần cuối Tin mừng thứ nhất này, Mátthêu cũng ghi lại lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Như thế, Tin mừng theo Thánh Mátthêu đã khởi đầu và kết thúc với tư tưởng xuyên suốt: Thiên Chúa đã ở cùng nhân loại nơi con người Chúa Giêsu Kitô.
Ngày nay chúng ta sống là sống trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có Người đồng hành, có Người hướng dẫn, có Người sẻ chia cuộc sống. Thế thì tất cả cuộc sống của chúng ta có sống và làm nhờ Người, với Người và trong Người không ?
2. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, cần phải biết đón nhận Ngài:
Thánh Giuse là người công chính vì đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Ngài biết là Con Thiên Chúa, Ngài sợ mang tiếng là người chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Thế nhưng, một khi đã biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Thiên Chúa, Ngài không từ chối. Như vậy sự công chính của Thánh Giuse chính là biết tôn trọng và nghe theo Chúa. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết nghe và đón nhận Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình. Chúa đang hiện diện với chúng ta, điều quan trọng là mỗi người có biết đón Chúa hay không.
Ngày nay, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Kinh thánh, trong Bí tích Thánh thể xem ra dễ dàng hơn việc Thánh Giuse tin rằng con trẻ mà hôn thê của mình đang mang là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến với nhân loại, Ngài đang hiện diện sống động nơi Giáo hội, nơi Lời của Ngài, nơi anh chị em nghèo khổ … Kitô hữu hôm nay có biết đón tiếp Ngài không ?
3. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nguồn hạnh phúc cho con người:
Thiên Chúa đến ở với nhân loại chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng vì yêu và vì muốn ở với con người. Trước khi sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn đến với con người. Chỉ vì sa ngã phạm tội mà con người đã từ chối Thiên Chúa mà thôi. Với sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lòng nhân thế để ban ơn Cứu độ, Thiên Chúa muốn tái lập lại tình trạng hạnh phúc cho con người. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu.
Thực ra cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải tin, cần phải chuyên cần cầu nguyện và cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Mầu nhiệm Thánh thể mới có khả năng cảm nghiệm được hạnh phúc có Chúa trong cuộc đời. "Có Chúa trong cuộc đời nỗi sướng vui tuyệt vời" là lời hát phải bật lên từ toàn bộ tâm khảm, toàn bộ con người trung thành với niềm tin.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa Giêsu đã đến để thực hiện lời hứa này của Thiên Chúa Cha. Nơi Bí tích Thánh thể, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động với nhân loại hôm nay. Chúng ta cùng tiến đến Bàn tiệc Thánh thể để đón tiếp Người vào trong cuộc đời, trong gia đình chúng ta.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương đến ở với chúng ta để mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Chúng ta cùng hân hoan chạy đến cầu xin với Ngài.
1. Giáo hội, Nhiệm thể của Chúa Giêsu chính là nơi con người và thế giới gặp gỡ với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội luôn biết đồng hành với nhân loại để thực sự chia sẻ mọi nỗi vui mừng và âu lo để làm cho thế giới hôm nay ngày càng có hòa bình, công lý và hạnh phúc hơn.
2. Ngày nay có nhiều người, nhiều nơi chưa nhận biết Chúa mặc dù Ngài vẫn hiện diện. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh, những bệnh nhân luôn nhận ra sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa qua lòng bác ái quảng đại của mọi anh chị em Kitô hữu.
3. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta biết mở lòng đón Chúa bằng thái độ chân thành sống và thực thi Lời Chúa ; bằng lòng yêu mến Thánh thể nhiệt tâm.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban Chúa Giêsu, Con Một của Chúa đến làm người ở giữa chúng con. Xin ban ơn giúp chúng con biết mở lòng đón nhận Người qua việc yêu mến Lời Người và chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón nhận Mình Máu Thánh Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
60.Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
John P., một linh mục Ái Nhĩ Lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”
Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”
- “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.
Nhưng anh ta trả lời: “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.”
Vị linh mục ngạc nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?”
- “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”
Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”
Anh thanh niên chậm rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.”
Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?
Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu.” Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”
Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.”
Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
61.Thánh Giuse, một con người trầm lặng
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 1: 18-24 Thánh Giuse đã tuân theo lệnh Chúa và đón nhận Maria về nhà mình. Người tin tưởng vào Thiên Chúa và chu tòan sứ mệnh Thiên Chúa trao gởi.
Có một vị vua kia đã già rồi nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai đến cung điện để vua chọn một người làm dưỡng tử mà sau này lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc tuyển chọn của nhà vua. Chàng muốn đến cung điện nhà vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có lấy một bộ quần áo tương xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng đáng với buổi triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão già xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc. Động lòng thương, không chút ngần ngại, chàng đổi cho ông bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với bộ quần áo rách tả tơi như thế này không. May mắn thay, chẳng ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng, chàng lại càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình, nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta hình dung được phần nào khuôn mặt của thánh Giuse trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa nhật thứ hai và thứ ba mùa vọng, các bài Tin Mừng đề cập tới một nhân vật không thể thiếu trong mùa vọng, đó là thánh Gioan Tẩy Giả, còn bài Tin Mừng thứ tư mùa vọng hôm nay lại nhắc đến một nhân vật nữa, đó là thánh Giuse, một nhân vật cũng không thể thiếu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa cùng với người bạn đời của ngài là Đức Maria.
Giuse đã quyết định cùng với Đức Maria xây dựng cuộc đời chung sống. Một chương trình bình thường như bao người bình thường khác, nhưng lại xảy ra một biến cố thử thách, đó là Maria có thai trước khi hai người về chung sống với nhau.
Chúng ta thấy thánh Giuse đang ở một hòan cảnh thật nan giải: một mặt ngài không thể im lặng để chấp nhận bào thai kia là con của mình, mặt khác ngài cũng không muốn làm rùm beng chuyện này vì như thế sẽ làm mất thể diện của Maria và Maria có thể bị ném đá, đó là điều Giuse không muốn chút nào.
Quả thật, thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy. Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “đừng ngại nhận Maria về làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse đã tuân theo lệnh Chúa và đón nhận Maria về nhà mình. Người tin tưởng vào Thiên Chúa và chu tòan sứ mệnh Thiên Chúa trao gởi. Ngài khiêm tốn thi hành phận sự như một đầy tớ tín trung. Ngài không tính tóan, nhưng luôn sẵn sàng “chỗi dậy” để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Mệnh lệnh của Chúa phán ra là phá đổ mọi kế họach của lòai người. Tin theo là bước đi từng bước trên nẻo đường tương lai chỉ được soi sáng từng bước. Niềm tin không có sẵn câu giải đáp cho những trường hợp cụ thể.
Nhìn vào thái độ của thánh Giuse, chúng ta rút ra được bài học cho cuộc sống. Mỗi người chúng ta đều có những chương trình riêng cho đời mình. Nhưng nếu có những bất trắc xảy ra, chúng ta sẽ giải quyết như thế nào? Có lẽ chúng ta sẽ kêu ca, trách móc, hoặc chúng ta kể lể với hết người này đến người khác gọi là để “tâm sự”. Nhưng chúng ta thấy gì nơi thánh Giuse? Ngài đã thinh lặng.
Chính trong thinh lặng thánh Giuse đã nhìn ra thánh ý của Thiên Chúa. Điều quan trọng trong cuộc sống, đó là nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống. Để làm được điều này chúng ta phải thinh lặng và sống trong bầu khí thinh lặng như thánh Giuse. Amen.
62.Ngăn trở - Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống luôn có những ngăn trở. Ngăn trở do chính mình gây nên cũng lắm mà do hoàn cảnh dẫn đến cùng nhiều. Ngăn trở rõ ràng nhất là những giấc mơ trong đời. Người nào cũng có những giấc mơ ước mong hoàn thành và những giấc mơ cho tương lai dài. Có những giấc mơ đến rồi qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ khác rồi lại để chúng qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ mới đến nỗi thân hữu cho là người sống tron mơ. Lí do không thực hiện được giấc mơ vì họ không thực hành điều mơ ước. Lại cũng có người thực hiện giấc mơ nửa chừng rồi chán nản, thất vọng để giấc mơ tan vào dĩ vãng. Một ít thực hiện giấc mơ cách tốt đẹp và hưởng thành quả tốt đẹp của điều hằng mơ ước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ cũng có một số ít nhân tuyển vui lòng chấp nhận thay đổi giấc mơ cá nhân mình để thực hiện ý định chung của Thiên Chúa. Họ chấp nhận từ bỏ giấc mơ cá nhân và thay vào đó là thực hiện sứ vụ thiên quốc với mục đích rõ ràng. Mục đích đó là cộng tác vào công trình cứu độ của Đấng Cứu Thế. Người đầu tiên chúng ta biết đến đó là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng khấn sống trọn đời khiết trinh nhưng theo ý Chúa qua ngôn sứ Đức Trinh Nữ chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau khi thưa hai tiến xin vâng cuộc sống trinh nữ của Mẹ hoàn toàn thay đổi. Người khác nữa là hai mẹ con là thánh nữ Elizbeth và thánh Gioan Tẩy Giả. Như bao nhiêu người mẹ khác luôn có những ước mơ riêng cho con mình nhưng thánh nữ vui lòng chấp nhận để con mình trở thành người mở đường cho Chúa Cứu Thế, sống trong hoang địa, mặc áo da thú và ăn châu chấu trộn mật ong. Người nữa cũng hoàn toàn thay đổi giấc mơ riêng để làm theo lời sứ thần là thánh Giuse. Phúc âm không ghi lại thánh Giuse có giấc mơ riêng gì nhưng qua trao đổi giữa thánh nhân và sứ thần thánh Giuse đã chấp nhận cưới cô Maria làm người bạn đường. Dù chấp nhận làm công việc đó nhưng thánh nhân trong hoàn cảnh sống cũng cảm thấy khó có thể thực hiện điều đã hứa. Sau nhiềm đêm mất ngủ, suy nghĩ chín chắn thánh Giuse đã định li dị cô Maria một cách kín đáo. Ý riêng đã quyết nhưng thánh nhân cảm thấy tâm hồn mất bình an. Âm thầm liên tục cầu nguyện tìm rõ ý Chúa và sứ thần Chúa đến với thánh nhân qua những giấc mơ hướng dẫn đừng ngại tiếp tục lời đã hứa. Là người khôn ngoan tin vào lời cầu nguyện cộng thêm tính cẩn trọng không vội thi hành ý riêng, thánh nhân thực hành lời sứ thần hướng dẫn trong giấc mơ và tìm lại bình an nội tâm. Chính bình an nội tâm là dấu chỉ rõ ràng giúp thánh nhân giữ trọn điều thề hứa thi hành thánh ý Chúa đến cùng.
Nhiều người trong chúng ta cũng thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Thánh ý Chúa một cách chung cho tất cả mọi người là sống làm chứng nhân cho Chúa giũa đời và loan báo Tin Mừng cho toàn thể nhân loại. Ngoài thánh ý chung ra mỗi cá nhân thường gặp khó khăn khi phải tìm hiểu thánh ý riêng cho cá nhân mình. Điều rõ ràng là hầu như ai cũng có kinh nghiệm khi sống đời sống đạo chúng ta luôn có những lúc tự tin, cảm thấy con đường mình đang đi là con đường Chúa mời gọi chúng ta đi; khi khó khăn đến chúng ta lại cảm thấy con đường mình đang đi là con đường sai, con đường dẫn đến ngõ cụt. Đây chính là kinh nghiệm của Thánh Giuse khi chấp nhận là cha nuôi Đấng Cứu Thế. Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, ơn gọi trong đời sống bị ngăn trở hãy học hỏi từ thánh Giuse, đừng vội vã, hấp tấp đi đến quyết định dứt khoát nhưng khôn ngoan, cẩn trọng và tin vào những kinh nguyện âm thầm trong đêm, tìm bình an cho tâm hồn nhất là bình an sau khi đã có giải đáp cho vấn đề. Lắng nghe tiếng nói nhẹ nhành trong đêm tối sẽ nhận ra ánh sáng của Lời Chúa.
Trong nhiều trường hợp bệnh tật và điều kiện xã hội ngăn cản ta thi hành ý Chúa trong đời. Nhiều người muốn theo đời sống ơn gọi tu trì nhưng nếu sống trong xã hội người lãnh đạo không có thiện cảm với Thiên Chúa giáo thì ơn gọi đó thường bị ngăn cản. Sức ép của bạn bè và thiếu khuyến khích từ gia đình cũng là những cản trở cho việc thực hiện ơn gọi tu trì. Điều quan trọng cần nhớ là một khi con đường ta đang đi gặp ngõ cụt đừng quá chán nản, đầu hàng bởi nếu con dường này cụt sẽ có một con đường gần đó là con đường dẫn đến nơi tốt lành, có thể là nơi ta không muốn đến nhưng ý Chúa nhiệm mầu, hiểu sao thấu. Tỉnh táo, cẩn trọng và kiên nhẫn tìm kiếm sẽ gặp được con đường mới dẫn đến đích Chúa mời gọi. Kẻ thất bại là kẻ đầu hàng. Học từ thánh Giuse, kiên tâm bền chí dẫn đến thành công.
63.Chối bỏ - Lm. Vũ Đình Tường
Khi lớn lên nhận biết trước khi mình được sinh ra thì cha mẹ đã không muốn thấy mặt mình là một nỗi sầu lớn trong đời. Cha mẹ có thể vì áp lực xã hội, phong tục địa phương không dám nhận em bé sinh ra ngoài hôn nhân. Dù lí luận thế nào đi nữa cũng không thể thay đổi được thực tế phũ phàng của việc từ bỏ đứa con chưa ra đời. Đứa nhỏ là một bào thai, vô tội, chưa từng gây điều trái trở thành nạn nhân của xã hội đương thời hoặc nạn nhân của ý riêng. Đức Kitô là đứa trẻ bị chối bỏ trước khi sinh ra nhưng Ngài lớn lên mà không hề mang mặc cảm, không hằn thù, tự ti, mặc cảm, cũng chẳn hề nửa lời trách cha mẹ mình.
Phúc Âm tường thuật trước khi về chung sống với nhau cậu Giuse biết cô Maria đã có thai nên cậu âm thầm định từ hôn một cách kín đáo. ý định từ hôn vì sợ tiếng đời và sợ liên luỵ đến an nguy của cô Maria và bào thai trong cô Mat 1,19.
Về phần cô Maria cũng không hơn gì. Sứ thần đến báo tin cho biết cô sẽ mang thai và sẽ sanh một bé trai. Để chuẩn bị đưa tin sứ thần đã chuẩn bị tâm tình cô thông báo
‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở củng bà’ Lc 1,28
Sau đó sứ thần loan tin. Bằng đó câu khuyến khích chúc mừng giúp cô Maria bớt lo lắng bồn chồn khi nhận tin cô sẽ thụ thai. Cô Maria bối rối, lo lắng nhưng vẫn muốn hỏi cho rõ: việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng Lc 1,34.
Mặc dù không hề có chữ nào nói là cô Maria không muốn có con nhưng thái độ của cô Maria cho thấy cô không sẵn sàng đón nhận em bé đó.
Từ chối đón nhận tin vui Đấng Cứu Thế sinh ra cách đây hai ngàn năm dường như được lập đi, lập lại nhiều lần trong lịch sử cứu độ. Mỗi một thế hệ người sinh ra lại có người chấp nhận tin vui và cũng có người từ chối tin vui. Người ta mong đợi Đấng Cứu Thế đến nhưng khi Ngài đến người ta từ chối đón nhận. Người ta đi tìm ánh sáng chân lí nhưng khi ánh sáng đó lan tràn người ta lại chạy núp trong bóng tôi, ưa bóng tối hơn ánh sáng chân lí. Người ta khát khao tình yêu chân thật từ Thượng đế nhưng khi tình yêu đó đến người ta làm ngơ tình yêu từ thiên giới và chờn vờn với tình yêu tạo vật. Người ta đi tìm sự sống nhưng khi sự sống trường sinh đến người ta lại đóng đinh sự sống đó.
Thiên Chúa đến trong thế gian một cách bình thường đến độ con người làm ngơ, coi việc Ngài đến như là sự sống bình thường của một con người bình thường. Có lẽ còn đơn sơ, hèn mọn hơn cuộc sống của một con người bình thường. Sinh ra nơi đồng hoang, trong cảnh nghèo, giữa kẻ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Ngài đến rao giảng tin vui nhưng kẻ đón nhận, người từ chối, chê bai. Ngài đến không kèn, trống. Có tiền hô, hộ ủng đấy. Tiền hô là một chàng trai trẻ, mặc áo lạc đà, ăn châu chấu, uống nước sông. Hậu ủng là nhóm mươi người lang thang, thất thế, không nhà cửa. Đường lối Thiên Chúa khác hẳn đường lối xã hội. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu mà tình yêu chân chính gắn liền với khiêm nhu, đơn sơ và khó nghèo. Ba đặc điểm trên thể hiện ngày Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Ba đặc điểm trên cũng thể hiện ngày Ngài tử nạn trên thập tự. Trên đồi Calvê có bạo động, có tiếng búa chói tai, có hò hét, la ó. Ai gây ra tiếng đó thưa là những nhà lãnh đạo trong dân. Thưa là đám lí hình hành hung người tù và cuối cùng là tiếng của đám đông chứng kiến. Đấng Cứu Thế im lìm đón nhận tất cả vì tình yêu Ngài dành cho nhân loại.
Cậu Giuse và cô Maria đón nhận Đấng Cứu Thế do sự can thiệp kì diệu của Thiên Chúa. Mùa Giáng Sinh chúng ta xin ơn bình an và ơn cam đảm đón Chúa tái sinh trong cõi lòng mỗi người.
64.Hãy để Chúa bước vào đời ta
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ông bà ta thường nói "nhập gia tuỳ tục, nhập giang tùy khúc", nghĩa đen: “Vào nhà tùy theo tục nhà, vào sông tùy theo khúc sông”, còn nghĩa bóng: “Đến nơi nào phải theo phong tục của nơi đấy”. Cụ thể, khi một vị khách vào nhà của ai, người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà chúng ta vẫn đã và đang làm trong cuộc sống văn hóa Á đông của chúng ta.
Nhưng, qua Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria, Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo ý hay tục lệ chúng ta đã sắp xếp. Người đó chính là Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các Ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các Ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse. Ý định của Đức Mẹ ban đầu là dâng mình tận hiến cho Thiên Chúa, Thánh Giuse là người công chính định tâm bỏ Đức Mẹ cách kín đáo khi biết Đức Mẹ có thai mà chưa đính hôn với mình. Rõ ràng, trong Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã bước vào đời của các Đức Mẹ và Thánh Giuse và các Ngài cũng đã để Chúa bước vào cuộc đời của mình, vì thế, chúng ta thấy cuối đoạn Phúc âm, Thánh Mátthêu viết: “khi tỉnh giấc, Ông Giuse đón vợ về nhà”. Tới đây, tưởng chừng như bình an và hạnh phúc đến với gia đình trẻ này, nhưng rồi Thiên Chúa "không để yên" cho các Ngài. Thiên Chúa giao cho các Ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các Ngài, nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những người, Ngài yêu thương cách riêng.
Qủa thế, Mẹ Maria được Thiên tuyển chọn, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và qua trung gian Mẹ Maria, Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Vì Mẹ Maria sống khiệm nhường nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng làm theo ý Chúa trong ngày truyền tin cho đến tận đồi Can-vê. Vì Mẹ sống khiêm nhường nên Mẹ đã để Thiên Chúa bước vào đời Mẹ và Mẹ đã gặp được Thiên Chúa và được Chúa đến ngụ trong tâm hồn Mẹ. Vì thế, Mẹ đã luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống và làm theo những gì Thiên Chúa muốn nơi cuộc đời của Mẹ với niềm hy vọng và tin tưởng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình...... Nhờ việc hạ mình sống theo ý và Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc hơn mọi người phụ nữ. Còn Thánh Giuse, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm! Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). Rồi, cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21). Ấy vậy, bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua, một niềm tin tưởng, phó thác vào bàn tay dìu dắt của Chúa. Ngài luôn nhạy bén khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù gặp nhiều sự dữ hơn sự lành và luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.
Hai tiếng "xin vâng" tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các Ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng. Dù các ngài là những con người được Thiên Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các Ngài trở thành những con người được "muôn đời ca tụng".
Dù Thiên Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách "nhập gia không tuỳ tục", nhưng Thiên Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của chúng ta vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Thiên Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến làm xáo trộn chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai. Chúng ta nên biết rằng nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình, cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường là Chúa Giêsu vì Lời Chúa nói: “Được lời cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì”. Hãy để Thiên Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài và cả chúng ta thành những con người có phúc và bính an ngay hôm nay và mai sau. Amen.
65.Sống Mùa Vọng theo gương Thánh Giuse
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta mẫu gương Thánh Giuse, người công chính đón Chúa đến trong cuộc đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc đính hôn này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng. Bài Tin Mừng hôm nay nói hôn nhân của Thánh Giuse và Đức Mẹ trong giai đoạn này. Còn Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa, tức là đôi bạn chung sống thật sự với nhau.
Tin Mừng kể trước khi kết hôn, Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai. Và cũng theo Luật hôn nhân Do thái, trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ hay người chồng ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria có thai làm cho thánh Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử nên định tâm bỏ Đức Mẹ thật kín đáo. Nhưng, Thánh Giuse là người công chính nên với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác Đức Mẹ”. Đang khi định tâm như vậy, thì sứ thần Chúa đến báo trong giấc mơ rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Khi tỉnh giấc, Thánh Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà và Thánh Giuse đã không ăn ở với Mẹ Maria.
Quả thật, Thánh Giuse là người công chính nên mới làm những việc trọng đại như thế. Nhưng, thế nào là công chính? Trước tiên sự công chính phải là một sự thành thực với chính mình, lắng nghe tiếng lương tâm và can đảm thi hành những gì lương tâm nói cũng là tiếng Chúa cho biết là đó là điều chính đáng, là Thánh ý Thiên Chúa. Hành động thánh Giuse không muốn tố giác...nên định tâm lìa bỏ cách kín đáo... cho thấy thánh Giuse không hành động theo thói quen, ứng ích kỷ của con người ngược lại, Thánh Giuse với sự suy nghĩ sâu xa và thành thực, Ngài đã tìm cách giải quyết đúng đắn nhất theo tiếng nói lương tâm. Thứ đến sự công chính đích thực là sự tôn trọng người khác. Thánh Giuse thực sự đã tôn trọng Đức Maria, chỉ nhờ sự tôn trọng đó mà Thánh Giuse mới có thể tin sự thụ thai của Đức Maria là huyền nhiệm nên Ngài đã không kết án Đức Maria cách võ đoán. Sau cùng chính nhờ thái độ thành thực với chính mình, tôn trọng Đức Maria như vậy, nên thánh Giuse mới nghe theo lời của Sứ thần và tin vào chương trình Thiên Chúa muốn thực hiện nơi người Bạn đời của mình và nơi cuộc đời mình.
Trong cuộc đời, mỗi người chúng ta ai cũng có những chương trình riêng: học hành, công ăn việc làm, chuyện lấy chồng lấy vợ, gia đình và con cái, tu trì, sức khỏe, của cải tương lai, chuyện Đạo hạnh bản thân và gia đình... những công việc ấy vẫn xảy ra từng giây phút trong đời của mỗi người chúng ta, làm cho chúng ta phải lựa chọn giữa chương trình của mình và kế hoạch của Thiên Chúa hay thánh ý của Chúa. Có những lúc thánh ý của Chúa làm đảo lộn dự tính tốt đẹp của chúng ta, buộc chúng phải suy nghĩ, phải lựa chọn. Có những lúc thánh ý của Chúa làm chúng ta phải bối rối vì không biết phải làm gì, vâng theo ý Chúa hay làm theo ý mình. Có những lúc thánh ý Chúa cần chúng ta phải có thái độ mở rộng trước những điều lạ lùng, những điều kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta. Thánh ý Thiên Chúa không phải lúc nào cũng hợp với ý thích của chúng ta. Nhờ sự công chính, thánh Giuse đã hiểu được điều đó, Người luôn sẵn sàng, mau mắn thi hành ý Chúa. Noi gương Thánh Giuse, chúng ta hãy sẵn sàng lắng nghe ý Chúa, làm theo ý Chúa như thế chúng ta mới nên công chính và giúp ta khám phá ra những điều huyền nhiệm của cuộc đời con người. Hãy để Thiên Chúa dẫn dắt cuộc đời ta qua những nẻo đường bất ngờ, từ đó ta mới có thể cảm nhận được tình yêu bao la của Chúa dành cho ta. Cho nên, Khi gặp hạnh phúc hay sung sướng, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời phải gắn bó với Chúa hơn nữa. Khi thành công và giàu có, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời biết chia sẻ với tha nhân vì chưng Chúa Giêsu dạy “cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20,35). Khi lâm cảnh túng thiếu nghèo khổ, đừng buồn bã, đừng oán trách trái lại, chúng ta cần phải cậy dựa và tìm đến Đấng phù trợ ta nhờ đó đức tin ta được mạnh mẽ và vững vàn hầu luôn được Chúa ủi an làm cho ta được bình an mà vui sống với Chúa, trong Chúa và bên Chúa. Khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng đánh mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Vì chính lúc ấy, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ đồng thời kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết noi gương Thánh Giuse, bước đi theo đường lối của Chúa và thi hành Lời Chúa trong cuộc sống hầu để Chúa luôn giáng sinh trong cuộc đời chúng con. Amen.
66.“Giuse đón vợ về nhà mình”
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử hành một tuần lễ áp, từ ngày 17 đến ngày 24, để nhắc lại tất cả những gì xẩy ra trước Biến Cố Giáng Sinh và trực tiếp liên quan đến Biến Cố Giáng Sinh. Đầu tiên là hai bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu, một cho ngày 17, về nguồn gốc loài người của Chúa Kitô theo gia phả của Người, và một cho ngày 18, về nguồn gốc Biến Cố Nhập Thể của Người, sau đó, Phúc Âm Thánh Luca thứ tự cho thấy chi tiết hơn, ở ngày 19, về việc thiên thần báo tin Gioan Tẩy Giả ra đời, ở ngày 20, về việc truyền tin Lời Nhập Thể, ở ngày 21, về việc Mẹ Maria thăm viếng bà Isave, ở ngày 22, về ca vịnh Mẹ Maria ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chẳng những “đã thương đến phận thấp hèn tì nữ của Ngài” là Mẹ mà còn “săn sóc Yếu Duyên tôi tớ của Ngài theo lòng Ngài xót thương, như Ngài đã phán hứa với các vị tổ phụ”, ở ngày 23, về việc đặt tên cho Gioan Tẩy Giả, và ở ngày 24, về ca vịnh Giacaria, thân phụ của hài nhi Gioan, báo trước việc “Chúa là Thiên Chúa của Yến Duyên đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài”. Theo chiều hướng ấy, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, cũng cho thấy, ở chu kỳ phụng vụ Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu, về việc thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse liên quan đến Lời Nhập Thể, ở Năm B theo Phúc Âm Thánh Luca, về biến cố Truyền Tin theo Phúc Âm Thánh Luca, (vì Phúc Âm Thánh Marcô cho chu kỳ Năm B không có một chi tiết nào về sự kiện Nhập Thể), và ở Năm C cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, về việc Mẹ Maria thăm viếng và được bà Isave nhận biết Đấng cưu mang trong lòng Người. Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu hôm nay cho chúng ta thấy nguồn gốc của việc “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32) nhập thể, một biến cố trực tiếp liên quan đến cha mẹ của Người, nhất là liên quan đến vị cha nuôi của Người.
Thật vậy, hai tuần Mùa Vọng trước đây chúng ta đã thấy nhân vật Gioan Tiền Hô nổi bật trong các bài Phúc Âm Thánh Mathêu, hôm nay, cũng theo Phúc Âm Thánh Mathêu, đến phiên nhân vật Giuse, nhân vật chính được Thánh Ký Mathêu ghi nhận, “Maria đã đính hôn” và “là một con người chính trực”. Và cũng chính vì “là một con người chính trực” mà Thánh Giuse, như Phúc Âm kể tiếp, “không muốn tố cáo (Mẹ) nên “định tâm bỏ (Mẹ) cách kín đáo”. Tuy Phúc Âm không thuật lại cho biết “con người chính trực” này tại sao lại đi đến quyết tâm như vậy, chúng ta cũng hiểu là thánh nhân đã nhìn thấy tận mắt Mẹ Maria đang mang thai, trong khi hai người mới đính hôn với nhau, chưa về chung sống vợ chồng với nhau. Sự kiện Chúa Giêsu được thụ thai trong thời gian Mẹ Người đính hôn này cho thấy, theo pháp lý Do Thái bấy giờ, một khi đã đính hôn, hai người nam nữ có thể ăn ở với nhau như vợ chồng. Bằng không, Chúa Giêsu có thể bị coi là đứa con tiền hôn, thậm chí có thể trở thành một đứa con ngoại hôn hay một đứa con hoang, nếu hôn nhân không thành theo kiểu đính hôn thời nay, hay sau khi Thánh Giuse âm thầm bỏ đi. Phúc Âm cũng không thuật lại cho chúng ta biết “con người chính trực” này đã thấy được sự kiện phũ phàng oái oăm này lúc nào, (chắc chắn là sau thời gian Mẹ Maria đi thăm mẹ con Thánh Gioan Tẩy Giả về), và cuộc chiến đấu nội tâm đã xẩy ra như thế nào nơi Thánh Giuse sau khi chứng kiến thấy sự lạ xẩy ra trên thân xác của người vợ đính hôn của mình. Thế nhưng, căn cứ vào những chi tiết hết sức quan trọng, dù ngắn ngủi của Phúc Âm hôm nay, (cũng là bài Phúc Âm cho Lễ Kính Thánh Giuse 19/3 hằng năm, và cho cả lễ ngày 18/12 trong tuần trước Đại Lễ Giáng Sinh), chúng ta có thể cảm thấy được tâm trạng đau khổ quằn quại của Thánh Giuse, và cũng mới có thể thông cảm được việc ngài quyết định “bỏ (Mẹ) cách kín đáo”, một quyết định mà đối với ngài bấy giờ hết sức sáng suốt và khôn ngoan của “một con người chính trực”.
Trước hết, Thánh Giuse đã quằn quại với một tâm trạng đau khổ, đến nỗi, đã quyết định âm thầm bỏ đi. Phải chăng quyết định âm thầm bỏ đi của thánh nhân là một quyết định khôn ngoan sáng suốt, hay chỉ là một quyết định bối rối quá không biết phải làm sao hơn? Chúng ta có thể nghĩ rằng, sau khi chợt thấy người vợ đính hôn của mình rõ ràng là có bầu, với cái bụng phồng lên trông thấy, có thể nào về phương diện nhân loại, thánh nhân lại không bật ngửa ra, vô cùng lạ lùng bỡ ngỡ. Chắc chắc ngài đã không lên tiếng hỏi Mẹ Maria cho rõ ràng minh bạch về vấn đề này. Bởi thế, chúng ta cũng có thể suy ra rằng ngài đã bất chợt trông thấy Mẹ có bầu chứ không trực diện với Mẹ. Cho dù như thế, dù không trực diện với Thánh Giuse, Mẹ Maria chắc cũng linh cảm thấy, nếu không muốn nói là biết được rằng vị phu quân của Mẹ đã thấy chuyện lạ nơi thân xác của Mẹ. Cho dù có linh cảm thấy hay biết được điều này đi nữa, Mẹ Maria cũng đã chấp nhận nó ngay từ khi thưa lời “xin vâng” (Lk 1:38). Cả hai đều khó mở lời với nhau đối với vấn đề này. Về phần Thánh Giuse, nếu Mẹ Maria không tự động nói ra, chẳng lẽ ngài lại đi vặn hỏi, như thể ngờ vực và ghen tương, trong khi thánh nhân “là một con người chính trực”, cao thượng. Phần Mẹ Maria, chẳng lẽ phu quân của mình không hỏi mà lại tự động nói ra, như thể sợ bị ngài hiểu lầm, trong khi đó Mẹ lại là một con người “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 145), nghĩa là, Mẹ không lo gì cả, hoàn toàn phó thác cho Chúa tất cả mọi sự, để Ngài tự giải quyết vấn đề theo ý định và đường lối của Ngài, không phải vì Mẹ muốn thách đố Chúa, ở chỗ, nếu Mẹ bị ném đá chết thì Chúa Kitô cũng sẽ chết, như thế những gì Chúa phán sẽ bất thành.
Chúng ta không biết khi quyết định âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi như thế, Thánh Giuse có nghĩ ra rằng, nếu làm vậy, cho dù thánh nhân không trực tiếp ra mặt khiến cho Mẹ bị ném đá chết, thì ngài cũng gián tiếp gây ra sự việc đáng tiếc ấy nếu chẳng may xẩy ra thực sự. Bởi vì, sau khi ngài đi rồi, mà Mẹ Maria lại bị khám phá ra không chồng mà có chửa thì cuối cùng Mẹ cũng bị ném đá chết thôi. Như thế, phải chăng Thánh Giuse chỉ nghĩ đến mình, đến danh thơm tiếng tốt của mình, hơn là dám liều mình che chở cho người khác, kể cả kẻ làm ô danh mình đi nữa, nếu quả thực là như vậy? Thế nhưng, khách quan mà nói, có một điều không thể tránh được là “chính trực” bao giờ cũng ngược với bất chính và không thể nào chấp nhận gian tà, như dâm ô, trộm cướp, giết người v.v. Bởi thế, sự kiện Mẹ Maria mang thai ngoại hôn khách quan là một chuyện không thể chối cãi, một chuyện tự bản chất thật là bất chính và gian tà, không thể chấp nhận được. Thánh Giuse có nghĩ rằng Mẹ Maria đã phạm tội ngoại tình hay chăng, không ai dám khẳng định và quả quyết. Tuy nhiên, việc mang thai ngoại hôn của Mẹ Maria trước mắt thánh nhân bấy giờ quả thực là một việc ngoại tình, và việc ngoại tình này không phải chỉ phạm đến thánh nhân mà nhất là phạm đến chính lề luật, tức đến chính Thiên Chúa. Việc ngài quyết định âm thầm bỏ đi không tố cáo Mẹ nghĩa là ngài hoàn toàn không dám phán đoán Mẹ, trái lại, trao phó những gì ngoài thẩm quyền phán quyết của ngài cho lề luật, cho Thiên Chúa Tối Cao là Đấng duy nhất có quyền phán xét Mẹ.
Như thế, quyết định âm thầm bỏ vị hôn thê của mình mà đi chứ không muốn ra mặt tố cáo người của Thánh Giuse cho thấy thánh nhân chẳng những “là một con người chính trực” theo luật cũ, mà còn là một con người nhân hậu theo luật mới nữa, một thứ luật mới được “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32), “quả phúc nơi lòng” (Lk 1:42) vị hôn thê của ngài bấy giờ mà ngài không biết, sau này sẽ khuyên dạy trong Bài Giảng Trên Núi, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7 câu 1, như sau: “Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét”. Phải, nếu Thiên Chúa đã làm sáng tỏ những mầu nhiệm của Ngài cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn nhất (xem Mt 11:25), thì Ngài quả thực đã thực hiện điều này nơi trường hợp điển hình của “con người chính trực” Giuse. Ở chỗ, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, “đột nhiên thiên thần Chúa hiện ra trong giấc mộng của ông mà nói: ‘Hỡi Giuse, con Đavít, đừng sợ nhận Maria làm vợ. Chính bởi Thánh Thần mà người đã thụ thai con trẻ ấy. Người sẽ sinh ra một bé trai và ông sẽ đặt tên cho bé là Giêsu, vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội’”. Chính vì “là một con người chính trực”, nhưng không phải kiểu công minh chính trực của nhóm Pharisiêu đầy những tự cao, tự đại, xét nét, khinh người, mà là một thứ công chính nhân hậu của Tân Ước, với một tinh thần hết sức đơn sơ bé mọn, nên thánh nhân đã chấp nhận ngay mạc khải của Thiên Chúa, cho dù mạc khải của Ngài không tỏ ra cho thánh nhân thấy giữa thanh thiên bạch nhật mà chỉ qua một giấc mộng. Thánh nhân đã mau mắn chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa ở chỗ, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: “Khi Giuse thức giấc ông đã làm như lời thiên thần chỉ dẫn và đã đón vợ về nhà mình”.
Trong câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay, câu chuyện Thánh Giuse định tâm âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi rồi sau đó đã đón Mẹ về nhà mình khi nhận được mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta chẳng những thấy được hình ảnh của một Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, một cuộc khổ nạn và tử giá đã rọi chiếu nơi cha mẹ của Ngài ngay trước khi Người xuất hiện, mà còn thấy được cả ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta thấy trong biến cố này nữa. Ý định đó là, muốn chấp nhận Vị Thiên Chúa Nhập Thể, tức chấp nhận Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, dù có nhận ra Người hay không, con người chẳng những phải chấp nhận thập giá khổ đau bởi Người và với Người, mà còn phải chấp nhận cả Mẹ của Người là Trinh Nữ Maria nữa. Khi Thánh Giuse “đón vợ về nhà mình” cũng chính là lúc thánh nhân đón cả “Giêsu quả phúc” trong lòng vị hôn thê “đầy ơn phúc” của thánh nhân về nhà của thánh nhân vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo: Không một tạo vật nào trên trời dưới đất gần gũi Mầu Nhiệm Nhập Thể bằng Mẹ Maria, vì Mẹ là Mẹ của Lời Nhập Thể. Nếu con khổng long và bọn ngụy thần của hắn bị hất nhào xuống đất mất chỗ đứng của mình trên trời (xem Rev 12:8) là vì chúng không chấp nhận Lời Nhập Thể, tức không chấp nhận loài người được làm Mẹ Thiên Chúa (xem Rev 12:4), và nếu tinh thần phản kitô hay thành phần phản kitô là tinh thần và là thành phần “không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn 7; xem 1Jn 4:3), thì quả thực muốn chấp nhận hay muốn cảm nghiệm thần linh về Lời Nhập Thể, nhất là trong Mùa Vọng, phải chăng con người cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, trước hết, chấp nhận Mẹ Maria, tức đến với Mẹ để Mẹ dẫn họ đến với Chúa, vì Chúa đã thực sự nhờ Mẹ đến với loài người: Mẹ chính là Điểm Hẹn Thần Linh, nơi Thiên Chúa hẹn gặp gỡ loài người và là nơi loài người chắc chắn sẽ gặp được Ngài là Vị Thiên Chúa Làm Người trong lòng Mẹ và được hạ sinh bởi Mẹ?
67.Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao?
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa bao gồm 2 Bài Đọc 1 và 2 cùng với bài Đáp Ca và bài Phúc Âm như mọi Chúa Nhật khác trong phụng niên. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường rơi vào một ngày trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh, từ ngày 17 đến đêm vọng Giáng Sinh 24/12, nên Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm 2016 là ngày 18/12, tức ngày thứ hai trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh. Ngoài ra, chu kỳ phụng niên từ Mùa Vọng năm 2016 thuộc về chu kỳ phụng niên Năm A, năm theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, bởi thế, bài Phúc Âm theo Thánh mathêu cũng chính là bài Phúc Âm cho ngày 18/12, chỉ có Bài Đọc 1 và 2 cùng bài Đáp Ca là khác.
Đúng thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A cũng chính là bài cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12. Vì bài Phúc Âm 17/12 ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ Giuse này.
"Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: 'Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội'".
Theo gia phả của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê, có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác thịt: 1 con điếm dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như không trong sạch trước mắt dân Do Thái. Trường hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một "con người công chính" thì kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là người vợ chưa cưới nhưng đã "chửa hoang"!
Chính trong trường hợp này, trường hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai "công chính" nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một con người luôn hết mình coi trọng và hết sức tuân giữ lề luật của Chúa với lương tâm chân chính, thì nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).
Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn, (chứ không phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy ra một cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như vậy. Để làm gì? Phải chăng chỉ để khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được Ngài sai xuống trần gian hoàn toàn được "thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần", chứ "không phải bởi huyết nhục, bởi ý muốn nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân" (Gioan 1:13).
Ở đây, ngay trong trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca 1:56), đã bị coi như là một đứa "con hoang" trước mắt trần gian, cùng với người mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là một người vợ chưa cưới "chửa hoang" theo cảm nghĩ của người đời.
Thế nhưng, chính vì là việc của Thiên Chúa, mà cho dù nàng Maria có linh cảm được cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có những lúc nàng không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng vẫn nhất định không hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái lại vẫn tiếp tục hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên sứ Gabiên trong việc chấp nhận thụ thai "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35).
Quả thật, vì là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài cũng là cho người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ trinh nguyên thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con của Ngài trên trần gian, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Việc Thiên Chúa can thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới của người mẹ đồng công và là vị dưỡng phụ tương lai của người con cứu chuộc này, một con người công chính đã có một quyết định, theo chủ quan, thật là bác ái yêu thương, mặc dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của ngài, ở chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng bị ném đá chết thôi.
Và như thế, tất cả những gì được tiên báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn toàn được ứng nghiệm, chẳng những nhờ lòng tin của người mẹ mà còn nhờ đức công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy luật của vị dưỡng phụ nữa, một cặp vợ chồng thật lý tưởng của Con Thiên Chúa làm người, như được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 'Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu".
Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu.
"Lời tiên tri phán xưa", được Thánh ký Mathêu là tác giả Phúc Âm thứ nhất viết cho dân Do Thái nên bao giờ ngài cũng dẫn chứng Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy rằng Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Đức Kitô Thiên Sai của họ, chính là lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: 'Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!' Nhưng vua Achaz thưa: 'Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa'. Và Isaia nói: 'Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'".
Trong Bài Đọc 2 chính vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng xác tín và loan báo cho Kitô hữu Roma về xuất xứ của một Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đã được tiên báo trước trong Cựu Ước qua "các vị tiên tri", vì Người được hạ sinh theo huyết nhục Do Thái "bởi dòng dõi Đavít", đúng như gia phả của Người được Phúc Âm Thánh ký Mathêu ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, Đấng "chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi".
Vì "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) nên con người không thể nào biết Ngài nếu chính Ngài không tỏ mình ra cho họ. Mầu nhiệm Nhập Thể là tác động thần linh tỏ mình ra của Thiên Chúa "vào lúc thời gian viên mãn" (Galata 4:4), "vào thời sau hết" (Do Thái 1:2), sau khi "chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh... ngự qua", như câu thưa của Bài Đáp Ca hôm nay, "ngự qua" bằng những cách thức khác nhau cho các vị cha ông trong Cựu Ước (xem Do Thái 1:1). Nếu Ngài không nhập thể thì loài người thấp hèn hữu hình hữu hạn tự mình không thể nào biết được Ngài là ai và như thế nào.
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) chăng nữa, nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, chung loài người và riêng dân Do Thái của Ngài, có thể nói, lại càng khó có thể nhận biết Ngài, nhận ra Ngài nơi một con người thấp hèn như họ: "Ngài đã ở trong thế gian và nhờ Ngài mà thế gian đã đưọc tạo thành nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài là ai. Ngài đã đến với dân riêng của Ngài nhưng dân riêng của Ngài không chấp nhận Ngài" (Gioan 1:10-11).
Vậy thì chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao? Câu trả lời cho vấn nạn nạn giải này có thể tìm thấy ngay trong Bài Đáp Ca hôm nay, trong đó, Thánh Vịnh gia trước hết đã xác tín và tuyên ngôn về đức khôn ngoan và quyền toàn năng của Vị Thiên Chúa Hóa Công tối cao rằng: "Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả (ám chỉ quyền năng), và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn (ám chỉ khôn ngoan)" (câu 1).
Vì Nhập Thể cho dù bề ngoài có là một biến cố lịch sử có thật, với những nhân vật lịch sử, như được liệt kê trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua 17/12 chăng nữa, nhất là đối với riêng cha mẹ trần gian của Người, nhưng tự bản chất là một mầu nhiệm, được Bài Đáp Ca ám chỉ như là một "cao sơn của Chúa", là "nơi thánh của Ngài" (câu 2), chỉ có thể nhận biết bằng "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) mà thôi: "Ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Chính vì Nhập Thể là một mầu nhiệm vô cùng cao siêu, vượt tầm mức kiến thức hạn hẹp của con người vốn hướng hạ và gian ác mà, theo Thánh Vịnh gia của Bài Đáp Ca hôm nay, muốn cảm nhận và chấp nhận mầu nhiệm nhập thể này, tức là muốn "trèo lên cao sơn của Chúa" và muốn "đứng trong nơi thánh của Ngài", hay nói đúng hơn, muốn "tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp" (câu 3), họ cần phải là những con "người có bàn tay (ám chỉ việc làm) vô tội và tấm lòng (ám chỉ ý hướng) thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa", những con người được tiêu biểu nhất trong thành phần này đó là Mẹ Maria trinh nguyên và Bõ Giuse công chính, cha mẹ trần gian của Con Trẻ Giêsu.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam