Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1363461
THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE
THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
- Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu xét về văn phạm? Tại sao nơi câu 18, tác giả lại dùng kiểu nói thụ động (“bà đã chịu thai”)?
- Bí ẩn của trình thuật: thánh Giuse tỏ ra công chính ở chỗ nào? phải chăng là công chính theo luật? Như vậy thì tại sao ngài hành động cách bí mật? Phải chăng là lòng từ tâm? Vậy thì tại sao ngài định ly dị Đức Maria nếu nghĩ rằng bà vô tội? Muốn trả lời, phải giải quyết bí ẩn khác sau đây: thánh Giuse cho rằng Maria có tội hay vô tội? hay ngài tôn kính bà như hòm bia Thiên Chúa? Có nền tảng văn chương nào cho những lập trường ấy không? hay chỉ có những khó khăn không vượt qua được?
- Việc hiện ra cho Giuse được tường thuật với thể văn của các cuộc truyền tin, loại biến cố trong đó luôn có vấn đề một dấu chỉ được mặc khải và một sứ mệnh được trao phó: so sánh với St 16,11; 17, 19; Tl 13, 3- 5; Is 7, 14; Lc 1, 26- 28. Trong trình thuật Mt, ta có gặp lại những yếu tố của lược đồ chung ấy không?
- Trong các lần hiện ra của thiên sứ sau đó, Giuse có còn được gọi là “con Đavít” nữa không? Nơi Mt 1,1 phải chăng Chúa Giêsu đã không được gọi là Con Đavít? Đối chiếu hai trường hợp.
- So sánh câu trích dẫn Is 7,14 trong Mt và trong nguyên bản: đâu là chi giết thay đổi chính? Chi tiết này có ám chỉ điều gì về ý nghĩa của trình thuật không?
- Phải chăng không có đồng nhất cơ cấu giữa sứ điệp (cc.20- 21), câu trích dẫn sấm ngôn (c. 23) và trình thuật (c.25)? Hãy nhấn mạnh đến những hạn từ được lấy lại trong mỗi phần cửa ba phần câu chuyện.
- So sánh viễn tượng của Mt và của Lc trong các trình thuật thời thơ ấu. Lc muốn dạy về việc thụ thai đồng trinh và cho thấy Thiên Chúa làm được mọi sự. Mt có mục đích khác không? (x. 1, 1- 17).
- Hãy thử tái lập lại cách dịch cc.20- 21: chữ “vì” mở đầu câu nói đến việc thụ thai đồng trinh có ý nghĩa gì?
- Nên gán cho đoạn văn tiêu đề nào: “Việc thụ thai Chúa Giêsu cách đồng trinh” hay “Giuse đứng trước mầu nhiệm”? Có thể tìm được một tiêu đề hay hơn không? Hãy tra cứu các ấn bản sách Tin Mừng.
- Có thể so sánh Giuse với Gioan tiền hô theo nghĩa nào? Đâu là vai trò của Giuse trong nhiệm cục cứu rỗi?
*******
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.
Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.
Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó”, có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).
“Do tự Thánh Thần”: giới từ “ek” ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1,35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần “sẽ đến trên” Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3,11; 4,1; 10,20; 12,18; 12,28.31).
“Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà”: sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng – x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị “âm thầm, bí mật” – từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer…, chỉ có ý nghĩa ấy – với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét…). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là “công chính chiếu luật” sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là “công chính theo luật” được.
Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn “tiết lộ” mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ “). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi “… Như “Abel người công chính”, Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người “công chính” duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen!).
Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.
Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: “Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ: gar; pháp ngữ: can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ: dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi “. Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19; 2 Tx 2, 20; Mt 18, 7; 22,14; 24,6…). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao (“nhưng”) cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.
“Giêsu”: tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), “Giavê là sự cứu độ”, một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.
“Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu” (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là n trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu “Đấng Cứu Thế” nơi chương 2, 11 và dùng chữ “ơn cứu độ “) dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, “dân”, là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).
“Mọi sự này xảy ra…” (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai”: Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, “tính nữ”, trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.
“Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7,14, bản văn ông trích dẫn, và 8,8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan -báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.
Nơi câu 24-25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài “tỉnh giấc” hay “chỗi dậy” tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói “ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con” không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Sự công chính của thánh Giusekhông nằm ở chỗ ngài muốn bí mật ly dị Đức Maria. Thật ra nó nằm ở chỗ thánh nhân từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà ngài biết là Con Thiên Chúa. Ngài sợ mang tiếng chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Sở dĩ ngài muốn ly dị Đức Maria đó là vì tế nhị, vì vâng theo thánh ý Chúa, Đấng không giao cho ngài sứ mạng gì đối với Đức Maria và Hài nhi cả. Đối với Giuse, Thiên Chúa có mặt trong công chuyện này. Thiên Chúa đã sử dụng vị hôn thê của ngài, và vì thế ngài muốn rút êm để khỏi làm cản trở việc thực hiện một chương trình ngài không hiểu thấu. Nói cho đúng, sự “công chính” của thánh Giuse chính là ý thức của ngài về Thiên Chúa, là sự tôn trọng của ngài đối với mầu nhiệm và thánh ý Thiên Chúa. Người Kitô hữu cũng phải có lòng kính trọng sâu xa như vậy đối với các dự tính của Thiên Chúa về mình, phải có ý thức về sự siêu việt của Thiên Chúa mỗi khi Ngài cho ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong đời sống thường ngày: qua niềm vui, qua Thánh Thể, qua thử thách, qua lời kêu van giúp đỡ của tha nhân v.v…
- Thánh Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Chúng ta cũng phải đón nhận Người như thế, vì Chúa đang thực sự sống động trong Giáo Hội; nhờ Giáo Hội mà Người tự thông ban cho ta qua Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngày nay, tin vào sự hiện diện sống động của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể không khó hơn việc thánh Giuse tin rằng con trẻ mà vị hôn thê của ngày chờ đợi thật là Con Đấng Tối Cao..
- Thánh Giuse im lặng: Thánh Kinh không ghi lại một lời nào của ngài, một kẻ dù sao vẫn là con cháu Đavít và đã cho Chúa Giêsu được nên con Đavít.
- Emmanuel:Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Giêsu: Thiên-Chúa-cứu. Sở dĩ Thiên Chúa ở với chúng ta, đó là để luôn luôn cứu chúng ta. Sự hiện diện của Người trong đời ta là nguồn bình an và hoan lạc lớn lao nhất. Ngày nay, Chúa Giêsu là Emmanuel đối với chúng ta hơn bao giờ hết, vì sau khi sống lại, người đã hứa ớ với chúng ta cho đến tận thế.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG -A
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?
Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.
Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.
Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.
Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.
Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?
3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam