Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 88

Tổng truy cập: 1364209

TÌNH CHA

TÌNH CHA

 

Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.

Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.

Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.

Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.

Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.

Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.

Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.

Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.

Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.

Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.

Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.

Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.

Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.

Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.

Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn. “Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”

Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.

Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.

Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.

Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.

Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.

Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.

Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.

Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.

Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.

Gợi Ý Chia S

Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?

Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, người con thđã muốn tđịnh đoạt lấy đời mình.

Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.

Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.

Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.

Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.

 

2.Thiên Chúa luôn tha thứ - Dã Quỳ

Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình hoàn hảo, không sai lỗi... Chúng ta cố gắng sống tốt lành, hòa hợp với những người xung quanh, yêu mến Chúa và tha nhân. Nhưng với thân phận yếu hèn của kiếp người, càng cố gắng, ta càng hay lỗi phạm như lời thánh Phaolô nói "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm."(Rm 7,19) Và ngài khẳng định là "Do tội vẫn ở trong tôi." Vâng, tất cả chúng ta là người tội lỗi, nhiều hay ít, chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu- khuôn mặt của Thiên Chúa lại được nói đến như "Một người đón tiếp phường tội lỗi." Chính vì thế, chúng ta tin tưởng vào Lòng Xót Thương Tha Thứ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vén mở cho ta thấy qua ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay.

- Xót Thương nên hết lòng tìm kiếm. Sự tính toán của Thiên Chúa khác với chúng ta. Chúng ta luôn để ý tới số lượng. Còn Thiên Chúa, Ngài tính "Một" bằng "Chín mươi chín". Mỗi người chúng ta có một giá trị cao quí. Đây là mầu nhiệm về sự tôn trọng của Thiên Chúa với mỗi người trong chúng ta. Chúa yêu chúng ta cách cá nhân và riêng biệt. Thế nên, chiên lạc mất, Người luôn nghĩ tới, lo lắng, đi tìm...cho bằng được. Đứa con thứ bỏ nhà ra đi, Người trông ngóng từng giây chờ nó trở về. Chúng ta có một Thiên Chúa không ngừng nghĩ đến những con cái sai lầm, lạc lối. Một Thiên Chúa yêu thương những đứa con không yêu Ngài. Một Thiên Chúa luôn lên đường tìm kiếm "Những con chiên bị mất" và vui mừng khi tìm thấy.

Mục tử hạnh phúc khi tìm thấy chiên "Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai." Một hình ảnh kỳ diệu chúng ta được chiêm ngắm. Mục tử cười rạng rỡ, hoan hỉ và vui mừng. Đó là Thiên Chúa mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta. Và qua chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đến, ở cùng chúng ta như vậy. Người đón tiếp, tìm kiếm những người tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa không ở yên chờ đợi nhưng lên đường tìm kiếm. Chúng ta là con, ta không bị bỏ rơi, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn bao phủ chúng ta, tìm kiếm khi ta lạc lối và ôm ấp, dẫn chúng ta về. Niềm vui của Thiên Chúa là tìm thấy những con cái bị lạc mất và tha thứ cho chúng tất cả lỗi lầm.

- Xót Thương nên hết lòng Tha Thứ. Thật quan trọng đối với Thiên Chúa khi chỉ một người sám hối mà cả Nước Trời vui mừng. "Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn." Vậy ta hãy can đảm đến với Thiên Chúa, xin lỗi Ngài về các tội của ta vì Ngài luôn sẵn lòng tha thứ cho chúng ta.Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta. Dẫu cho ta có tội lỗi thế nào, Thiên Chúa nhìn con tim của ta, Người nhìn vào sâu thẳm hồn ta khi ta thực lòng nhận mình sai lỗi và xin tha thứ.

Thiên Chúa, Đấng rất mực xót thương, Người luôn tha thứ cho tất cả những ai đến van xin Người. Sự tha thứ của Thiên Chúa không có giới hạn, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, dù cho ta có trở về vì quá đói khổ chứ chưa phải là vì yêu thương cha như người con thứ. Thế nhưng, Thiên Chúa- Cha nhân lành chỉ cần ta biết nhận ra sai lỗi của mình và trở về. Người trông ngóng và đón chờ để tha thứ, để bao phủ ta bằng lòng xót thương "Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để." Dù tội lỗi có ngập tràn cũng không ngăn cản được tình yêu, lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa dành cho chúng ta và mãi nhận ta là con cái của Ngài.

- Xót Thương nên phục hồi địa vị là con. Thiên Chúa đã tác tạo nên chúng ta với một phẩm giá cao quí, nhưng vì những vết nhơ tội lỗi, ta đã làm hoen ố phẩm giá của mình.Vậy hãy gượng đứng dậy, cất bước, lên đường trở về với Chúa vì Người luôn đang chờ đợi chúng ta. Người không màng tới tội lỗi của ta, cho dù ta có xưng thú, nhưng Người chẳng để ta nói hết câu, vì Người biết tất cả, biết tận cõi lòng ta chân thành sám hối hay không. Và với cung cách hành xử đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, Người sẽ phục hồi cho chúng ta phẩm giá là con (x. Lc 15,22-24). Bởi vì, không có gì mạnh mẽ hơn lòng thương xót của Thiên Chúa.

Chúng ta là những tội nhân mà Thiên Chúa như người mục tử bỏ chín mươi chín chiên ngoan, đi tìm một chiên lạc; như người cha nhân lành đã chạy ra ôm lấy và thứ tha tất cả cho đứa con đi hoang và cả người con ở nhà; và như người phụ nữ "thắp đèn","quét nhà", "moi móc tìm cho kỳ được". Xin cho chúng ta cũng được ở dưới ánh đèn tình yêu của Chúa để Người thấy ta, đem ta về với Người. Chúng ta tin tưởng vào lời khẳng định của Chúa Giêsu "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Vậy ta hãy khiêm tốn trở về với Chúa và khẩn cầu "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con". Chúng ta hãy đến với Chúa trong Bí tích Hòa Giải, Người luôn chờ đợi để tha thứ tất cả những lỗi lầm của ta và để yêu thương ta. Qua Bí tích Hòa Giải, Chúa nắm lấy chúng ta, ôm chúng ta vào lòng và đổ tràn lòng thương xót của Người cho chúng ta. Sự trở về và được tha thứ là một niềm vui đối với chúng ta, nhưng còn là niềm vui mừng lớn lao hơn đối với Thiên Chúa và cả Nước Trời.

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, hơn bao giờ hết, mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi thực lòng trở về với Chúa vì Người đang tìm ta, trông chờ ta. Chúng ta hãy sống tâm tình của người con, luôn tin tưởng vào tình yêu và lòng bao dung tha thứ của Cha. Cha chúng ta là Thiên Chúa Tình yêu và chúng ta là con cái của Người. Vậy Chúa cũng mong chúng ta cộng tác với Người trong sứ mạng tìm kiếm anh em lạc đường và dẫn họ trở về với Chúa. Vì còn biết bao anh chị em đang lầm lạc, đi xa; đang đau khổ, đói nghèo tình yêu Chúa mà không biết lối quay trở về. Nhiều người còn đang sống trong thù hận, ghen tương, đố kỵ và ích kỷ với anh em mình dù chẳng xa đàn chiên. Thái độ và cách đối xử đó không phải là của những người con cùng một Cha, và không phải là lối sống của Kitô hữu. Vậy chúng ta hãy trở về với Chúa Cha Nhân Từ, ăn năn sám hối, cầu xin Người tha thứ và đổ tràn lòng xót thương trên chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu- Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha, xin giúp chúng con biết tín thác vào lòng Chúa xót thương mà can đảm nhìn nhận tội lỗi và trở về với Chúa để được tha thứ và được sống trong vòng tay, trong mái nhà của Chúa Cha Nhân Hậu. Amen.

 

3.Trong Thiên Chúa không ai bị loại trừ

(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 03 tháng 05 năm 2016)

Câu chuyện trong Tin Mừng mở đầu bằng một sự đối nghịch, một đàng các người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người, đàng khác các là các luật sĩ và các kinh sư nghi ngờ tránh xa Chúa vì thái độ hành xử của Người. Họ tránh xa bởi vì Chúa Giêsu tới gần những người tội lỗi. Những người này kiêu căng, họ tin mình là những người công chính, những người tuân giữ luật Môse một cách nhiệm nhặt.

Dụ ngôn trong Tin Mừng xoay quanh ba nhân vật: mục tử, con chiên lạc và số còn lại của đàng chiên. Nhưng chỉ có mục tử là người hành động, chứ không phải các con chiên. Như vậy, mục tử là nhân vật chính và điểm nhấn là những hành động nơi người mục tử này. Dụ ngôn được dẫn nhập bằng một câu hỏi: “Ai trong các ngươi, nếu có một trăm con chiên và mất một con, lại không bỏ chín mươi chín con trong sa mạc và đi tìm con chiên lạc, cho tới khi tìm ra nó?” Đây là một mâu thuẫn dẫn đưa tới chỗ nghi ngờ hành động của người mục tử: có khôn ngoan không khi bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm một con chiên lạc như vậy? Còn hơn nữa bỏ chúng không phải trong một chuồng chiên mà trong sa mạc? Theo truyền thống Kinh thánh, sa mạc là nơi của chết chóc, khó mà tìm ra nước và thực phẩm, không có chỗ trú ngụ và bị bỏ rôi cho thú dữ và tôm cướp. chín mươi chín con chiên để lại sẽ không được bảo vệ? Tuy nhiên, sự mâu thuẫn tiếp tục khi nói rằng người mục tử, sau khi tìm thấy con chiên, vác nó lên vai, về nhà, gọi bạn bè và hàng xóm láng giềng tới chung vui. Dường như người mục tử không trở vào trong sa mạc để dẫn chín mươi chín con chiên trở về đàng! Duy chỉ hướng đến con chiên đi lạc, xem ra người mục tử quên chín mươi chín con chiên kia. Nhưng thật ra không phải vậy!

Giáo huấn của Chua Giêsu muốn dạy cho chúng ta, đó là không có con chiên nào bị hư mất. Chúa không chịu để một ai phải hư mất dù chỉ một người nhỏ bé nhất. Hoạt động của Thiên Chúa là hoạt động của người đi tìm các con cái bị mất để rồi vui mừng với tất cả vì tìm lại được họ. Đây là một ước muốn không thể nào kìm hãm được: chín mươi chín con chiên có thể kéo chân người mục tử lại, và giữ ông trong chồng chiên. Ông có thể lý luận như sau: tôi có chín mươi chín con chiên mất một con thì chẳng có gì là quá đáng! Nhưng không! Người mục tử đi tìm con chiên lạc ấy vì mỗi một con chiên đều rất quan trọng đối với ông, và con chiên đó là con chiên cần được giúp đỡ nhất, con chiên bị bỏ rơi nhất, bị gạt bỏ nhất và ông đi tìm nó.

Tất cả chúng ta đều cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi là cách thức hành động của Thiên Chúa và Ngài tuyệt đối trung thành với lòng xót thương ấy. Không có gì và không có ai lấy đi khỏi Chúa ý muốn cưú rỗi của Ngài. Thiên Chúa không biết tới nền văn hóa lại bỏ của chúng ta ngày nay. Trong Thiên Chúa không có điều đó. Thiên Chúa không loại bỏ một người nào. Ngài yêu thương tất cả mọi người. Ngài tìm kiếm tất cả mọi người. Tất cả! Từng người một. Ngài không biết từ “loại bỏ người ta,” bởi vì Ngài là tất cả tình yêu và tất cả lòng thương xót.

Đàn chiên của Chúa luôn luôn tiến bước. Nó không chiếm hữu Chúa. Nó không thể nuôi ảo tưởng nhốt Ngài trong các lược đồ và chiến thuật của con người. Người mục tử ra đi để tìm thất con chiên bị lạc ở bất cứ nơi dâu. Như vậy người mục tử là chủ thể của hành động. Ngài muốn đến gặp gỡ chúng ta, chứ không phải chúng ta yêu sách muốn tìm thất Ngài. Không có cách nào khác có thể quy tụ đàn chiên nếu không theo con đường do lòng thương xót của người mục tử vạch ra.

Trong khi người mục tử tìm con chiên lạc, người mục tử mời gọi chín mươi chín con khác đến tham dự vào viẹc tái hiệp nhất đàn chiên. Khi đó không chỉ con chiên lạc được mang trên vai, mà tất cả sẽ theo mục tử trở về nhà để chung vui với các bạn bè và hàng xóm láng giềng.

Chúng ta phải năng suy tư dụ ngôn này, bởi vì trong cộng đoàn Kitô luôn luôn có ai đó thiếu và đã ra đi bỏ chỗ mình trống. Đôi khi điều này khiến nản lòng, và khiến cho chúng ta tin rằng một sự mất mát là điều không thể tránh được, một tật bệnh không có thuốc chữa. Và khi đó chúng ta có nguy cơ khép kín mình trong chuồng chiên, nơi sẽ không có mùi của chiên, nhưng mùi hôi của việc đóng kín. Và người kitô hữu không được phép đóng kín, vì chúng ta sẽ có mùi hôi của những gì đón kín. Không bao giờ! Chúng ta phải ra khỏi việc đóng kín nơi chính mình, trong các cộng đoàn nhỏ, trong giáo xứ.

Chúng ta đón kín mình khi thiếu lòng hăng say truyền giáo. Đóng kín mình khiến chúng ta không còn muốn đến gặp gỡ người khác. Trong nhãn quan của Chúa Giêsu, không có con chiên nào bị mất vĩnh viễn, nhưng chỉ có các con chiên cần tìm về. Chúng ta phải hiểu rõ điều này, đối với Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn. Không bao giờ! Cho tới phút cuối cùng, Thiên Chúa vẫn tìm kiếm và cứu vớt. Chúng ta hãy nghĩ tới anh trộm lành. Trong Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn, mà chỉ có các con chiên được tìm thấy.

Vì thế viễn tượng hoàn toàn năng động, rộng mở, khuyến khích và sáng tạo. Nó thúc đẩy chúng ta tìm bước đi trên một con đường của tình huynh đệ. Không có khoảng cách nào có thể giữ người mục tử ở xa và không có đàng chiên nào có thể khước từ một người anh em. Tìm ra người anh em đã mất là một niềm vui của chúng ta trong tư cách tham dự vào sứ mạng của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Và đó cũng là niềm vui của cả đàn chiên là cộng đoàn dân Thiên Chúa! Chúng ta tất cả đều là các con chiên được tìm lại và được quy tụ do lòng xót thương của Chúa, được mời gọi cùng Ngài thu thập thành đàn chiên. Amen.

 

4.Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất

CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU CHÚA CHA: TRÁI TIM TA MỞ RA

Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nổi bật dung mạo Thiên Chúa đầy yêu thương nhân từ. Tình yêu của Người quá kỳ lạ, quá lớn lao, thật khác thường.

Chúa Giêsu chính là Hiện thân của Thiên Chúa Vô hình, Thiên Chúa tình yêu (Cl 1,15). Trái tim Chúa Giêsu dành yêu thương hết mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bệnh tật, bọn thu thuế, đĩ điếm… nói chung họ thuộc thành phần tội lỗi, thuộc đối tượng cảnh giác, bị tôn giáo gạt lề. Do đó họ bị xã hội Do Thái ghét ra mặt, khinh khi ra mặt, tẩy chay ra mặt; tệ hơn còn ra luật vạ tuyệt thông: cấm tiếp xúc, ai tiếp xúc đều lây tội.

Một người Do Thái giáo đạo đức thời Chúa Giêsu không bao giờ nói chuyện, tiếp xúc chứ đừng nói chuyện ăn chung bàn với người mà họ cho là quân tội lỗi.

Khi còn tại thế, nhiều người Do Thái công nhận Chúa Giêsu là bậc thầy, là sư phụ không chỉ uyên thâm Lời Chúa, giảng dạy như Đấng có uy quyền mà còn là nhà đạo đức số một.

Chúa Giêsu nhà đạo đức số một, ấy thế mà!…

Người ta bắt đầu nghi ngờ về đạo đức của Chúa Giêsu, nhất là nhóm Biệt phái- luật sĩ là những bậc thầy đạo đức của người Do Thái, khi thấy Chúa Giêsu đối xử tử tế, nhân hậu với người tội lỗi như người bình thường, xem ra còn ưu ái hơn người bình thường. Khó chịu nhất cảnh Người trò chuyện thân tình, đồng bàn ăn với họ.

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cho thấy phản ứng khó chịu, thái độ nghi ngờ đạo đức Chúa Giêsu của nhóm Biệt phái luật sĩ. Họ xầm xì: nếu Thầy Giêsu đạo đức tại sao ngài đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng?.

(Ở đây ta lại đụng phải thành kiến vững chắc, cố chấp của họ. Nhất định cho mình đúng, cái gì không như mình nghĩ là sai. Xét cho cùng đấy là thái độ kiêu ngạo. Chính trong thái độ không chịu sám hối- thay đổi lối nhìn ấy mà người Do Thái chưa nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia)

Để trả lời nghi vấn của họ, Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con hoang đàng.

Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi, tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

Mặt khác, Chúa Giêsu cho thấy rõ giá trị Tin Mừng của một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về với Chúa.

Như người Mục tử tìm được chiên lạc, như người đàn bà tìm được đồng tiền mất, như người cha tìm được đứa con hoang- họ đã không vui một mình, niềm vui quá lớn không thể vui một mình, đòi hỏi cần phải có người chia sẻ, phải mở tiệc ăn mừng- Họ đã rủ người khác đến chia sẻ niềm vui:

Người Mục tử tìm được chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc…

Người Đàn bà tìm được đồng tiền: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất…

Người Cha khi thấy con trở về nhà: Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình”

Cha chúng ta trên trời của cũng thể, một người tội lỗi có nguy có mất ơn cứu độ sám hối trở về Nhà Cha không chỉ có mình Thiên Chúa vui mà cả triều thần thiên quốc mừng vui. “Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải…Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.”

Tất cả là hình ảnh để diễn tả Tình yêu của Thiên Chúa, một Tình yêu quá tuyệt vời, mà bất cứ ai trong chúng ta một khi đã chạm đến Tình yêu ấy, một lần gặp gỡ có kinh nghiệm về Tình yêu ấy không thể thờ ơ, không thể không trở về với Cha.

Nói rõ hơn, Chúa không chỉ xót xa khi thấy những người con yêu dấu của Ngài phạm tội, mà còn tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu một con chiên lạc, một người tội lỗi Chúa không nản chí vì bất kỳ lý do nào, không mệt nhọc hoặc hiểm nguy. Ngài dùng mọi cách để đánh động, để báo động tình trạng tội lỗi của mình, Ngài luôn nói với ta qua tiếng lương tâm (bởi thế khi phạm tội, nhất là tội trọng lương tâm ta bất an), nếu ai đó lương tâm khô khan hơn, Ngài đánh động chúng ta mạnh hơn, chẳng hạn qua một biến cố tai nạn, qua biến cố đau thương nào đó….

Đặc biệt trong Giáo hội và qua Giáo hội Tông truyền, Thiên Chúa luôn đồng hành, hằng ngày nói với chúng ta qua Lời Chúa; gia tăng ân sủng qua các Bí tích để ta có thêm, có dư đủ sức mạnh chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ- thế gian và xác thịt.

Đến hết cách mà chúng ta nhân danh tự do từ chối lòng Thương xót của Chúa thì Chúa cũng đành… bó tay. Bởi Ngài không thể và không bao giờ xâm phạm tự do mà Ngài đã đặc ban cho con người- thụ tạo được dựng nên giống Hình Ảnh Chúa. Đấy là lúc ta chạm ngưỡng tội phạm Chúa Thánh Thần, điều mà Chúa cảnh báo: “mọi tội, kể cả tội phạm thượng cũng sẽ được tha cho con người, chứ tội phạm đến Cha Thánh Thần sẽ chẳng được tha” (Mt 12,31). Tội phạm Thánh Thần là gạt bỏ ơn tha thứ của Thiên Chúa, cố tình chai lì sống tội lỗi, không chịu sám hối trở.

Nói cách khác, trực diện trước Tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Con nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, trái tim của mỗi chúng ta không thể không mở ra, không thể không sinh ra hoa trái hiệp thông và bác ái.

Ở đây ta không nói về chiên lạc, đồng tiền mất, hay đứa con hoang trở về mà nói về Người Mục tử mất chiến- người đàn bà mất đồng tiền- người cha mất con.

Nghĩa là ta nói về Cha trên trời của chúng ta, chiêm ngắm về Tình yêu giàu lòng Thương xót của Cha chúng ta dành cho mỗi ta, cho cả nhân loại, đặc biệt dành cho những người tội lỗi biết sám hối trở về. Điều mà chúng ta đáng học- đáng noi theo hơn cả nơi các dụ ngôn này là Tình yêu thương của Người Cha của chúng ta.

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Ngài kêu mời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”;

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Người công khai đòi hỏi môn đệ học theo Ngài: “hãy học nơi Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường”.

Đấy là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta khi khẩn nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn, trước khi ra đi chịu chết đã trăn trối giơi răn mới yêu thương làm nền tảng, thuộc bản chất cho Kitô giáo: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.

Nghĩa là con của Thiên Chúa được gọi là Tình yêu; mang danh Kitô hữu- có Chúa Giêsu hiện diện nơi mình chúng ta phải là những Sứ giả của Tình yêu Thiên Chúa; là hiện thân của Tin Mừng cứu độ là Chúa Giêsu.

Đánh mất Tình yêu, chúng ta đánh mất quyền làm con Chúa, không còn Kitô hữu đích thực nữa. Thực tế biến chất, mất chất ‘Kitô hữu’ mà vẫn mang danh Kitô hữu, nguy hiểm cho ta và cho xã hội. Sự hiện diện của ta chẳng khác gì cáo đội lốt chiên; chẳng khác gì, miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm…

Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót đã bước vào trong những tháng cuối cùng. Vậy ta đã sống và Loan báo Lòng Chúa Thương xót chưa? Đôi khi đơn giản là nụ cười cảm thông, lời nói trân trọng dễ nghe, lời cầu nguyện cho những người mình....dễ ghét....

Bài Tin mừng hôm nay có thể coi là một trong những bài Tin Mừng làm nổi bật Lòng Thương Xót của Cha trời. Chiêm ngắm Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha, liệu trái tim ta có mở ra, có Thương xót như Cha không?

Là Sứ giả Tình yêu, vậy chúng ta phải yêu thế nào?

Thánh Phaolô về Tình yêu Kitô giáo: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mùng khi thấy sự gian ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả , tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7)

Lời thánh Phaolô trên, có thể nói như bản ‘xét mình’ về Giới răn yêu thương.

Lạy Chúa xin cho chúng con luôn biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, biết sam hối ăn năn, đổi mới cuộc sống để chúng con trở thành Sứ giả Tình yêu của Chúa giữa trần thế. Amen.

 

5.Niềm nở tiếp đón người tội lỗi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Ngày 13/05/1981 giữa lúc hàng chục ngàn người chen chúc nhau tại công trường Thánh Phêrô để đón Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên làm mọi người đứng tim, Đức Thánh Cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: một vị Giáo hoàng bị mưu sát. Ali Agca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebibbia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tầy trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa: Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động thấy Đức Thánh Cha bắt tay Ali Agca với nụ cười rất trìu mến.

Đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức Thánh Cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên hiền lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần đoàn chiên bằng lời hằng sống. Ali như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá, xô đến giết chủ chiên, giết cha mình, nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ, hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.

Bài Tin Mừng nói lên tình yêu của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi qua ba dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang. Mỗi dụ ngôn diễn tả một sắc thái đậm tình sâu thẵm.

1- Dụ ngôn chiên lạc: Ông chủ có 100 con chiên, chỉ lạc một con giữa cảnh bao la rừng núi, biết đâu mà tìm, thế mà với đôi chân trần đạp trên sỏi đá, gai gốc, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 con còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm ông nghèo đi chút nào! Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: Bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông cho giá trị như 99 con. Nó giống như Đại tướng bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người lính quèn, một người lính được coi như cả một đoàn quân. Chết một tên lính gác, có thể chết cả đoàn quân.

Đức Giêsu như chủ chiên, mỗi người dù chẳng đáng gì, nhưng đều được Người thương yêu đặc biệt nhưng không. Người cứu độ từng người với bất cứ giá nào. Người thương một người tội lỗi như yêu tất cả các thánh. Người đánh giá mạng sống mỗi người hơn tất cả lời lãi thế gian. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Đức Giêsu còn đặc biệt tôn trọng từng người tội lỗi: Người ăn uống với họ, tọa đàm với họ và còn vui mừng vác họ lên vai.

Thực ra, tình yêu Thiên Chúa đối với con người không thể so sánh với bất cứ dụ ngôn nào được. Chủ với chiên cũng chỉ là loại thụ tạo, còn Thiên Chúa với con người cách xa nhau vô cùng. Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, con người là thụ tạo. Thiên Chúa thánh thiện cao sang vô cùng, con người tội lỗi và thấp hèn như bùn đất. Thế mà, Thiên Chúa đã bỏ trời vinh quang xuống thế chịu chết, cứu vớt con người. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân không ai hiểu thấu”.

2-    Dụ ngôn “Người phụ nữ có mười đồng bạc, chẳng may đánh mất một đồng”. Chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng một khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với tội nhân. Ở dụ ngôn chiên lạc, con số 1 cực kỳ nhỏ mọn so với số 99 cực kỳ lớn lao. Còn ở đây 1 so với 10 khá quan trọng. Nếu gói gọn cuộc đời của bà vào 10 đồng: Mất 1 đồng là mất sống một ngày, chỉ còn sống chín ngày. Vậy mất một đồng là một thiệt hại lớn đến chừng nào! Thiên Chúa mất đi một linh hồn là Thiên Chúa mất đi một ngày sống, chỉ còn chín ngày nữa thôi. Dụ ngôn nói lên sự khẩn thiết của con người được sống trong tình yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa coi con người thiết yếu cho sự hiện diện tình thương của Thiên Chúa, giáo lý dạy: Con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo dụ ngôn này, mỗi người chiếm một địa vị thiết yếu trong tình yêu của Thiên Chúa đến chừng nào! Nếu không có bệnh nhân, thì đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, thì đâu có tình thương cứu độ nữa. Một kẻ tội lỗi như Phaolô trở lại, quan trọng đến chừng nào cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã tâm sự với môn đệ Timôthêu rằng: “Trước kia, cha đã từng nói phạm thượng, ngược đãi và lăng nhục Người. Thế mà Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà người thứ nhất là cha. Sở dĩ cha được thương xót là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng khoan dung của Người, trước hết nơi cha, mà đặt cha làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời”. “Ôi tội Adam cần thiết thay để Thiên Chúa ban Đấng Cứu độ trần gian”

3- Dụ ngôn: Một người kia có hai con trai, nói lên tình yêu Thiên Chúa càng tuyệt diệu hơn nữa đối với người tội lỗi. Người cha có hai con trai: một đứa đi hoang, một đứa ở nhà chẳng coi cha ra gì, lại ghen ghét giận dữ cha và muốn đứa em chết đi. Thế là người cha kể như mất cả hai con. Ông sẽ bị rêu rao là kẻ bạc phước, neo đơn, cô độc, tuyệt tự. Ông không còn được ai gọi là cha nữa.

Nếu xếp cả nhân loại vào hai hạng đứa con đó, thì Thiên Chúa không còn ai để ca tụng Thiên Chúa là Cha nữa, vì “nơi cõi chết, ai nhớ đến Người; chốn âm ty, ai sẽ chúc tụng Người (Tv. 6,6). Hơn nữa, quỷ sẽ rêu rao xỉ nhục Người như Môsê đã nói với Chúa rằng: “Chúa đã đưa dân này ra khỏi Ai Cập … mà lại tiêu diệt chúng … thì Ai Cập sẽ rêu rao rằng: Chúa đã manh tâm đưa chúng ra đi để giết chúng nơi sơn cước và tận diệt chúng khỏi mặt đất” (Xh. 7, 12 Bài đọc II).

Không, không bao giờ, tình yêu của Thiên Chúa không cho phép xẩy ra như vậy, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc. 20, 38). Thiên Chúa đã dựng nên và cứu độ con người để họ được sống vinh quang hạnh phúc muôn đời, để tình yêu Thiên Chúa được cả sáng.

Lạy Chúa, Chúa đã ban phúc cho chúng con nhưng không. Xin cho chúng con biết trao lại cho nhau nhưng không. Mạng sống của chúng con thiết yếu nhờ vào sự cứu độ của người khác, xin cho mọi người chúng con cứu độ nhau để chúng con được cứu độ và tôn vinh lòng thương xót của Chúa đến muôn đời.

 

6.Người con phung phá

Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người cha.

Người Cha

Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại được thương mến hơn trước.

Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế? Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích thực của Thiên Chúa.

Người con c

Trái lại người con cả sau khi nghe biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý do để Chúa nói lên dụ ngôn này. Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ. Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài tha thứ.

home Mục lục Lưu trữ