Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 29

Tổng truy cập: 1361960

TÌNH YÊU BA NGÔI

TÌNH YÊU BA NGÔI

 

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Người đời có nhiều cách cho:

Cho của thừa

Khi có nhóm từ thiện đến gõ cửa xin quà cho người nghèo, chị A mang ra nhiều áo quần cũ cả ba năm nay không đụng tới để làm quà tặng. Cho như thế là cho thứ dư thừa; chỉ có chút ít tình thương trong hành vi đó.

Cho thứ cần dùng

Ông B là người cao tuổi, góa vợ, không con, gia thế thanh bần, kiếm sống qua ngày bằng cách bán vé số dạo. Thế nhưng vì thấy đứa bé nhà hàng xóm quá nghèo, phải cuốc bộ đến trường mỗi ngày cả chục cây số, ông trút hết tiền dành dụm để dưỡng già, đem mua xe đạp điện tặng cho đứa bé, với hy vọng nó sẽ đỡ vất vả, nắng nôi.

Cần phải có nhiều tình yêu thương hơn mới có thể thực hiện được nghĩa cử cao đẹp nầy.

Cho thứ tối cần

Trong những ngày qua, báo chí Việt Nam đưa tin nam phi công người Anh, 43 tuổi, không còn cha mẹ, chưa lập gia đình, bị nhiễm Covid-19 rất nặng. Hội đồng y khoa tham gia điều trị cho biết anh hiện đang trong tình trạng nguy kịch, phổi không hoạt động và cần phải cấy ghép phổi thì mới có cơ may sống sót.

Khi tin này được loan đi, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2020, có đến 50 người Việt Nam có sức khỏe tốt, tình nguyện hiến một phần lá phổi của mình để cứu mạng sống anh.

Dám để cho bác sĩ cắt bớt một phần phổi của mình để hiến tặng người không quen biết nhằm cứu sống anh ta, là một nghĩa cử hào hiệp và rất giàu tình yêu thương. Phải có tình thương rất lớn lao mới có thể thực hiện được hành vi tốt lành và cao đẹp này.

Trao ban là thước đo của tình yêu: Ai cho nhiều, chứng tỏ người đó yêu mến nhiều; ai cho ít, chứng tỏ yêu mến ít ; ai đem những gì rất cần thiết cho bản thân mình để tặng ban cho người khác, thì tình yêu của người đó quả là lớn lao.

Thiên Chúa yêu thương con người vô hạn vì đã trao ban Con Một cho thế gian

Loài người đã phạm tội và chiếu theo luật thì phải gánh lấy hậu quả của tội là chịu án phạt đời đời trong hỏa ngục.

Nhưng nếu để cho loài người phải sa hỏa ngục đời đời vì tội lỗi của họ thì tội nghiệp cho loài người quá đỗi và Thiên Chúa cũng đau xót vô cùng.

Do đó, Thiên Chúa Cha quyết định cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, không phải để lên án hay xét xử thế gian, không phải để trừng trị người phạm tội, nhưng là để cứu muôn người khỏi chết và cho họ được sống đời đời.

Chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều này khi nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 3, 17).

Để cứu muôn người khỏi phải sa hỏa ngục đời đời, Chúa Giê-su phải mang lấy tội lỗi của họ vào thân và một khi đã mang lấy tội lỗi loài người, Chúa Giê-su phải gánh chịu những hậu quả do những tội lỗi đó gây ra. Vì thế, Ngài phải chịu phạt và chịu chết thay cho muôn người.

Thế là, nhờ Chúa Giê-su chịu khổ nạn mà con người được tha thứ, nhờ Ngài chịu chết mà muôn người được cứu sống.

Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã cho Con Một Ngài chịu chết đau thương để đền tội cho muôn dân, để cho ta được thoát khỏi án phạt đời đời trong hỏa ngục và được sống hạnh phúc hoan lạc trên thiên đàng. Điều này chứng tỏ tình thương Chúa dành cho chúng ta quả là vô bờ vô bến.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, vô cùng lớn lao, cao cả, là Đấng thánh thiện, tốt lành không thể nào tả xiết; còn chúng con là loại thụ tạo hèn kém, bé nhỏ, chẳng đáng gì trước mặt Chúa.

Thế mà vì yêu thương chúng con, Đấng vô cùng cao cả đã hiến thân chết thay cho loài người bé mọn. Thương đến mức chịu chết thay cho người khác là tình thương vô bờ, vô biên…

Xin cho chúng con nhận ra tình thương cao vời đó, để quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và cố gắng đền đáp phần nào tình Chúa yêu thương chúng con.

 

42.Trao ban tất cả vì yêu thương

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.

Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.

Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.

Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.

Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu.

Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.

Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.

Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời:

"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". (Gioan 3, 16-17)

Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người.

"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình" (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

* * *

Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.

Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?

Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là "hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: "đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu".

 

43.Lễ Chúa Ba Ngôi – R. Veritas

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.

Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.

Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?

Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.

Anh chị em thân mến,

"Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó". Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.

Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.

Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.

Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).

Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi" (Jn 3,16-18).

Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

 

44.Chúa Ba Ngôi

Người Đông phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế.

Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về trời, bởi vì họ cho rằng ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu đáo, phương chi là những thực tại vô hình.

Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la.

Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, có lẽ ít khiêm tốn hơn những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều.

Thế nhưng, phải thành thật mà nói: Kể từ thời thánh Augustino cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã hiểu thêm được những gì về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Hay chúng ta cũng giống như những người lạc vào rừng, càng đi xa, càng vào sâu, thì lại càng cảm thấy mịt mù và tăm tối. Hoặc giống như người trong sa mạc, càng đi thì lại càng cảm thấy chỉ có cát và cát mà thôi.

Bởi thế hôm nay, khi mừng kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thái độ thích hợp nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là im lặng, khiêm tốn và thờ lạy.

Từ thái độ khiêm tốn và thờ lạy này, chúng ta đưa ra một cách thế để cảm nghiện được mầu nhiệm này, đó là tình yêu. Thực vậy, chúng ta không thể biết rừng, nếu đã chẳng biết cây. Cũng vậy, chúng ta không thể nào biết Thiên Chúa, Đấng chúng ta hằng kính mến, nếu chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.

Và thật may mắn cho chúng ta vì không cần biết hết mọi thứ cây, thì mới hiểu được rừng. Cũng vậy, không cần phải nếm hết tất cả nước biển mới biết nước biển mặn, nhưng chỉ cần nếm một vài giọt mà thôi cũng đã đủ.

Cũng vậy, chúng ta không cần phải yêu thương tất cả mọi người trên thế gian, mới hiểu được tình yêu là gì? Và hiểu được chân lý Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu. Đã hẳn Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương tất cả mọi người, nhưng tất cả ở đây không có nghĩa về số lượng, bởi vì điều đó không thể nào thự c hiện được đối với chúng ta, nhưng Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta yêu thương những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của mình, không ghét bỏ một ai, cũng chẳng loại trừ một ai.

Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là điều quá cao vời, quá rắc rối. Chuyện hiểu biết mầu nhiệm này nằm ở trong lãnh vực chuyên môn của các nhà thần học, của các giám mục, linh mục và tu sĩ…Còn mình làm sao có thời giờ để mà học hỏi, có trình độ đâu mà dám múa rìu qua mắt thợ.

Nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng: Trong lãnh vực này, có khi nhà thần học, cũng như giám mục, linh mục hay tu sĩ vẫn còn thua xa một bà già nhà quê, nếu như bà ấy biết yêu thương hết thảy mọi người.

Bởi vì, chuyện yêu thương không nhất thiết đòi hỏi một trí rộng tài cao, mà chỉ đòi hỏi một sự nhiệt tâm và chân thành mà thôi.

 

45.Thiên Chúa Ba Ngôi: tình yêu tuyệt hảo

“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu, mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng cho bằng định nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.

Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua người Con Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người: Ngài đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.

Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.

Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên Chúa, mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho con người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập Giá Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá, không những Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra cho chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu thương. Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương.

 

46.Trí khôn và ý muốn

Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:

- Thượng đế là gì?

Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.

Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:

- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?

Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:

- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.

Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực của chúng ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính hôm nay. Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên rằng: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta.

Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm thành một Thiên Chúa duy nhất.

Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ, đó là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.

Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là một mầu nhiệm không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.

Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi, ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:

- Em làm gì thế?

Em bé bèn trả lời:

- Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.

Thánh nhân mỉm cười và nói:

- Làm sao tát hết được?

Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:

- Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.

Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để hiểu về mầu nhiệm này.

Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng ta yêu mến.

Trước hết, con tim chúng ta đủ to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.

Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức, chúng ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải tội, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu mến Chúa Ba Ngôi.

Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại, Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.

Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm Ngài nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.

 

47.Dấu Thánh Giá

“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Tertulianô đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phaolô cũng thường mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.

Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu thánh giá bên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có Ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm về đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.

Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình ảnh, ý nghĩa, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.

Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439.

Mầu nhiệm Ba Ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.

 

48.Ba Ngôi

Trong thánh lễ ban phép Bí tích Thêm sức, Đức Tổng Giám mục hỏi một ứng viên định nghĩa Ba Ngôi Thiên Chúa là gì. Một bé gái 14 tuổi nhỏ nhẹ trả lời: “Thưa Ba Ngôi Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một Thiên Chúa”. Đức Tổng giám mục đã lớn tuổi, nặng tai, nghe không rõ, bèn hỏi lại: “Cha không hiểu con nói gì?” Vị linh mục giúp lễ cho ngài là một nhà thần học bèn trả lời: “Thưa Đức cha, Đức cha không cần phải hiểu. Ba Ngôi là một mầu nhiệm!”

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta biết rằng mình không thể hiểu được, vì đó là một mầu nhiệm. Nhưng cũng biết chắc rằng chúng ta đang sống mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai đã hiểu được cuộc đời. Ai cũng cảm được dòng nhạc hay, nhưng lại không thể lấy được cái hay đó ra cho người khác xem!

Tách ra khỏi dòng sông, con cá sẽ chết. Biệt lập ra khỏi dòng đời, con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc. Lẩy ra một nốt nhạc, nó chỉ là một âm thanh trơ trọi, không còn là một bài ca. Một vũ khúc được liên kết bởi các cử điệu trong sự liên tục trôi chảy và nhịp nhàng. Đó chính là những hình ảnh sống động giúp ta hiểu phần nào về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Có một cuốn sách tuyệt hay với tựa đề “Flow” – “Sự Trôi Chảy” của Mihaly Csikzentmihalyi, giáo sư tâm lý học trường Đại học Chicago. Tác giả đã trình bày những kết quả của việc nghiên cứu nhằm xác định một cách chính xác câu hỏi: “Điều gì làm cho con người hạnh phúc?” Sau khi thử nghiệm và phỏng vấn hàng trăm người trong nhiều năm, giáo sư đã đi đến kết luận rằng con người cảm thấy hạnh phúc nhất khi chúng ta sống “trong sự trôi chảy”.

Qua lời khẳng định này, tác giả muốn nói đến khả năng tự làm mất đi cái bản ngã của mình để hòa điệu vào cái khác hay người khác, hy sinh cuộc đời mình cho một người, một công trình, hay một hoạt động, nhẩy ra khỏi sự hạn hẹp của cái tôi chủ quan để hòa mình vào dòng suối cảm nghiệm của cuộc đời.

Sống “trong sự trôi chảy” có thể thực hiện dưới vô số những hình thức: leo núi, đánh cờ, nghe nhạc, hàn huyên trong câu chuyện gẫu, đắm chìm vào trong cuốn tiểu thuyết trinh thám, hay hăng say làm việc giúp đỡ người nghèo. Bất cứ cái gì thúc đẩy chúng ta ra khỏi bản thân mình, bất cứ cái gì làm cho chúng ta ngây ngất, hay tạo nên hoan lạc có thể được coi như “trong sự trôi chảy”. Đồng thời, khi chúng ta bị ngã bật ngửa ra, qua sự chán chường hay lo âu, khi chúng ta tê cóng lại thay vì chuyển động trôi chảy, chúng ta trở nên bất mãn, không hạnh phúc.

Đối với người Công giáo thì chẳng có gì ngạc nhiên, vì chúng ta ngầm khẳng định cái kinh nghiệm nội tâm này và biểu tỏ ra một cách sâu xa mỗi khi làm dấu thánh giá. Tôi tự hỏi chúng ta có thường ý thức rằng Thiên Chúa mà chúng ta thờ phượng không phải là một tĩnh vật bất động nhưng là một tập thể của những ngôi vị linh hoạt và năng động: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.

Từ nguyên thủy, Đức Chúa Cha, nguồn thần tính vô tận và phong phú, biểu tỏ qua Chúa Con, một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình trong kiến thức và tình yêu. Và Đức Chúa Con, từ nguyên thủy tự cho phép mình được phát biểu và rồi trở về với Đức Chúa Cha trong hoan lạc. Trong tình yêu hỗ tương, sự chia sẻ thân mật sâu xa của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là Đức Chúa Thánh Thần.

Diễn tả theo ngôn ngữ gợi cảm của thánh Bernard of Clairvaux: Đức Chúa Cha là người hôn, Đức Chúa Con là người được hôn, và Đức Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn mà Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con chia sẻ với nhau. Thiên Chúa của chúng ta là một sự nhịp nhàng, một vũ khúc, một dòng sông, một dòng đời. Bản chất của Đức Chúa Cha là hướng về người khác, là đi ra khỏi chính Ngài. Bản tính của Đức Chúa Con là quên mình, trong khi bản tính của Đức Chúa Thánh Thần là yêu thương và được thương yêu.

 

49.Lễ Chúa Ba Ngôi

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

THIÊN CHÚA BA NGÔI

NGUỒN MẠCH TÌNH YÊU, ÂN SỦNG và BÌNH AN

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ! Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta được thông phần vào sự sống của mầu nhiệm các mầu nhiệm, là mầu nhiệm cốt lõi của đời sống đức tin Công Giáo, đó là Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Lịch sử của Giáo Hội đã minh chứng hùng hồn về vô số cách chú giải, giải thích về Mầu Nhiệm này của các Thánh Giáo Phụ lỗi lạc; hàng loạt ví dụ, hình ảnh diễn giải mà các Ngài đã sử dụng nhằm giảng dạy, giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm cao cả này. Tuy nhiên, suy cho cùng, cho dù hình ảnh, ví dụ xác thực, chính xác như thế nào đi nữa thì cũng trở nên khập khiễng, hữu hạn trước Mầu Nhiệm vô hạn này. Chính vì thế, thay vì chúng ta cố gắng đi tìm lời giải thích vì sao lại Một Chúa mà Ba Ngôi? hay Nếu là Ba Ngôi thì đáng lẽ phải là Ba Chúa chứ? hay thay vì cố gắng truy tầm để hiểu Mầu Nhiệm này, thì tốt hơn hết chúng ta nên học biết sống, cảm nghiệm Mầu Nhiệm này ngay cả nơi cuộc sống thường nhật, trong đời sống đức tin, cầu nguyện, cộng đoàn, và trong những mối tương quan!

Trước hết, các bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đề cập một cách cụ thể, rõ nét đến Thiên Chúa là ai? Người như thế nào? Người có phải như chúng ta thường tưởng tượng, suy đoán? hoặc là một vị Thiên Chúa khác do tâm trí của chúng ta vô tình tạo ra? Nói một cách cụ thể, chúng ta có xu hướng tạo cho riêng mình một vị Thiên Chúa quyền năng bằng cách Người phải trừng phạt hết tất cả bọn người xấu xa, dẹp trừ hết mọi bất công xã hội, mang lại lợi ích kinh tế cho mọi người! Nhưng Thiên Chúa thật của chúng ta phải chăng như chúng ta nghĩ?

Nơi cuộc sống thường ngày, mỗi lần chúng ta nghiêm trang ghi dấu Thánh Giá trên mình là lúc chúng ta đang tuyên xưng Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Chúng ta tuyên tín và xác tín rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ngự trị trong tư tưởng, lời nói, hành động, con người mọn hèn bất xứng của chúng ta; hay nói cách khác, chúng ta thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi. Hơn nữa, mỗi lúc chúng ta bắt đầu hay kết thúc công việc gì thì chúng ta cũng làm dấu Thánh Giá trên ta như một lời xác tín, nguyện cầu, xin Thiên Chúa Ba Ngôi soi trí mở lòng, hướng dẫn, đồng hành với ta trong công việc và cảm tạ Người đã luôn hiện diện, trao ban, cho chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình yêu của Người trong mọi sinh hoạt đời thường. Đặc biệt, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa Ba Ngôi một cách thân mật, gần gũi nhất mỗi khi tham dự vào Bàn Tiệc Thánh (Thánh Lễ). Qua vị chủ tế, Thiên Chúa chào mỗi người chúng ta, Người mời gọi mỗi người chúng ta sống tháp nhập vào tình yêu, ân sủng, bình an của Người và kết hiệp với Người “nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (x. 2Cr 13, 13). Và rồi trong suốt Thánh Lễ, chúng ta được cảm nghiệm Mầu Nhiệm này qua Lời Chúa, được nếm mùi vị hạnh phúc đích thật nơi Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc rước lấy chính sự sống của Người; sau cùng, trước khi kết thúc Thánh Lễ, Thiên Chúa Ba Ngôi cư ngụ nơi tâm hồn, chúc lành cho mỗi người chúng ta qua vị chủ tế,“xin Thiên Chúa toàn năng, là Cha và Con và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em”, và Người ước mong chúng ta sống với Người, trở nên chứng nhân yêu thương, hiệp nhất, bình an trong mọi trạng huống cuộc đời ta như lời kết thúc Thánh lễ “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an”, hay nói một cách khác “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị ra đi, trở nên chứng nhân tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa Ba Ngôi”.

Vị Thiên Chúa ấy cũng chính là Thiên Chúa mà ông Mô-sen đã được diện kiến như bài đọc I trích sách Xuất Hành thuật lại “Thiên Chúa thương xót và từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành” (Xh 34, 6), và được Thánh Sử Gio-an trình bày cụ thể, sống động hơn về một Thiên Chúa đầy nhân hậu, vượt trên mọi trí hiểu, khôn ngoan, tầm cao vĩ đại của con người “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời,…” (Ga 3, 16) và “Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 17). Dừng lại nơi đây, chúng ta cùng nhau xem lại tư tưởng của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào? “Thiên Chúa đầy lòng thương xót, từ nhân..” (x. Xh 34, 6), nhưng đôi lúc chúng ta muốn Thiên Chúa biểu dương quyền năng của Người trừng phạt những ai ‘cản mũi kỳ đà’ chúng ta, và nếu như Chúa thương xót, từ bi thì xin tỏ lòng từ nhân, xót thương con, còn con có học sống, biểu lộ lòng thương xót này cho người khác hay không, đó lại là chuyện của con! “Thiên Chúa bao dung, khoan nhân…” (x. Xh 34, 6), nhưng chúng ta chỉ muốn Người khoan nhân với chính ta, còn những người khác không thuộc nhóm, không thuộc gu, không thuộc chính kiến, quan điểm, v.v…thì đừng bao dung!! “Thiên Chúa chẳng tiếc gì, kể cả chính Con Một yêu dấu của Người, mà Người trao ban cho ta để nhờ Người, thế gian được cứu độ” (x. Ga 3, 16), chúng ta được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương đến dường nào, Người đã hiến trao chính Con Một Người để cứu độ chúng ta, để mời gọi chúng ta biết sống hy sinh cho tha nhân, bỏ mình, bỏ cái tôi, bỏ định kiến, thói quen xấu, v.v…, nhưng tiếc thay, mỗi khi động đến quyền lợi, ích lợi cá nhân thì chúng ta ‘nắm khư khư’ chẳng bao giờ buông!!! “Thiên Chúa không sai Con của Người để luận phạt thế gian, nhưng nhờ Con của Người, thế gian không phải bị hư mất…” (x. Ga 3, 17), Thiên Chúa chẳng lên án, kết án chúng ta, nhưng chính chúng ta lại có xu hướng chụp mũ, lên án, xét đoán anh chị em, ‘treo bản án kết liễu’ cuộc đời cho tha nhân. Một trong 3 chứng nhân được ơn diện kiến Đức Mẹ tại Fatima, Bồ Đào Nha (13/5-13/10/1917), đó là Sơ Lucia (đã qua đời) từng nói về Sứ Điệp Fatima như sau: “Thiên Chúa chẳng bao giờ kết án ai phải xuống hoả ngục cả; nhưng vì con người dùng tự do mà Thiên Chúa ban cho để lựa chọn mà thôi”. Nếu ai càng xét mình trước khi xét đoán người khác, thì càng trở nên người đang sống, cảm nghiệm Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi! Nếu ai càng nỗ lực sống như Thánh Phao-lô răn dạy: “hãy vui lên, hãy nên trọn lành, khuyến khích nhau, đồng tâm nhất trí, và hoà thuận với nhau…” (x. 2Cr 13, 11), thì “…Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn bình an và tình yêu sẽ ở với người ấy” (x. 2Cr 13, 11), hay nói cách khác: người ấy đang cảm nghiệm, sống Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi nơi đời thường của mình!

Thiên Chúa Ba Ngôi từ ái,

Sống trong sâu thẳm, hiện tại đời con.

Lòng con bất xứng, hao mòn

Người hằng mời gọi, mãi trọn khoan nhân.

Xét mình, chớ xét (đoán) tha nhân

Luôn vui, sống trọn, ân cần chia san.

Thiên Chúa - nguồn mạch bình an.

Ba Ngôi hiển trị, trao ban ân tình. Amen!

 

50.Ba Ngôi

Thiên Chúa không phải là Đấng cực kỳ cao cả đến nỗi Ngài “cứ để” mình biệt lập trong sự cao cả. Nhà thần bí học Pseudo Dionysius đã nói rằng sự tốt lành có tính cách lan truyền ra khỏi nó. Sự tốt lành không có khuynh hướng tự nghỉ yên nơi chính mình, nhưng tuôn tràn ra với những cảm giác vui sướng. Khi một người nào đó đang hân hoan vui sướng, họ không rút vào phòng để chiêm niệm cho riêng mình. Trái lại, họ thường có khuynh hướng đi ra ngoài, nói cười nhẩy nhót và vui mừng hân hoan với người khác, để chia sẻ cái họ đã tìm thấy. Do đó, Thiên Chúa của chúng ta đầy đủ sự tốt lành, không thể chỉ giữ lại cho riêng Ngài.

Xưa kia thánh Tôma Aquino cũng đã được hỏi rằng Thiên Chúa làm gì suốt ngày, và vị tiến sĩ Hội Thánh đã trả lời: “Ngài vui thích với chính Ngài”. Dĩ nhiên, câu trả lời vắn tắt gọn gàng này hoàn toàn phù hợp với những kết quả tìm kiếm được của Csikzentmihalyi: “Thiên Chúa Ba Ngôi luôn luôn trong sự trôi chảy nhịp nhàng”.

Vũ khúc tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa quá mãnh liệt và tốt lành đến độ đã tuôn chảy tràn lan qua hành động sáng tạo vĩ đại của Ngài. Công đồng Vatican I đã diễn tả rằng Thiên Chúa đang làm chính mình trở nên khác để chia sẻ nguồn vui và sự hoàn thiện của Ngài. Vũ trụ lạ lùng là một bằng chứng cho thấy cái khuynh hướng về người khác của Đấng tạo Hóa, một khuynh hướng không thể nghỉ yên nơi Chính Mình. Thế nhưng, ngọn lửa hoan lạc của Ba Ngôi vẫn chưa được diễn tả một cách đầy đủ chỉ trong sự sáng tạo. Thay vào đó, một hình thức đẹp đẽ với vẻ rực rỡ vinh quang của nó đã được ban cho trong một hành động chưa từng nghe đến của Sự Nhập Thể, một bước nhảy vọt, qua đó Thiên Chúa trở nên một tạo vật. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy trước mắt một chuỗi những biến cố về sự tuôn tràn của Ba Ngôi Thiên Chúa được trình bày:

Đức Chúa Cha sai Đức Chúa Con đi vào hữu hạn, xác phàm, tội lỗi và sự chết, vào tất cả những cái đang đe dọa và làm chúng ta khinh khiếp, bằng cách mở trái tim của Thiên Chúa ra qua một sự vươn tới của tình yêu. Rồi, trong Đức Chúa Thánh Thần, Đức Chúa Con lại trở về với Đức Chúa Cha, mang theo với Người tất cả thụ tạo. Vũ khúc đã xảy ra từ nguyên thủy, trong niềm hoan lạc đó thế giới đã được tạo dựng, hình thành trong Đức Kitô, với thịt và máu của Người.

Đây là Thiên Chúa mà chúng ta biết. Đây là Thiên Chúa tạo dựng và duy trì chúng ta trong hiện hữu. Đây là Thiên Chúa chúng ta cử hành khi làm dấu thánh giá. Do đấy, chúng ta không ngạc nhiên rằng nguồn vui sâu xa nhất của chúng ta đến từ việc sống “trong sự trôi chảy nhịp nhàng”, vì trong tình yêu hoan lạc mà chúng ta trở nên giống với “Vũ Khúc của Ba Ngôi” nhất.

 

51.Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một. Bài Phúc âm chỉ mới cho biết Thiên Chúa và Con.

Còn Chúa Ba Ngôi? Nội dung chính của ngày lễ hôm nay là Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa tự thân (in se) là một. Là tín điều chắc chắn. Nhưng trong hoạt động ad extra thì Thiên Chúa tỏ ra là ba. Nên thần học tín lý có thesis: Thiên Chúa là một và ba (Deus unus et trinus).

Mạc khải duy nhất trong Phúc âm về Chúa Ba Ngôi đầy đủ là Mt 28,19: Làm phép rửa cho họ "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".

Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần. Không phải Thiên Chúa là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là ba chứ không là ba Chúa. Thiên Chúa duy nhất (in se) nhưng khi hành động (ad extra: xuất ngoại) thì được nhận biết là ba.

Thiên Chúa duy nhất: chỉ có một Thiên Chúa.

Nhưng Thiên Chúa là actus purus (là thuần-hoạt- động) nên Người phán (nói) lời. Lời được gọi là con: Thiên Chúa sinh con. Là Thiên Chúa nhưng khi sinh con thì là Cha. Con thì là một với cha, đồng hiện hữu, đồng bản tính (natura divina). Cha là người thì con là người. Nên Ga khẳng định "Lời cũng là Thiên Chúa" (không là một Thiên Chúa khác mà là cùng một bản thể với Thiên Chúa duy nhất).

Từ khởi nguyên "Thiên Chúa phán một lời" thì mọi sự liền có. Một lời duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa: Thiên Chúa chỉ phán một Lời-Con một. Lời ở trong Thiên Chúa đồng hiện hữu với Thiên Chúa. Là Lời vỉnh cữu. Phúc âm Ga khởi đầu như vậy đó.

Sách sáng thế còn có câu "Thần Khí Thiên Chúa bay là là trên nước". Công thức tạo dựng là "Thiên Chúa phán một lời và Thần Khí bay là là trên nước". Nước cũng được dùng chỉ Thần Khí của Thiên Chúa, tượng trưng cho sự sống. Nước có trước hết vì là Thần Khí gắn liền với Lời.

Mặc dù không rỏ ràng lắm. Nhưng từ khởi nguyên cũng đã hé mở "Thiên Chúa là ba": Cha- Con - Thánh Thần.

Nhưng tạo dựng quá mênh mông "l"univers est illimité" không đủ là bằng chứng cho sự nhận biết Thiên Chúa nên Thiên Chúa chỉ được nhận biết là Trời, ông trời, Thưọng Đế.... Cần có thêm mạc khải đặc biệt là kế hoạch cứu độ. Lời làm người cùng với Thần Khí (xức dầu) để Lời được sống (đời sống Đức Giêsu) và được dạy (Đức Giêsu rao giảng), các tông đồ giải thích, áp dụng cụ thể, thực tế rồi được chép trong Phúc âm. Lời được ban rồi. Để kích hoạt Lời Thiên Chúa còn phải ban Thần Khí. Đức Giêsu đã hứa và khi đến với các tông đồ chiều ngày Phục Sinh Người thổi hơi vào các ông và nói "hãy nhận lảnh Thần Khí" và ngày lễ Ngủ Thuần Thánh Thần đã Hiện Xuống với hình lưỡi lửa kết thúc quá trình ban Thần Khí. Thần Khí lộ diện. Đức Giêsu kết thúc lời giảng bằng "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Tiếng Việt thì hơi phiền vì có người muốn "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Các ngôn ngữ khác đều "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".

Nhưng Thánh Thần đã lộ diện rõ ràng để được nhận biết cách minh nhiên. Thánh Thần hiện xuống bằng gió mạnh, lưỡi lửa đốt đầu thanh tẩy ký ức trong đầu các tông đồ để các ông làm chứng. Chính con người được Thánh Thần biền đổi lạ lùng toàn diện của các ông là bằng chứng đi đầu rồi tới sự rao giảng khôn ngoan, lợi khẩu và những dấu lạ lớn lao kèm theo "lời các ngài có quyền năng".

Thiên Chúa là Cha, nguồn gốc, căn bản. Lời mạc khải "Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ban Con một". Lời được sai đến thế gian để mạc khải Thiên Chúa. Thần Khí chứng minh Thiên Chúa yêu "ban ơn" biến đổi làm cho con người trở nên con Thiên Chúa.

Thiên Chuá yêu thế gian đến nổi ban con một và ban luôn Thần Khí để trở thành nghèo vì đã cho hết. Chỉ còn lại danh hiệu là Cha và là Tình yêu. Nhưng như vậy mà Thiên Chúa được nhận biết và được đáp trả bằng yêu mến.

Đó là Lời Chúa (mạc khải).

home Mục lục Lưu trữ