Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 37
Tổng truy cập: 1362378
TÌNH YÊU PHỤC SINH
TÌNH YÊU PHỤC SINH
Lời Chúa: Ga 20, 1-9
Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh chỉ gói trọn chín câu, nhưng có đến ba lần dùng động từ “chạy” diễn tả qua ba nhân vật được Phúc Âm Gioan tường thuật lại: Bà Maria Mađalêna liền chạy từ mộ về báo tin là tình yêu Phục Sinh. Phêrô và Gioan cùng chạy đến mộ là tình yêu Phục Sinh.
Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh chỉ gói trọn chín câu, nhưng có đến ba lần dùng động từ “chạy” diễn tả qua ba nhân vật được Phúc Âm Gioan tường thuật lại: Bà Maria Mađalêna liền chạy từ mộ về báo tin là tình yêu Phục Sinh. Phêrô và Gioan cùng chạy đến mộ là tình yêu Phục Sinh.
- Tình yêu Phục Sinh khiến bà Mađalêna vượt lên trên mọi sự
Các sách Tin Mừng kể lại: Matthêu (Mt 27,56,61), Máccô (Mc 15,40,47), và Gioan (Ga 19,25) đều ghi nhận sự hiện diện yêu thương của bà trong những giờ phút kinh hoàng, đau thương nhất của Đức Giêsu: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mađalêna” (Ga 19,25). Chính vì tình yêu đã khiến bà ra mộ sớm nhất và trước nhất, mặc cho những bước chân mệt mỏi và buồn thảm vì Thầy kính yêu đã chết (x. Mt 28,7; Ga 20,11). Hơn nữa, bà cũng không quản ngại những nguy hại có thể do quân lính canh giữ mộ Thầy gây ra cho mình. Nhưng chính tình yêu đã thúc đẩy bà đến mộ và bà được gặp Đấng Phục Sinh. Tin Mừng Gioan ghi lại rằng: Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra gặp bà, khi bà đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc lóc (x. Ga 20,11), và bà cứ tưởng Ngài là người làm vườn, cho đến khi Ngài gọi tên bà, lúc đó bà mới nhận ra Thầy mình đã sống lại (x. Ga 20,11-18).
Chính vì tình yêu Phục Sinh, bà Mađalêna đã ra khỏi không gian sầu thảm, nhớ thương để đón nhận ánh sáng Phục Sinh đang bừng cháy trong trái tim bà và thúc giục đôi chân của bà, khiến bà vội vã chạy khẩn trương, nhanh hết sức có thể để báo tin vui cho các môn đệ: Thầy đã sống lại!
Chính vì tình yêu Phục Sinh, bà Mađalêna đã ra khỏi không gian sầu thảm, nhớ thương để đón nhận ánh sáng Phục Sinh đang bừng cháy trong trái tim bà và thúc giục đôi chân của bà, khiến bà vội vã chạy khẩn trương, nhanh hết sức có thể để báo tin vui cho các môn đệ: Thầy đã sống lại!
- Tình yêu Phục Sinh khiến bà Mađalêna quên đi tất cả
“Chúa đã sống lại thật như lời Người đã phán hứa!”. Tin Mừng Phục Sinh đến với bà Maria Mađalêna như gia đình của anh Lazarô và con trai bà góa thành Naim được Chúa cho sống lại. Họ vui mừng không thể diễn tả niềm hạnh phúc tột cùng này. Tiếng khóc và sự đau khổ trở thành niềm vui chan chứa cho hai gia đình.
Cũng vậy, bà Maria Mađalêna được Chúa thương, chúc phúc và dành riêng tình thương mến giữa Thầy với trò. Vì thế, bà đã cảm nghiệm thật sâu lắng và thật mạnh liệt khi biến cố Phục Sinh xảy đến. Vì yêu, nên bà chuẩn bị một bình dầu thơm mong để ướp lại xác Thầy mình. Vì yêu, nên đêm ấy bà đã trằn trọc không sao ngủ được, mong cho thời gian của lề luật trôi qua nhanh và mong sao cho trời sáng thật lẹ để ra ướp xác Thầy lại với bình dầu thơm quý hiếm và thăm lại mộ Thầy mình.
Chắc chắn lúc này, mọi sợ hãi và buồn tủi của bà sẽ vơi đi và tan biến. Biến cố Phục Sinh đã làm cho bà có được một cảm nghiệm rất riêng trong cuộc đời mình và cho người khác. Bà đã cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc từ Đấng Phục Sinh không một thứ nào khác có thể so sánh bằng. Vì Thầy là động lực, là lẽ sống, là niềm tự hào và là nguồn an ủi trên cuộc đời bà.
Niềm vui Phục Sinh được vỡ òa lớn lao không gì có thể ví bằng nên bà đã không quản ngại sự mệt mỏi của mình, cũng như sức lực yếu ớt trong những ngày u ám qua. Bỗng bà đứng lên một cách mạnh mẽ, dứt khoát cùng chạy mau lẹ đến gặp các môn đệ của Thầy để báo tin: Thầy đã sống lại!
Tình yêu Phục Sinh khiến bà không dừng chân, không dừng lại ở các môn đệ mà còn đến với tất cả những ai bà gặp gỡ. Hơn nữa, niềm vui Phục Sinh khiến bà không còn phải tìm kiếm điều gì khác ngoài thánh ý Thiên Chúa mỗi ngày. Vì bà đã thấy Chúa (x. Ga 20,18). Người Công Giáo chúng ta hôm nay cũng vậy, chỉ có hạnh phúc đích thực là khi chúng ta được gặp Chúa và được nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền trong vinh quang Nước Trời!
Cũng vậy, bà Maria Mađalêna được Chúa thương, chúc phúc và dành riêng tình thương mến giữa Thầy với trò. Vì thế, bà đã cảm nghiệm thật sâu lắng và thật mạnh liệt khi biến cố Phục Sinh xảy đến. Vì yêu, nên bà chuẩn bị một bình dầu thơm mong để ướp lại xác Thầy mình. Vì yêu, nên đêm ấy bà đã trằn trọc không sao ngủ được, mong cho thời gian của lề luật trôi qua nhanh và mong sao cho trời sáng thật lẹ để ra ướp xác Thầy lại với bình dầu thơm quý hiếm và thăm lại mộ Thầy mình.
Chắc chắn lúc này, mọi sợ hãi và buồn tủi của bà sẽ vơi đi và tan biến. Biến cố Phục Sinh đã làm cho bà có được một cảm nghiệm rất riêng trong cuộc đời mình và cho người khác. Bà đã cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc từ Đấng Phục Sinh không một thứ nào khác có thể so sánh bằng. Vì Thầy là động lực, là lẽ sống, là niềm tự hào và là nguồn an ủi trên cuộc đời bà.
Niềm vui Phục Sinh được vỡ òa lớn lao không gì có thể ví bằng nên bà đã không quản ngại sự mệt mỏi của mình, cũng như sức lực yếu ớt trong những ngày u ám qua. Bỗng bà đứng lên một cách mạnh mẽ, dứt khoát cùng chạy mau lẹ đến gặp các môn đệ của Thầy để báo tin: Thầy đã sống lại!
Tình yêu Phục Sinh khiến bà không dừng chân, không dừng lại ở các môn đệ mà còn đến với tất cả những ai bà gặp gỡ. Hơn nữa, niềm vui Phục Sinh khiến bà không còn phải tìm kiếm điều gì khác ngoài thánh ý Thiên Chúa mỗi ngày. Vì bà đã thấy Chúa (x. Ga 20,18). Người Công Giáo chúng ta hôm nay cũng vậy, chỉ có hạnh phúc đích thực là khi chúng ta được gặp Chúa và được nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền trong vinh quang Nước Trời!
- Tình yêu Phục Sinh khiến Phêrô và Gioan cùng chạy đến mộ
Hai môn đệ Phêrô và Gioan: Cả hai cùng chạy đến mộ theo lời của người phụ nữ về báo tin. Những động thái này làm cho chúng ta liên tưởng sự tất bật, hổi hả, vội vàng, nóng lòng. Ai đó đã đặt ra câu hỏi cho hai môn đệ: Tại sao không kiểm chứng, tại sao không suy xét mà mới chỉ nghe một lời báo của bà Mađalêna chưa chắc chắn, đã vội vàng nhanh chóng chạy đến mộ Thầy như thế?! Dám chắc rằng, vì tình yêu nên các ông đã không do dự khi nhận được tin báo. Cả hai cùng chạy để có được niềm vui Phục Sinh.
Riêng Gioan được tin, ông chạy với Phêrô trong cùng một thời gian, trong cùng một khoảng không gian nhất định của hai người. Thế nhưng, Gioan lại chạy đến mộ Thầy trước, còn Phêrô chạy theo sau. Tư tưởng thần học và Kinh Thánh có thể được giải thích trong hai ý như sau: Thứ nhất có lẽ vì ông Gioan trẻ hơn và khỏe hơn; và thứ hai là vì Gioan đã cảm nghiệm được tình yêu Phục Sinh hơn và đã thúc bách ông chạy nhanh hơn và trước nhất. Động lực ấy đã khiến Gioan cố gắng hết sức có thể và tìm cách chạy nhanh nhất có thể để được đến nơi sớm nhất.
Theo truyền thống Giáo Hội, Gioan có biệt danh: Môn đệ được Chúa yêu. Kinh Thánh kể: Đứng gần thập giá cùng với Mẹ Người có môn đệ Gioan đứng bên cạnh và Chúa trối lại Mẹ Người cho môn đệ yêu quý này: “Đây là Mẹ của anh!” (x. Ga 19, 25-27). Gioan tựa đầu vào lòng ngực Thầy Giêsu: “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, tựa vào lòng Đức Giêsu… Ông này nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu” (x. Ga 13, 23;25).
Vì thế, Gioan đã đặt tình yêu đúng chỗ và chỉ dành riêng cho một mình Thầy Giêsu. Tình yêu Gioan rất đặc biệt và thẳm sâu trong cõi lòng Thầy trò. Người đời còn gọi là tình yêu keo sơn, tình bạn chung thủy. Bởi vậy, Gioan được gọi là người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Còn chúng ta, sống niềm vui Phục Sinh của Chúa như thế nào? Thiết nghĩ, tình yêu chúng ta dành cho Đấng Phục Sinh còn mỏng giòn, tình yêu dễ đổ vỡ, hời hợt nếu không dám nói là bất trung với Ngài.
Chính tình yêu mà Phêrô và Gioan đã đi từ chỗ thất vọng buồn chán đến chỗ xác tín trong niềm hy vọng là mong gặp được Thầy sống lại. Niềm hy vọng đã thành hiện thực, khi hai ông tận mắt chứng kiến cảnh tượng của người chết sống lại bởi: “những băng vải để ở đó, khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (x. Ga 20,6-7); hai ông hiểu ra sự kiện khi nhớ lại lời Đức Giêsu cũng như Kinh Thánh đã báo trước: “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết và niềm vui Phục Sinh tràn ngập nơi tâm hồn khi hai ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20,8-9).
Chúng ta có thể kết luận rằng: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan đã cùng có một điểm chung: “cõi lòng mong đợi”: “chạy từ mộ và cùng chạy đến mộ”. Họ đã gặp nhau trong niềm vui và niềm xác tín duy nhất là Thầy đã sống lại! Họ cùng chung một mối tình là Thầy Giêsu đã Phục Sinh, ứng nghiệm với các bằng chứng và các sự kiện đã nói trong Kinh Thánh. Giáo Hội hôm qua, hôm nay và ngày mai luôn được tiếp tục thúc bách bởi Thánh Thần là loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho nhân loại rằng: Đức Giêsu thành Nazaret đã bị đóng đinh, đã chịu chết và đã sống lại để cứu độ chúng ta.
Riêng Gioan được tin, ông chạy với Phêrô trong cùng một thời gian, trong cùng một khoảng không gian nhất định của hai người. Thế nhưng, Gioan lại chạy đến mộ Thầy trước, còn Phêrô chạy theo sau. Tư tưởng thần học và Kinh Thánh có thể được giải thích trong hai ý như sau: Thứ nhất có lẽ vì ông Gioan trẻ hơn và khỏe hơn; và thứ hai là vì Gioan đã cảm nghiệm được tình yêu Phục Sinh hơn và đã thúc bách ông chạy nhanh hơn và trước nhất. Động lực ấy đã khiến Gioan cố gắng hết sức có thể và tìm cách chạy nhanh nhất có thể để được đến nơi sớm nhất.
Theo truyền thống Giáo Hội, Gioan có biệt danh: Môn đệ được Chúa yêu. Kinh Thánh kể: Đứng gần thập giá cùng với Mẹ Người có môn đệ Gioan đứng bên cạnh và Chúa trối lại Mẹ Người cho môn đệ yêu quý này: “Đây là Mẹ của anh!” (x. Ga 19, 25-27). Gioan tựa đầu vào lòng ngực Thầy Giêsu: “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, tựa vào lòng Đức Giêsu… Ông này nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu” (x. Ga 13, 23;25).
Vì thế, Gioan đã đặt tình yêu đúng chỗ và chỉ dành riêng cho một mình Thầy Giêsu. Tình yêu Gioan rất đặc biệt và thẳm sâu trong cõi lòng Thầy trò. Người đời còn gọi là tình yêu keo sơn, tình bạn chung thủy. Bởi vậy, Gioan được gọi là người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Còn chúng ta, sống niềm vui Phục Sinh của Chúa như thế nào? Thiết nghĩ, tình yêu chúng ta dành cho Đấng Phục Sinh còn mỏng giòn, tình yêu dễ đổ vỡ, hời hợt nếu không dám nói là bất trung với Ngài.
Chính tình yêu mà Phêrô và Gioan đã đi từ chỗ thất vọng buồn chán đến chỗ xác tín trong niềm hy vọng là mong gặp được Thầy sống lại. Niềm hy vọng đã thành hiện thực, khi hai ông tận mắt chứng kiến cảnh tượng của người chết sống lại bởi: “những băng vải để ở đó, khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (x. Ga 20,6-7); hai ông hiểu ra sự kiện khi nhớ lại lời Đức Giêsu cũng như Kinh Thánh đã báo trước: “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết và niềm vui Phục Sinh tràn ngập nơi tâm hồn khi hai ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20,8-9).
Chúng ta có thể kết luận rằng: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan đã cùng có một điểm chung: “cõi lòng mong đợi”: “chạy từ mộ và cùng chạy đến mộ”. Họ đã gặp nhau trong niềm vui và niềm xác tín duy nhất là Thầy đã sống lại! Họ cùng chung một mối tình là Thầy Giêsu đã Phục Sinh, ứng nghiệm với các bằng chứng và các sự kiện đã nói trong Kinh Thánh. Giáo Hội hôm qua, hôm nay và ngày mai luôn được tiếp tục thúc bách bởi Thánh Thần là loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho nhân loại rằng: Đức Giêsu thành Nazaret đã bị đóng đinh, đã chịu chết và đã sống lại để cứu độ chúng ta.
- Tinh yêu Phục Sinh khiến chúng ta loan báo Tin Mừng
Thật vậy, cũng như Phêrô và Gioan sau biến cố Phục Sinh, các ngài đã vội vã, lên đường loan báo niềm vui và làm chứng Tin Mừng Phục Sinh cho nhân loại.
Mỗi người trong chúng ta là giáo dân và giáo sĩ đều được mời gọi sống Tin Mừng Phục Sinh ngang qua các biến cố trong cuộc đời của từng người bằng việc xác tín và gắn bó với Đấng Phục Sinh. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng Phục Sinh mới sống động và hữu hiệu qua chính sứ vụ của mỗi người. Chỉ khi chúng ta sống được như thế, thì niềm vui Phục Sinh mới được vỡ òa trong con đường đức tin. Chỉ khi chúng ta sống niềm vui Phục Sinh thì Tin Mừng Phục Sinh mới có thể đến với mọi người, mọi nơi trong thế giới này.
Ước gì lời tuyên xưng của người tín hữu trong Thánh lễ mỗi ngày: “chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến” trở nên nhân chứng cho Đấng Phục Sinh. Alleluia! Alleuia!
Về mục lục
HÃY TRỖI DẬY
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thánh sử Luca kể lại: sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, những người phụ nữ đạo đức ra nơi phần mộ đã an táng Chúa Giêsu. Họ muốn thực hiện những nghi thức tẩm liệm theo phong tục của người Do Thái, vì buổi chiều thứ Sáu, việc tháo đanh và táng xác được thực hiện quá vội vàng, nên họ chưa làm được. Khi thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ, họ đã bước vào và không thấy xác Chúa Giêsu, nhưng lại thấy hai người đàn ông mặc y phục sáng chói. Hai người này nói: Sao các bà lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi…” (x. Luc 24,1-7).
“Trỗi dậy!” là động từ được dùng để diễn tả việc Chúa Giêsu phục sinh. Động từ này vừa có nghĩa “thức dậy”, vừa có nghĩa “vùng lên”. Một người đang nằm, trỗi dậy, tức là người đó tự mình ngồi dậy hay đứng lên mà không cần nhờ đến sự can thiệp hay giúp đỡ của người khác. Chúa Giêsu phục sinh là tự Người trỗi dậy từ trạng thái của một người đã chết. Chúng ta cũng có thể nói như thánh Phêrô trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ tuần: Thiên Chúa đã làm cho Người ((Đức Giêsu) sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi (x. Cv 2,24). Chúa Giêsu vừa “được” Thiên Chúa làm cho sống lại, vừa tự “trỗi dậy” từ nấm mồ tối tăm để phục sinh vinh quang, vì Người là chủ của sự sống. Chính Người đã tuyên bố: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18).
Chúa Giêsu trỗi dậy từ nấm mồ. Đây là khởi điểm của một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Có tác giả so sánh Chúa Giêsu an nghỉ trong mộ, giống như Ađam ngủ say ở khởi đầu lịch sử. Trong lúc Ađam ngủ, Thiên Chúa đã rút chiếc xương sườn của ông để làm nên người phụ nữ. Chính trong giấc ngủ của Chúa Giêsu mà Giáo Hội của Người được sinh ra và khởi đầu. Khi Ađam tỉnh giấc, ông nhìn thấy bà Evà và tuyên bố: đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Điều đó nói lên sự bình đẳng, ngang hàng và gắn bó. Khi Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, Người kéo cả nhân loại, từ Ađam, từ âm ty (còn gọi là ngục tổ tông hay nơi ở của những người đã chết, theo quan niệm của người Do Thái) cùng trỗi dậy với Người. Vết thương tự cạnh sườn Chúa đã chữa lành vết thương ở cạnh sườn của Ađam. Cái chết của Chúa trên thập giá đã tiêu diệt sự chết nơi toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu là Ađam mới. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Ađam mới, hay Ađam sau cùng như lối nói của một số nhà thần học, lại là nguồn mạch của sự sống.
Khi trỗi dậy khỏi nấm mồ tăm tối, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng cho nhân loại. Quả vậy, qua sự phục sinh sáng láng của Người, chúng ta nhìn thấy tương lai của chính mình. Tương lai đó là sự phục sinh thân xác vào ngày tận cùng của thời gian. Tương lai đó cũng là sự sống vĩnh cửu Chúa dành cho những ai tin cậy, phó thác và yêu mến Người. Cuộc phục sinh của Chúa cũng nói với chúng ta về phẩm giá của con người. Bởi lẽ con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Cuộc sống này không thể chỉ kết thúc ở nấm mộ. Một số người Do Thái đã giết hại Chúa vì họ cho rằng Chúa là một người phản loạn. Giết được Chúa Giêsu, các kỳ lão và biệt phái vui mừng vì diệt được một đối thủ. Tuy vậy, Chúa Giêsu không ngủ yên trong nấm mộ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc những bất công và mưu mô, dù mạnh mẽ đến mấy, cũng không thể trường tồn trên thế gian. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết. Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Chân lý đã chiến thắng dối gian. Chúa Giêsu phục sinh khẳng định với thế giới rằng, những mưu mô nhằm vu oan và làm hại người khác xem ra có đem lại thành công trước mắt, nhưng không đứng vững lâu dài. Những gì dối trá tất yếu sẽ bị vạch mặt và mưu mô gian ác phải cáo chung.
Người Kitô hữu tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và phục sinh. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến ý nghĩa đời sống của người tín hữu, đó là chết với Chúa Giêsu để được sống lại với Người. Trong các tác phẩm của mình, Thánh Phaolô không nhắc lại một phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông luôn nhấn mạnh tới biến cố Phục sinh. Dưới cái nhìn của một người được đào tạo bài bản trong truyền thống biệt phái, ông nhận ra hình ảnh của chiên vượt qua, xuyên qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu là Chiên Vượt Qua mới. Từ nay, chiên vượt qua mà người Do Thái giết trong Đền thờ chiều ngày thứ Sáu, trước ngày Sa-bát, không còn ý nghĩa gì nữa, hoặc nếu còn thì chỉ là biểu tượng ôn lại quá khứ. Chính Chúa Giêsu là Chiên Vượt qua đích thực đã chịu sát tế. Máu người đổ ra, không chỉ giúp cho người Do Thái thoát chết khi Sứ thần đi ngang qua trong đêm Thiên Chúa giải phóng người Do Thái khỏi Ai Cập, nhưng máu Chiên Vượt Qua mới sẽ thanh tẩy toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ hay bất cứ dị biệt nào.
“Hãy trỗi dậy những ai ngủ mê!”. Người Kitô hữu được mời gọi chuẩn bị tâm hồn từ đầu Mùa Chay để cử hành lễ Phục sinh. Như thế, Phục sinh không phải một ngày hội, cũng không phải một nghi thức tưởng niệm một biến cố đã lùi vào dĩ vãng xa xưa. Phục sinh là một tiến trình cải hóa bản thân, canh tân cuộc đời. Kết thúc chuỗi dài của những ngày sám hối, khổ chế, canh tân là được sống lại với Đức Giêsu trong một cuộc sống mới, chan hòa yêu thương thay chỗ cho giận ghét hận thù, đầy ắp hy vọng thay vì ảm đạm chán chường, gắn kết liên đới thay vì ích kỷ tầm thường. Người tín hữu, khi mừng lễ Phục sinh cũng được mời gọi trỗi dậy với Chúa Giêsu. Như trên đã nói, Chúa Giêsu vừa được Thiên Chúa cho sống lại, vừa tự Người trỗi dậy từ nấm mồ. Trong tiến trình nên hoàn thiện, người tín hữu luôn cậy trông vào sự nâng đỡ của Chúa, nhưng đồng thời họ cũng cộng tác phần mình bằng thiện chí cố gắng nỗ lực. Bởi lẽ, “khi Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Người không cần đến chúng ta. Nhưng khi Thiên Chúa muốn cứu chuộc chúng ta, Người lại cần đến sự cộng tác của chúng ta” (Thánh Augustinô). Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa bất lực, nhưng muốn nói lên sự tự do cộng tác của con người trong tiến trình hoàn thiện. Tình yêu không phải là điều bắt buộc, cưỡng ép, nhưng là tự nguyện chấp nhận với trái tim rộng mở chân thành. Tình yêu chỉ đạt tới viên mãn, khi có thiện chí từ hai phía, nếu không, mãi mãi chỉ là tình yêu đơn phương.
Năm nay, chúng ta mừng lễ Phục sinh trong một bối cảnh rất đặc biệt chưa có tiền lệ, do đại dịch viêm phổi Vũ Hán (COVID-19). Tính đến hôm nay (11-4-2020), trên thế giới đã có khoảng 1,6 triệu người dương tính với virus Corona. Số người chết đã lên tới trên 100 ngàn người. Trên toàn thế giới, lễ nghi Tuần thánh và Phục sinh được cử hành cách đơn giản. Các tín hữu dự lễ qua trực tuyến. Tuy vậy, nếu không có những cuộc rước ồn ào, thì mỗi chúng ta lại có thể lắng đọng tâm hồn trong tĩnh lặng để suy tư và lắng nghe tiếng Chúa rõ hơn. Là những người tin vào quyền năng Thiên Chúa, chúng ta phó thác nhân loại trong cánh tay yêu thương của Ngài. Như Đức Giêsu đã trỗi dậy từ ngôi mồ tăm tối, chúng ta tin rằng Thiên Chúa sớm đẩy lùi dịch bệnh. Sớm muộn thì dịch bệnh cũng qua đi, điều còn lại sẽ là rất nhiều thay đổi trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Có những thay đổi tích cực, nhưng cũng có những thay đổi tiêu cực. Dịch bệnh toàn cầu COVID-19 làm cho chúng ta nhận ra cuộc sống này rất mong manh nhưng thật là quý giá. Trong những ngày này, các thành viên trong gia đình liên kết gắn bó với nhau hơn. Người ta sống có trách nhiệm hơn đối với môi trường và công ích. Giữa những khó khăn đại nạn, có nhiều nghĩa cử nhân ái, đậm tính nhân văn để giúp đỡ nhau, nhất là nâng đỡ những người sa vào cảnh khó khăn vật chất trong lúc dịch bệnh. “Trỗi dậy” trong ngày lễ Phục sinh, chính là thay đổi quan niệm khô khan và buồn tẻ về cuộc sống, để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, ban cho ta gia đình và những người bạn bè để chia sẻ yêu thương. “Trỗi dậy” cũng chính là những nỗ lực cố gắng để cùng với mọi người xây dựng một xã hội nhân ái, chứa chan tình Chúa và thấm đậm tình người.
Về mục lục
CHẠY ĐẾN MỘ – CHẠY TỪ MỘ
Jorathe Nắng Tím
Người ta chạy khi có chuyện khẩn cấp, hệ trọng, bất thường vừa xẩy ra, chứ không ai chạy khi không vội vã, chạy khi không có việc cần, chạy khi còn được là “tỷ phú thời gian”.
Tin Mừng Gioan của Chúa Nhật Phục Sinh chỉ vỏn vẹn chín câu, nhưng có đến ba lần động từ “chạy” được ba nhân vật trong trình thuật thực hiện:
“Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”.
“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống, và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,1-9).
Nhân vật Maria Mácđala là người đến mộ rất sớm. Bà là người được Đức Giêsu yêu thương đặc biệt, và bà cũng yêu mến Ngài “hơn các người khác”. Chẳng thế mà bà luôn có mặt với Đức Giêsu suốt đường khổ nạn, dưới chân Thánh Giá và khi tẩm liệm, mai táng, bên cạnh thân mẫu của Ngài. Ba Tin Mừng Mátthêu (Mt 27,56.61), Máccô (Mc 15,40.47), và Gioan đều ghi nhận sự hiện diện yêu thương của bà trong những giờ phút kinh hoàng, đau thương nhất của Đức Giêsu: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala” (Ga 19,25).
Tin Mừng cho thấy: bà là người đầu tiên ra viếng mộ, và là người đầu tiên thấy một trống. Tin Mừng Mátthêu còn kể chi tiết hơn: bà đã được gặp thiên sứ, và chính thiên sứ đã nói với bà đi gặp các môn đệ để nói cho các ông biết: “Người đã trỗi dậy từ cõi chết” (Mt 28,7). Tin Mừng Gioan còn qủa quyết: Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra gặp bà, khi bà “đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc” (Ga 20,11), và bà cứ tưởng Ngài là người làm vườn, cho đến khi Ngài gọi tên bà, lúc đó bà mới nhận ra Ngài (x. Ga 20,11-18).
Sáng sớm hôm ấy bà đã lầm lũi, ngậm ngùi ra viếng mộ với cõi lòng tan nát, vì người bà yêu mến đã chết và yên nghỉ ngàn thu trong mộ. Bước chân đến mộ buồn thảm, nặng nề, lê thê lắm, chứ không hớn hở, phấn chấn như những ngày đón Thầy ghé nhà nghỉ ngơi trên đường truyền giáo.
Nhưng bất ngờ bà ra khỏi buồn thương, sầu thảm, khi ánh sáng Phục Sinh bừng cháy, đốt nóng trái tim, và thúc bách đôi chân bà, khiến bà hối hả chạy thật nhanh, nhanh bao nhiêu có thể để báo tin Thầy đã sống lại cho các môn đệ.
Qủa thực, Tin Vui Phục Sinh vĩ đại quá đã không cho phép bà chậm trễ dù một phút; Tin Mừng “Chúa đã sống lại thật như lời Người đã hứa” vỡ oà niềm hạnh phúc vô cùng lớn lao, mà không gì có thể ngăn cản, be bờ, đã khiến đôi chân thường ngày vốn bé bỏng, yếu đuối của bà bỗng mạnh mẽ, nhanh nhẹn, thoăn thoắt chạy đua với thời gian để Tin Mừng “Thầy đã sống lại !” được mau chóng đến với các môn đệ.
Bà vui như chưa từng vui, hạnh phúc như chưa bao giờ hạnh phúc, và Tin Vui Sống Lại như nhấc bổng bà lên cao, chắp cho bà đôi cánh, để bà bay đi rất xa, đi thật xa với Tin Vui “Chúa sống lại”, vì qủa thực, từ nay bà không còn muốn tìm kiếm gì khác, bởi niềm vui, hạnh phúc, phần thưởng lớn nhất của một đời làm người hôm nay bà đã chiếm trọn, khi mừng rỡ kể lại cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa !” (Ga 20,18).
Bên cạnh Maria Mácđala, người đàn bà đã chạy rất nhanh loan báo Tin Vui Phục Sinh cho các môn đệ, là hai ông Phêrô và Gioan. Cả hai cùng chạy ra mộ, vì nhận Tin Mừng Phục Sinh từ người đàn bà mà Đức Giêsu yêu thương đã từ mộ chạy về báo. Cả hai cúi đầu chạy “bán sống bán chết”, vì niềm vui sắp được gặp Thầy sống lại từ cõi chết trong tim chất ngất, vỡ oà.
Chính khao khát được gặp Thầy đã thúc bách các ông hối hả, vội vã chạy thật nhanh đến mộ. Vì thế mới có chuyện ông Gioan chạy nhanh hơn, đã đến mộ trước và bỏ ông Phêrô ở lại phiá sau.
Chính tình yêu hai ông dành cho Đức Giêsu đã làm cho đôi chân các ông trở nên săn chắc, bạo dạn, vững mạnh, qủa quyết phóng nhanh trên đường ra mộ với duy nhất một niềm vui đến từ hy vọng được gặp Thầy. Và niềm hy vọng đã thành sự thật, khi hai ông đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng của người chết sống lại khi “những băng vải để ở đó, khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,6-7); khi hai ông hiểu vì nhớ lại lời Đức Giêsu cũng như Kinh Thánh đã nói: “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9), và niềm vui Phục Sinh tràn ngập tâm hồn khi hai ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Vâng, cả ba nhân vật trong trình thuật buổi sáng Phục Sinh đều chạy: Maria Mácđala đã chạy từ mộ, hai môn đệ Phêrô và Gioan đã chạy đến mộ, nhưng cả ba đều chạy do một động lực chung là đức tin, một niềm vui chung là Tin Mừng Sống Lại, một Tình Yêu chung là Đức Giêsu Phục Sinh.
Thực vậy, đức tin luôn là động lực thúc bách, vì đức tin bao hàm tình yêu mãnh liệt dành cho một đối tượng là Đức Giêsu, và Phục Sinh luôn là tin vui vĩ đại, tin mừng vô cùng lớn lao, không gì có thể so sánh, vì đã chết mà nay sống, đã tiêu tan mà nay hiện hữu, đã không còn gì mà nay có tất cả, đã chết trên thập giá và chôn trong mồ mà nay sống lại vinh quang, khải hoàn.
Nhận được Tin Vui Phục Sinh, những con người hạnh phúc như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan mỗi người đã chạy theo kiểu của mình, chạy theo hướng riêng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để loan báo “Đức Giêsu đã chết và nay đã sống lại”: Maria Mácđala chạy báo tin vui “Thầy đã sống lại” cho các môn đệ; Phêrô chạy đi loan báo Đức Giêsu, “Đấng mà nhờ danh Người mà mọi người nhận được ơn tha tội” (Cv 10,43) tại nhà ông Conêliô, người Rôma, sĩ quan đại đội trưởng thuộc cơ đội Italia ở Xêdarê (x. Cv 10,1); còn Gioan, những bước chân chan chứa niềm vui Phục Sinh đã dẫn ông vào con đường nội tâm của đức tin, để tìm kiếm “những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…, chứ không còn chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).
Nhận Tin Vui Phục Sinh, các vị không còn đi trên những con đường cũ, nhưng đi trên con đường mới đang mở ra, trên đó mỗi người loan báo “Đức Giêsu sống lại” theo kiểu của mình, bằng kinh nghiệm bản thân, nhờ cảm nghiệm thiêng liêng cá nhân với Đức Giêsu phục sinh.
Con đường Phục Sinh mới này rực rỡ hy vọng và vượt qua những mặc cảm tội lỗi đã chối Thầy, mặc cảm đã hèn nhát bỏ Thầy ở giờ phút đau thương, mặc cảm đã không tin Thầy sẽ sống lại… để lên đường đến muôn dân với Đức Giêsu phục sinh và Bình An của Ngài.
Nhận Tin Vui Phục Sinh, chúng ta cũng như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan được mời gọi chạy nhanh trên đường đức tin, tình yêu và hy vọng vào Đấng đã sống lại từ cõi chết và hẹn gặp các môn đệ Ngài ở Galilê, để từ đó Tin Mừng Phục Sinh được lan toả đến các dân tộc và hết mọi thời, bởi niềm vui Phục Sinh chỉ tiếp tục tồn tại và lớn lên, sinh sôi ơn cứu rỗi cho mọi người, khi chúng ta hối hả “chạy nhanh” đến tận cùng thế giới “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới đi Chúa đến”, như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan đã hối hả, vội vã chạy để báo tin Chúa đã chết và đã sống lại như lời Ngài đã hứa. Alléluia!
Mỗi người trong chúng ta là giáo dân và giáo sĩ đều được mời gọi sống Tin Mừng Phục Sinh ngang qua các biến cố trong cuộc đời của từng người bằng việc xác tín và gắn bó với Đấng Phục Sinh. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng Phục Sinh mới sống động và hữu hiệu qua chính sứ vụ của mỗi người. Chỉ khi chúng ta sống được như thế, thì niềm vui Phục Sinh mới được vỡ òa trong con đường đức tin. Chỉ khi chúng ta sống niềm vui Phục Sinh thì Tin Mừng Phục Sinh mới có thể đến với mọi người, mọi nơi trong thế giới này.
Ước gì lời tuyên xưng của người tín hữu trong Thánh lễ mỗi ngày: “chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến” trở nên nhân chứng cho Đấng Phục Sinh. Alleluia! Alleuia!
Về mục lục
HÃY TRỖI DẬY
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thánh sử Luca kể lại: sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, những người phụ nữ đạo đức ra nơi phần mộ đã an táng Chúa Giêsu. Họ muốn thực hiện những nghi thức tẩm liệm theo phong tục của người Do Thái, vì buổi chiều thứ Sáu, việc tháo đanh và táng xác được thực hiện quá vội vàng, nên họ chưa làm được. Khi thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ, họ đã bước vào và không thấy xác Chúa Giêsu, nhưng lại thấy hai người đàn ông mặc y phục sáng chói. Hai người này nói: Sao các bà lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi…” (x. Luc 24,1-7).
“Trỗi dậy!” là động từ được dùng để diễn tả việc Chúa Giêsu phục sinh. Động từ này vừa có nghĩa “thức dậy”, vừa có nghĩa “vùng lên”. Một người đang nằm, trỗi dậy, tức là người đó tự mình ngồi dậy hay đứng lên mà không cần nhờ đến sự can thiệp hay giúp đỡ của người khác. Chúa Giêsu phục sinh là tự Người trỗi dậy từ trạng thái của một người đã chết. Chúng ta cũng có thể nói như thánh Phêrô trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ tuần: Thiên Chúa đã làm cho Người ((Đức Giêsu) sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi (x. Cv 2,24). Chúa Giêsu vừa “được” Thiên Chúa làm cho sống lại, vừa tự “trỗi dậy” từ nấm mồ tối tăm để phục sinh vinh quang, vì Người là chủ của sự sống. Chính Người đã tuyên bố: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18).
Chúa Giêsu trỗi dậy từ nấm mồ. Đây là khởi điểm của một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Có tác giả so sánh Chúa Giêsu an nghỉ trong mộ, giống như Ađam ngủ say ở khởi đầu lịch sử. Trong lúc Ađam ngủ, Thiên Chúa đã rút chiếc xương sườn của ông để làm nên người phụ nữ. Chính trong giấc ngủ của Chúa Giêsu mà Giáo Hội của Người được sinh ra và khởi đầu. Khi Ađam tỉnh giấc, ông nhìn thấy bà Evà và tuyên bố: đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Điều đó nói lên sự bình đẳng, ngang hàng và gắn bó. Khi Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, Người kéo cả nhân loại, từ Ađam, từ âm ty (còn gọi là ngục tổ tông hay nơi ở của những người đã chết, theo quan niệm của người Do Thái) cùng trỗi dậy với Người. Vết thương tự cạnh sườn Chúa đã chữa lành vết thương ở cạnh sườn của Ađam. Cái chết của Chúa trên thập giá đã tiêu diệt sự chết nơi toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu là Ađam mới. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Ađam mới, hay Ađam sau cùng như lối nói của một số nhà thần học, lại là nguồn mạch của sự sống.
Khi trỗi dậy khỏi nấm mồ tăm tối, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng cho nhân loại. Quả vậy, qua sự phục sinh sáng láng của Người, chúng ta nhìn thấy tương lai của chính mình. Tương lai đó là sự phục sinh thân xác vào ngày tận cùng của thời gian. Tương lai đó cũng là sự sống vĩnh cửu Chúa dành cho những ai tin cậy, phó thác và yêu mến Người. Cuộc phục sinh của Chúa cũng nói với chúng ta về phẩm giá của con người. Bởi lẽ con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Cuộc sống này không thể chỉ kết thúc ở nấm mộ. Một số người Do Thái đã giết hại Chúa vì họ cho rằng Chúa là một người phản loạn. Giết được Chúa Giêsu, các kỳ lão và biệt phái vui mừng vì diệt được một đối thủ. Tuy vậy, Chúa Giêsu không ngủ yên trong nấm mộ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc những bất công và mưu mô, dù mạnh mẽ đến mấy, cũng không thể trường tồn trên thế gian. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết. Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Chân lý đã chiến thắng dối gian. Chúa Giêsu phục sinh khẳng định với thế giới rằng, những mưu mô nhằm vu oan và làm hại người khác xem ra có đem lại thành công trước mắt, nhưng không đứng vững lâu dài. Những gì dối trá tất yếu sẽ bị vạch mặt và mưu mô gian ác phải cáo chung.
Người Kitô hữu tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và phục sinh. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến ý nghĩa đời sống của người tín hữu, đó là chết với Chúa Giêsu để được sống lại với Người. Trong các tác phẩm của mình, Thánh Phaolô không nhắc lại một phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông luôn nhấn mạnh tới biến cố Phục sinh. Dưới cái nhìn của một người được đào tạo bài bản trong truyền thống biệt phái, ông nhận ra hình ảnh của chiên vượt qua, xuyên qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu là Chiên Vượt Qua mới. Từ nay, chiên vượt qua mà người Do Thái giết trong Đền thờ chiều ngày thứ Sáu, trước ngày Sa-bát, không còn ý nghĩa gì nữa, hoặc nếu còn thì chỉ là biểu tượng ôn lại quá khứ. Chính Chúa Giêsu là Chiên Vượt qua đích thực đã chịu sát tế. Máu người đổ ra, không chỉ giúp cho người Do Thái thoát chết khi Sứ thần đi ngang qua trong đêm Thiên Chúa giải phóng người Do Thái khỏi Ai Cập, nhưng máu Chiên Vượt Qua mới sẽ thanh tẩy toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ hay bất cứ dị biệt nào.
“Hãy trỗi dậy những ai ngủ mê!”. Người Kitô hữu được mời gọi chuẩn bị tâm hồn từ đầu Mùa Chay để cử hành lễ Phục sinh. Như thế, Phục sinh không phải một ngày hội, cũng không phải một nghi thức tưởng niệm một biến cố đã lùi vào dĩ vãng xa xưa. Phục sinh là một tiến trình cải hóa bản thân, canh tân cuộc đời. Kết thúc chuỗi dài của những ngày sám hối, khổ chế, canh tân là được sống lại với Đức Giêsu trong một cuộc sống mới, chan hòa yêu thương thay chỗ cho giận ghét hận thù, đầy ắp hy vọng thay vì ảm đạm chán chường, gắn kết liên đới thay vì ích kỷ tầm thường. Người tín hữu, khi mừng lễ Phục sinh cũng được mời gọi trỗi dậy với Chúa Giêsu. Như trên đã nói, Chúa Giêsu vừa được Thiên Chúa cho sống lại, vừa tự Người trỗi dậy từ nấm mồ. Trong tiến trình nên hoàn thiện, người tín hữu luôn cậy trông vào sự nâng đỡ của Chúa, nhưng đồng thời họ cũng cộng tác phần mình bằng thiện chí cố gắng nỗ lực. Bởi lẽ, “khi Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Người không cần đến chúng ta. Nhưng khi Thiên Chúa muốn cứu chuộc chúng ta, Người lại cần đến sự cộng tác của chúng ta” (Thánh Augustinô). Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa bất lực, nhưng muốn nói lên sự tự do cộng tác của con người trong tiến trình hoàn thiện. Tình yêu không phải là điều bắt buộc, cưỡng ép, nhưng là tự nguyện chấp nhận với trái tim rộng mở chân thành. Tình yêu chỉ đạt tới viên mãn, khi có thiện chí từ hai phía, nếu không, mãi mãi chỉ là tình yêu đơn phương.
Năm nay, chúng ta mừng lễ Phục sinh trong một bối cảnh rất đặc biệt chưa có tiền lệ, do đại dịch viêm phổi Vũ Hán (COVID-19). Tính đến hôm nay (11-4-2020), trên thế giới đã có khoảng 1,6 triệu người dương tính với virus Corona. Số người chết đã lên tới trên 100 ngàn người. Trên toàn thế giới, lễ nghi Tuần thánh và Phục sinh được cử hành cách đơn giản. Các tín hữu dự lễ qua trực tuyến. Tuy vậy, nếu không có những cuộc rước ồn ào, thì mỗi chúng ta lại có thể lắng đọng tâm hồn trong tĩnh lặng để suy tư và lắng nghe tiếng Chúa rõ hơn. Là những người tin vào quyền năng Thiên Chúa, chúng ta phó thác nhân loại trong cánh tay yêu thương của Ngài. Như Đức Giêsu đã trỗi dậy từ ngôi mồ tăm tối, chúng ta tin rằng Thiên Chúa sớm đẩy lùi dịch bệnh. Sớm muộn thì dịch bệnh cũng qua đi, điều còn lại sẽ là rất nhiều thay đổi trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Có những thay đổi tích cực, nhưng cũng có những thay đổi tiêu cực. Dịch bệnh toàn cầu COVID-19 làm cho chúng ta nhận ra cuộc sống này rất mong manh nhưng thật là quý giá. Trong những ngày này, các thành viên trong gia đình liên kết gắn bó với nhau hơn. Người ta sống có trách nhiệm hơn đối với môi trường và công ích. Giữa những khó khăn đại nạn, có nhiều nghĩa cử nhân ái, đậm tính nhân văn để giúp đỡ nhau, nhất là nâng đỡ những người sa vào cảnh khó khăn vật chất trong lúc dịch bệnh. “Trỗi dậy” trong ngày lễ Phục sinh, chính là thay đổi quan niệm khô khan và buồn tẻ về cuộc sống, để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, ban cho ta gia đình và những người bạn bè để chia sẻ yêu thương. “Trỗi dậy” cũng chính là những nỗ lực cố gắng để cùng với mọi người xây dựng một xã hội nhân ái, chứa chan tình Chúa và thấm đậm tình người.
Về mục lục
CHẠY ĐẾN MỘ – CHẠY TỪ MỘ
Jorathe Nắng Tím
Người ta chạy khi có chuyện khẩn cấp, hệ trọng, bất thường vừa xẩy ra, chứ không ai chạy khi không vội vã, chạy khi không có việc cần, chạy khi còn được là “tỷ phú thời gian”.
Tin Mừng Gioan của Chúa Nhật Phục Sinh chỉ vỏn vẹn chín câu, nhưng có đến ba lần động từ “chạy” được ba nhân vật trong trình thuật thực hiện:
“Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”.
“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống, và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,1-9).
Nhân vật Maria Mácđala là người đến mộ rất sớm. Bà là người được Đức Giêsu yêu thương đặc biệt, và bà cũng yêu mến Ngài “hơn các người khác”. Chẳng thế mà bà luôn có mặt với Đức Giêsu suốt đường khổ nạn, dưới chân Thánh Giá và khi tẩm liệm, mai táng, bên cạnh thân mẫu của Ngài. Ba Tin Mừng Mátthêu (Mt 27,56.61), Máccô (Mc 15,40.47), và Gioan đều ghi nhận sự hiện diện yêu thương của bà trong những giờ phút kinh hoàng, đau thương nhất của Đức Giêsu: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala” (Ga 19,25).
Tin Mừng cho thấy: bà là người đầu tiên ra viếng mộ, và là người đầu tiên thấy một trống. Tin Mừng Mátthêu còn kể chi tiết hơn: bà đã được gặp thiên sứ, và chính thiên sứ đã nói với bà đi gặp các môn đệ để nói cho các ông biết: “Người đã trỗi dậy từ cõi chết” (Mt 28,7). Tin Mừng Gioan còn qủa quyết: Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra gặp bà, khi bà “đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc” (Ga 20,11), và bà cứ tưởng Ngài là người làm vườn, cho đến khi Ngài gọi tên bà, lúc đó bà mới nhận ra Ngài (x. Ga 20,11-18).
Sáng sớm hôm ấy bà đã lầm lũi, ngậm ngùi ra viếng mộ với cõi lòng tan nát, vì người bà yêu mến đã chết và yên nghỉ ngàn thu trong mộ. Bước chân đến mộ buồn thảm, nặng nề, lê thê lắm, chứ không hớn hở, phấn chấn như những ngày đón Thầy ghé nhà nghỉ ngơi trên đường truyền giáo.
Nhưng bất ngờ bà ra khỏi buồn thương, sầu thảm, khi ánh sáng Phục Sinh bừng cháy, đốt nóng trái tim, và thúc bách đôi chân bà, khiến bà hối hả chạy thật nhanh, nhanh bao nhiêu có thể để báo tin Thầy đã sống lại cho các môn đệ.
Qủa thực, Tin Vui Phục Sinh vĩ đại quá đã không cho phép bà chậm trễ dù một phút; Tin Mừng “Chúa đã sống lại thật như lời Người đã hứa” vỡ oà niềm hạnh phúc vô cùng lớn lao, mà không gì có thể ngăn cản, be bờ, đã khiến đôi chân thường ngày vốn bé bỏng, yếu đuối của bà bỗng mạnh mẽ, nhanh nhẹn, thoăn thoắt chạy đua với thời gian để Tin Mừng “Thầy đã sống lại !” được mau chóng đến với các môn đệ.
Bà vui như chưa từng vui, hạnh phúc như chưa bao giờ hạnh phúc, và Tin Vui Sống Lại như nhấc bổng bà lên cao, chắp cho bà đôi cánh, để bà bay đi rất xa, đi thật xa với Tin Vui “Chúa sống lại”, vì qủa thực, từ nay bà không còn muốn tìm kiếm gì khác, bởi niềm vui, hạnh phúc, phần thưởng lớn nhất của một đời làm người hôm nay bà đã chiếm trọn, khi mừng rỡ kể lại cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa !” (Ga 20,18).
Bên cạnh Maria Mácđala, người đàn bà đã chạy rất nhanh loan báo Tin Vui Phục Sinh cho các môn đệ, là hai ông Phêrô và Gioan. Cả hai cùng chạy ra mộ, vì nhận Tin Mừng Phục Sinh từ người đàn bà mà Đức Giêsu yêu thương đã từ mộ chạy về báo. Cả hai cúi đầu chạy “bán sống bán chết”, vì niềm vui sắp được gặp Thầy sống lại từ cõi chết trong tim chất ngất, vỡ oà.
Chính khao khát được gặp Thầy đã thúc bách các ông hối hả, vội vã chạy thật nhanh đến mộ. Vì thế mới có chuyện ông Gioan chạy nhanh hơn, đã đến mộ trước và bỏ ông Phêrô ở lại phiá sau.
Chính tình yêu hai ông dành cho Đức Giêsu đã làm cho đôi chân các ông trở nên săn chắc, bạo dạn, vững mạnh, qủa quyết phóng nhanh trên đường ra mộ với duy nhất một niềm vui đến từ hy vọng được gặp Thầy. Và niềm hy vọng đã thành sự thật, khi hai ông đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng của người chết sống lại khi “những băng vải để ở đó, khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,6-7); khi hai ông hiểu vì nhớ lại lời Đức Giêsu cũng như Kinh Thánh đã nói: “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9), và niềm vui Phục Sinh tràn ngập tâm hồn khi hai ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Vâng, cả ba nhân vật trong trình thuật buổi sáng Phục Sinh đều chạy: Maria Mácđala đã chạy từ mộ, hai môn đệ Phêrô và Gioan đã chạy đến mộ, nhưng cả ba đều chạy do một động lực chung là đức tin, một niềm vui chung là Tin Mừng Sống Lại, một Tình Yêu chung là Đức Giêsu Phục Sinh.
Thực vậy, đức tin luôn là động lực thúc bách, vì đức tin bao hàm tình yêu mãnh liệt dành cho một đối tượng là Đức Giêsu, và Phục Sinh luôn là tin vui vĩ đại, tin mừng vô cùng lớn lao, không gì có thể so sánh, vì đã chết mà nay sống, đã tiêu tan mà nay hiện hữu, đã không còn gì mà nay có tất cả, đã chết trên thập giá và chôn trong mồ mà nay sống lại vinh quang, khải hoàn.
Nhận được Tin Vui Phục Sinh, những con người hạnh phúc như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan mỗi người đã chạy theo kiểu của mình, chạy theo hướng riêng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để loan báo “Đức Giêsu đã chết và nay đã sống lại”: Maria Mácđala chạy báo tin vui “Thầy đã sống lại” cho các môn đệ; Phêrô chạy đi loan báo Đức Giêsu, “Đấng mà nhờ danh Người mà mọi người nhận được ơn tha tội” (Cv 10,43) tại nhà ông Conêliô, người Rôma, sĩ quan đại đội trưởng thuộc cơ đội Italia ở Xêdarê (x. Cv 10,1); còn Gioan, những bước chân chan chứa niềm vui Phục Sinh đã dẫn ông vào con đường nội tâm của đức tin, để tìm kiếm “những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…, chứ không còn chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).
Nhận Tin Vui Phục Sinh, các vị không còn đi trên những con đường cũ, nhưng đi trên con đường mới đang mở ra, trên đó mỗi người loan báo “Đức Giêsu sống lại” theo kiểu của mình, bằng kinh nghiệm bản thân, nhờ cảm nghiệm thiêng liêng cá nhân với Đức Giêsu phục sinh.
Con đường Phục Sinh mới này rực rỡ hy vọng và vượt qua những mặc cảm tội lỗi đã chối Thầy, mặc cảm đã hèn nhát bỏ Thầy ở giờ phút đau thương, mặc cảm đã không tin Thầy sẽ sống lại… để lên đường đến muôn dân với Đức Giêsu phục sinh và Bình An của Ngài.
Nhận Tin Vui Phục Sinh, chúng ta cũng như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan được mời gọi chạy nhanh trên đường đức tin, tình yêu và hy vọng vào Đấng đã sống lại từ cõi chết và hẹn gặp các môn đệ Ngài ở Galilê, để từ đó Tin Mừng Phục Sinh được lan toả đến các dân tộc và hết mọi thời, bởi niềm vui Phục Sinh chỉ tiếp tục tồn tại và lớn lên, sinh sôi ơn cứu rỗi cho mọi người, khi chúng ta hối hả “chạy nhanh” đến tận cùng thế giới “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới đi Chúa đến”, như Maria Mácđala, Phêrô và Gioan đã hối hả, vội vã chạy để báo tin Chúa đã chết và đã sống lại như lời Ngài đã hứa. Alléluia!
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam