Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1359464

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

 

Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.

“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).

Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều… chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.

Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.

Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.

Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.

“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.

Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.

“Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình.

“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.

“Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.

“Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34…). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.

“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.

“Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ… Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.

 CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- B

NGÔI ĐỀN VÀNG CỦA ĐẤNG TỐI CAO- LmGiuse Phạm Thanh Liêm

Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.

  1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự

Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.

Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.

Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.

  1. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa

Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.

Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.

Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.

  1. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa

Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.

Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên.

Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt

  • tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse);
  • ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình;
  • niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.

Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.

Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy?
  2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể?
  3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì?
  4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?

home Mục lục Lưu trữ