Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1364254

TỪ BỎ ĐỂ LÀ MÔN ĐỆ CỦA CHÚA

Từ bỏ để là môn đệ của Chúa

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Điều răn thứ 4 trong 10 Điều răn Đức Chúa Trời dạy ta phải: “Thảo kính cha mẹ”, vì cha mẹ là đấng sinh thành và cho chúng ta vào đời làm người. Hơn thế nữa, Sách Lêvi nói cha mẹ có uy lực đặc biệt giống như uy quyền của Thiên Chúa để dạy Đạo và luân thường đạo lý cho con cái để thành nhân và thành thánh nên “Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Lv 20,9). Vâng, người Việt nam chúng ta cũng rất coi trọng việc hiếu thảo với cha mẹ, vì “công cha nghĩa mẹ cao vời, làm con thảo kính trọn đời chớ quên”. Ấy vậy, hôm nay Chúa Giêsu bảo: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ (Tin Mừng Mác-cô nói là ghét bỏ) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. Mới nghe qua, ai trong chúng ta nhủ thầm rằng Lời Chúa hôm nay sao khó nghe quá, nghịch lý quá!

Trong tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn, kém, nhiều hơn, ít hơn… cho nên Chúa Giêsu dùng cụm từ dứt bỏ hay ghét bỏ, hàm ý là yêu hơn, tức là “Ai đến với Ta mà không yêu Ta hơn cha mẹ….”. Thử hỏi, Chúa Giêsu là ai, nhân danh cái gì, quyền lực nào mà bắt tôi phải yêu Người hơn cha mẹ. Chúa Giêsu dựa vào đâu mà dám mời gọi chúng ta quyết liệt như thế? Xin thưa, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Ngài dựa vào sức mạnh của chân lý, đó là Thiên Chúa cội nguồn mọi tạo dựng, Đấng thương xót mọi người nên ban phát mọi ơn lành, cứu chuộc và thánh hóa và làm cho con người sống viên mãn trong tình yêu thương của Chúa Ba Ngôi. Cho nên, Chúa Giêsu xác quyết “Ai đến với Tôi mà không yêu mến Tôi hơn cha mẹ….”. Vì sao? Vì “Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự để cứu chuộc mọi người” (Pl 2,6-8).

Rõ ràng, vì yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người và ban sự sống cho con người, còn Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn, vác thập giá và chịu chết để cho con người được nên thánh thiện và được sống dồi dào đời này và sống lại trong ngày sau hết. Còn cha mẹ chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh ra hình hài của ta và dưỡng dục ta nên người. Thiên Chúa mới chính là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch mọi ơn lành, là Đường, là Sự thật và là Sự sống cho chúng ta nên chúng ta phải yêu Chúa hơn cha mẹ là vậy, cho nên Chúa Giêsu nói: “Không có Thầy chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Vì vậy, Đức Cha Fulton Sheen nói rằng trong lịch sử thế giới nhiều vị sáng lập các Tôn giáo dạy điều hay lẽ phải, sự thật nhưng không có vị trong tôn giáo nào tự xưng mình là Đường, Sự thật, và Sự sống như Chúa Giêsu. Các ngài dạy chân lý, chứ không là chân lý, còn Chúa Giêsu là chân lý, là Thiên Chúa thực, yêu thương con người một cách chân thực nhất, cụ thể nhất. Đây là nét độc đáo và là niềm tin quyết liệt của Đạo Công giáo vì vậy Chúa Giêsu là trung tâm của niềm tin, lẽ sống của chúng ta.

Thiên Chúa là cội nguồn của tình yêu, vì vậy chúng ta là con cái của Chúa đương nhiên phải đặt tình yêu của Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu. Nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái bạn bè, tha nhân và ngay cả chính mình. Cho nên, là môn đệ của Người, chúng ta vẫn phải yêu mến người thân, mọi người hay ngay chính bản thân mình và cũng phải quí trọng của cải mình có vì tất cả ơn lành Chúa ban, nhưng tiên vàn phải yêu mến Chúa hết linh hồn, trí khôn, tức yêu mến và thờ phượng Chúa trong mọi sự. Chính vì thế, phải từ bỏ tất cả, là từ bỏ cái tôi tham sân si, cái tôi tội lỗi với chính mình và những người thân trong gia đình, hàng xóm… để không những đi theo Chúa, là môn đệ CHÚA và người Công giáo đích thực qua việc đồng hành, sẻ chia, yêu thương, tha thứ, phục vụ và hy sinh cho người mình yêu như Chúa.

Khách quan mà nói, lời mời gọi từ bỏ, yêu Chúa hơn mọi sự thật là ngược đời, khó chấp nhận và làm cho một số người khó chịu, không muốn theo dù biết Lời mời gọi của Chúa là đem lại sự an lành thánh thiện. Ngược lại, ở đời có những lời mời gọi dù biết nó sẽ dẫn tới chỗ tội lỗi, bệnh tật và bất an, và chết thảm nhưng con người vẫn theo. Lời tuyên bố ngược đời của Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi cuốn bao người từ xưa tới nay dấn thân sống cho lời mời gọi đó và đem lại hoa thơm trái tốt cho chính mình, gia đình, cho đời và cho Đạo Công giáo nữa: Cha Kolbe chọn chết thay cho bạn tù trong trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta…

Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu, đó mới là yêu Chúa hơn mọi sự và mọi người.

Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu: Yêu là trung thành, yêu là cho đi từ từ và mãi, cho đi cả mạng sống vì Chúa và tha nhân. Ước gì qua lời mời gọi của Chúa hôm nay, xin cho chúng ta sẵn sàng đáp trả lời gọi của Chúa bằng tình yêu dành cho Chúa hơn mọi sự cụ thể trong đời sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và xứng đáng là môn đệ đích thực của Chúa.

 

8.     Độc thân

Phát biểu trong Thượng hội đồng Giám mục thế giới, nhóm họp tại Rôma vào tháng 10.1990, Đức Cha Nguyễn Văn Hoà, Giám mục Nha Trang đã đề cao chứng tá của đời độc thân linh mục. Ngài cho biết: Sở dĩ các linh mục ở Việt Nam được kính trọng là nhờ ở đời sống độc thân. Đồng thời cũng nhờ đời sống độc thân mà các linh mục xứng đáng được gọi là thầy. Như chúng ta đã biết linh mục là Alter Xtus, là Đức Kitô thứ hai. Nếu Đức Kitô đã được gọi là Thầy nhờ vào sự tận hiến của Người, thì các linh mục cũng thế, muốn được gọi là thầy, thì cũng phải sống tâm tình hiến dâng.

Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã nhiều lần xác quyết: Ai không từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Là môn đệ của Chúa, chúng ta phải trở nên giống Người, có nghĩa là chúng ta cũng phải dâng hiến, và sự dâng hiến trọn vẹn nhất cho Chúa, chính là cuộc sống độc thân của các linh mục và tu sĩ.

Trên bình diện Giáo Hội, sự độc thân của các linh mục tu sĩ chính là một kho tàng Thiên Chúa đã trao tặng cho Giáo Hội, bởi vì nhờ đó các ngài không còn bị ràng buộc bởi hôn nhân, bởi gia đình, bởi tài sản và những tiện nghi vật chất khác nữa.

Nhìn vào xã hội Việt Nam, chúng ta thấy có những thuận tiện cho việc độc thân của linh mục và tu sĩ, bởi vì các tín hữu luôn quý mến và nâng đỡ các ngài, chính những tình cảm nồng hậu ấy trở nên như một hàng rào bảo vệ cho sự độc thân của các ngài. Đó không phải chỉ là một ơn riêng cho bản thân linh mục mà còn là một quà tặng chung cho Giáo Hội, bởi vì các ngài trở nên như những chứng tá cho Giáo Hội, đồng thời qua sự độc thân ấy, các ngài như muốn mời gọi tất cả chúng ta: Hãy sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, đó cũng là một ơn gọi chung cho mọi người tín hữu.

Thực vậy, sự nên thánh không bao giờ có một biên giới bởi vì mọi người đều được mời gọi để nên thánh. Các linh mục và tu sĩ thì nên thánh qua bậc độc thân của mình, còn người giáo dân thì nên thánh qua bậc gia đình và môi trường sống của mình. Chính vì thế sống bậc gia đình không phải là một cái gì thấp kém nhưng cũng là một ơn gọi. Nếu chúng ta trung thành trong đời sống vợ chồng, nếu chúng ta chu toàn được những bổn phận của mình trong phạm vi gia đình, chúng ta cũng có thể nên thánh.

Chúa Giêsu không đến để hạ giá đời sống gia đình, nhưng trái lại Người đã nâng nó lên hàng bí tích và lấy nó làm hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Người và Giáo Hội. Nếu như linh mục phải đi cho đến tận cùng lời cam kết độc thân của mình, thì chúng ta, những người giáo dân, chúng ta cũng phải đi cho đến tận cùng lời cam kết hôn nhân của mình.

Bởi đó chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục cũng như cho mỗi người chúng ta biết sống trọn vẹn cho Chúa trong bậc sống của mình ở mọi nơi và trong mọi lúc.

 

9.     Đòi hỏi của tình yêu – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

***

Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).

Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.

Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.

Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

***

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.

Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.

 

10. Như người tôi tớ.

Theo sự tính toán của người đời, thì mỗi khi chúng ta theo đuổi một con người, một công việc hay một chế độ nào, thì chúng ta phải thu lại được những lợi lộc vật chất hay những địa vị danh giá. Đó là điều hết sức bình thường và hợp lý. Chính mười hai môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu cũng đã có một tâm trạng như vậy.

Chẳng thế mà có lần các ông đã không biết sượng sùng khi đặt thẳng câu hỏi này với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con đã bỏ hết mọi sự để theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được lại những chi?”. Các ông cũng đã từng tranh cãi xem ai trong các ông là người quan trọng nhất trong cái triều đình của Chúa. Các ông cũng đã từng bực dọc ghen tức khi thấy mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin Chúa dành cho hai con mình những chỗ ngon nhất, đó là được ngồi bên tả và bên hữu Chúa.

Đứng trước quan niệm thông thường ấy của các môn đệ, của những người theo Chúa, Ngài đã có một lập trường khác hẳn, vừa khó nghe lại vừa khó hiểu. Ngài nói: Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ giữ lấy được. Lần khác Chúa cũng nói: Ai là người nhỏ nhất trong anh em thì kẻ ấy sẽ là người lớn nhất. Và Ngài cũng đã khuyên nhủ các môn đệ: Vương giả trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con thì đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong các con thì phải trở nên người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu thì phải hầu hạ mọi người. Thầy sống giữa các con như một kẻ tôi tớ.

Những lời mời gọi chói tai này đã làm cho không ít người phải khó chịu, nhưng đồng thời cũng những lời tuyên bố ngược đời này vẫn không ngừng lôi cuốn biêt bao người dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, không biết đâu là giới hạn. Nếu Đức Kitô chỉ là một con người bình thường, hoặc giả là một bậc vĩ nhân đi nữa, mà nếu Ngài chỉ nói suông như thế thì cũng chẳng mấy ai tin. Nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa và lời Ngài có được cái giá trị siêu việt. Hơn nữa, chính Ngài đã lấy cả cuộc sống và cái chết để minh chứng lời Ngài là sự thật. Còn chúng ta thì sao? Trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta có dám sống tinh thần từ bỏ và chấp nhận mọi hy sinh để bước theo Chúa hay không?

 

11. Thập giá đời thường.

Khi ngắm đàng thánh giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:

– Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.

Và hôm nay, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:

– Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.

Điều Chúa muốn là mỗi người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.

Nói thế chúng ta cứ tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc, vô vị và đơn điệu lắm.

Dầu muốn dầu không, một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả hơn.

Người ta hỏi một anh đạp xích lô như thế này:

– Anh đạp xích lô để làm gì?

– Tôi đạp xích lô để kiếm tiền.

– Vậy anh kiếm tiền để làm gì?

– Tôi kiếm tiền để mua gạo ăn?

– Mua gạo ăn để làm gì?

Để đạp xích lô.

Và chúng ta gọi đó là một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.

Như vậy, chúng ta có thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc… đều là một thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.

Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang phục sinh muôn đời với Chúa.

 

12. Làm môn đệ của Chúa

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.

Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.

Làm môn đệ là từ bđến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.

Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.

Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Làm môn đệ là gì?
  2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
  3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?

 

13. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Ý thức cái giá phải trả khi làm môn đệ Chúa

“Từ bỏ mọi sự và vác thập giá theo Chúa”

(Lc 14, 25-33)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm: Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ.

Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ bỏ những gì?

Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.

  1. Gợi ý sám hối

Phải chăng từ trước tới nay chúng ta đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn nọ?

Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?

Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Kn 9, 13-18)

Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu biết của con người:

Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới, tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi.

Huống chi những vấn đề thuộc thượng giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời.

Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ.

  1. Đáp ca (Tv 89)

Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:

Thân phận con người rất mỏng manh: “như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn”

Do đó con người kêu xin Chúa: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”

  1. Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
  2. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
  3. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (“đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
  4. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
  5. Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)

Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon.

Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng tốt mà làm việc đó.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Con đường theo Chúa

Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:”Có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”. Trong ngôn ngữ Thánh kinh, “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.

Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì? Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về từng điều:

  1. Điều thứ nhất là từ bỏ

a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.

b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.

  1. Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác Thập giá

a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá? Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.

Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa:

Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.

Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi. Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.

* 2. Đòi hỏi của tình yêu (Lc 14,25-33)

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

***

Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).

Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.

Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.

Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

***

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.

Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Lời nói thẳng thắn

Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng, nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ nói với họ: “Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm việc suốt 24 giờ mỗi ngày”. Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.

Gia nhập “dòng” của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.

Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy sinh tất cả vì yêu thương mọi người.

Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.

Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ của Ngài nữa.

Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.

Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.

* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ

Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo: “Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi”… Rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ.

Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ

Cũng như người-nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa.

Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu.

Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.

Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.

Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội–và là khiếm khuyết lớn nhất – đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.

* 5. Trả giá

Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không dám trả giá.

Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.

Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.

Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.

Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.

Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.

Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:

– Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình hỏi.

– Tất cả chỉ tại bạn đó.

– Sao lại tại tôi?

Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:

– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.

Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.

Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá đâu đến nỗi cao quá như vậy!

  1. Chuyện minh họa

a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một thanh niên: “Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?” Vị giáo sư đáp: “Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không bao giờ anh ta là môn đệ của tôi”.

b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư: “Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học”. Thiền sư đáp “10 ngàn”. Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: “Trong số đó, số môn đệ thật của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người”.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn cầu.
  2. Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia / sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
  3. Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
  4. Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi / thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước theo Chúa mái đến cùng.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã viết “ý định của Chúa ai nào biết được”. Chúng ta hãy xin Chúa tỏ cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.

VII. Giải tán

Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Trong tuần này chúng ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.

 

14. Chúa Nhật 23 Thường Niên

(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm chúng ta đôi phen hụt hẩng, làm đảo lộn mọi kỳ vọng của con người, làm thay đổi những mối quan hệ giữa người với người, tương đối hóa quan niệm của con người về thế giới.

Kn 9: 13-18

Đoạn trích sách Khôn Ngoan gợi lên những giới hạn của những hiểu biết phàm nhân. Với trí tuệ phàm nhân, con người vô phương dò thấu những ý định của Thiên Chúa, nhưng nhờ ánh sáng Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người mà con người mới có thể đạt được một sự hiểu biết sung mãn.

Plm 9b-10, 12-17

Trong thư gởi cho ông Phi-lê-mon, thánh Phao-lô đưa ra một lời khuyên thật cảm động, được gởi đến cho ông Phi-lê-mon. Thánh nhân thỉnh cầu ông hãy đón nhận người nô lệ trốn chạy khỏi nhà ông và nay đã trở thành Ki-tô hữu, như một người con ruột thịt của thánh nhân và như người anh em rất thân mến trong Đức Ki-tô.

Lc 14: 25-33

Tin Mừng tường thuật cho chúng ta giáo huấn của Đức Giêsu về những yêu sách mà Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài: muốn theo Ngài phải dành quyền ưu tiên cho Ngài, thậm chí trên mọi mối dây ràng buộc trần thế, kể cả những người thân yêu trong gia đình đi nữa.

BÀI ĐỌC I (Kn 9: 13-18)

Chúng ta không biết tác giả sách Khôn Ngoan là ai. Tác phẩm này đã được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái đạo hạnh thành A-lê-xan-ri-a. Tác giả muốn cảnh giác đồng bào của mình trước những sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp. Ông đổ hết tâm trí để nhắc lại những giá trị khôn sánh của sự khôn ngoan Do-thái giáo, gia sản của cha ông họ.

  1. Phân đoạn:

Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai của sách Khôn Ngoan. Bằng hư cấu văn chương, tác giả để cho vua Sa-lô-môn, một vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất, ngỏ lời với độc giả. Chương 9 là lời cầu nguyện dài của vua, khai triển lời cầu nguyện mà sách Các Vua quyển thứ nhất đã trích dẫn một cách ngắn gọn (1V 3: 6-10), theo đó, vua Sa-lô-môn chỉ cầu xin Chúa ban cho mình được ơn khôn ngoan. Lời cầu nguyện của vua làm đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa chẳng những ban cho vua được ơn khôn ngoan mà còn được muôn vàn những ân phúc khác nữa.

Việc nêu lên lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon như vậy đã trở nên một đề tài kinh điển của các tác phẩm minh triết. Tác giả sách Khôn Ngoan đem lại cho lời cầu nguyện này những dấu ấn riêng nhằm đánh động những người đương thời của ông. Dưới những khía cạnh phi thời gian của sự khôn ngoan, sứ điệp trực tiếp nhắm đến một xã hội phàm trần vào thời đại của tác giả. Sứ điệp này vẫn giữ mãi giá trị trường tồn của nó.

  1. Thành phố A-lê-xan-ri-a vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên:

Hơn hai thế kỷ qua, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô trí tuệ của thế giới thời xưa. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Tô-lê-mê (323-285 trước Công Nguyên) đã cho xây cất một Bảo Tàng Viện danh tiếng, tại đó quy tụ các nhà thông thái và những nhà nghiên cứu các môn học thời danh; họ có sẵn một thư viện bao la cũng như phòng thí nghiệm. Những tiến bộ đáng chú ý trong mọi lãnh vực: toán học, thiên văn học, y học, nhất là giải phẩu học, vật lý, địa lý. Về triết học, thành A-lê-xan-ri-a tiếp nối sự nghiệp của thành A-thê-na. Những hệ thống triết học đặt cạnh nhau và giải thích cho nhau. Về tôn giáo, những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp khẳng định điều này. Tóm lại, một thời kỳ huy hoàng nhất đối với trí tuệ con người, con người có thể tự hào về những chinh phục của mình.

  1. Sự yếu đuối của lý trí phàm nhân:

Tác giả sách Khôn Ngoan phản ứng lại những quan điểm trên do từ quan niệm tôn giáo của ông về thế giới. Những hiểu biết phàm nhân, dù đáng chú ý đến mấy đi nữa, chẳng bao giờ hiểu được những ý định của Thiên Chúa:

“Lạy Chúa, nào ai biết được ý định của Thiên Chúa?

Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” (9: 13).

Câu hỏi này các văn sĩ Kinh Thánh thường đặt ra để nhắc nhớ tính siêu việt của Thiên Chúa, như Gióp: “Có phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa, và đã chiếm đoạt được khôn ngoan?” (G 15: 8) hay Giê-rê-mi-a: “Nhưng ai đã được họp bàn với Đức Chúa, để chứng kiến và nghe lời Người?” (Gr 23: 18) hoặc I-sai-a: “Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13). Tác giả sách Khôn Ngoan hỗ trợ đề tài này bằng một tư tưởng không kém phần chứng thực:

“Chúng con vốn là loài phải chết,

tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (9: 14).

Tiếp đó là một câu nhuốm màu sắc nhị nguyên của Platon: “Quả vậy, thân xác dể hư nát này khiến linh hồn ra nặng”, nhưng ngay tức khắc lại gắn bó với đề tài Kinh Thánh về con người: “cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.

Những suy tư tiếp theo sau có thể mang tính bút chiến; chúng xem ra làm giảm thiểu những nổ lực của các bậc thông thái trong việc giải thích những thực tại trần thế. Thêm nữa, những nổ lực này không thể nào dò thấu những thực tại thiên giới:

“Những gì thuộc hạ giới,

chúng con đã khó mà hình dung nổi,

những điều vừa tầm tay,

đã phải nhọc công mới khám phá được,

thì những gì thuộc thượng giới,

có ai dò thấu nổi hay chăng?” (9: 16).

  1. Lý trí phàm nhân được sự khôn ngoan Thiên Chúa soi sáng:

Những hiểu biết phàm nhân chỉ được sung mãn nhờ Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người:

“Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,

chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan,

chẳng gởi thần khí thánh?” (9: 17).

 Vì là một tín đồ Do thái giáo, trung thành với Độc Thần Giáo tuyệt đối: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và chân thật là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, khó mà gợi lên trong tâm trí của tác giả một sự biệt phân giữa Đức Chúa và thần khí thánh của Người; nhưng đúng hơn, tác giả đồng hóa Đức Khôn Ngoan của Đức Chúa với thần trí của Người. Tuy nhiên, thật chính đáng để đọc thấy ở đây một sự linh cảm nào đó về sự khác nhau ở lòng cuộc sống nội tại của Thiên Chúa.

“Chính vì thế mà đường lối người phàm

được sửa lại cho thẳng,

cũng vì thế mà con người được dạy cho biết

những điều đẹp lòng Ngài,

và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (9: 18).

Ở đây ám chỉ đến Lề Luật, được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, kim chỉ nam cho những đức hạnh phàm nhân, con đường cứu độ.

Đoạn trích hôm nay vừa kết thúc lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và cũng là để chuyển sang phần thứ ba của sách: suy tư về sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang hoạt động trong Lịch Sử.

BÀI ĐỌC II (Plm 9b-10, 12-17)

Thư gởi cho ông Phi-lê-mon, tuy ngắn nhất trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng rất độc đáo vì những tâm tình tinh tế được diễn tả ở đây và những tấm lòng được biến đổi dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo thật là cảm động mà bức thư này làm chứng.

  1. Lý do thánh nhân viết bức thư này:

Vào lúc đó, thánh Phao-lô đang bị giam cầm ở Rô-ma, chắc hẳn vào những năm 62-63. Thánh nhân đang đối mặt với một vấn đề không đơn giản một chút nào. Ông Phi-lê-mon là một Ki-tô hữu Cô-lô-xê; chắc chắn là một nhân vật khá giả, vì cộng đồng Ki-tô hữu tụ họp ở tại nhà ông. Ông có một người nô lệ tên là “Ô-nê-xi-mô”. Người nô lệ này đã trốn chạy khỏi nhà ông và lấy trộm của chủ một số đồ đạc, như thánh nhân đã viết trong thư: “Nếu anh ấy đã làm thiệt hại anh hay mắc nợ anh điều gì thì xin để tôi nhận cả”. Để tránh khỏi những cuộc truy tìm và những hình phạt mà anh có thể phải chịu, anh Ô-nê-xi-mô đã chạy đến được Rô-ma, vì anh hy vọng mình có thể dễ dàng lẫn trốn vào đám đông trong các đường phố tại kinh đô rộng lớn này.

Người nô lệ này biết rất rõ những người Ki-tô hữu vì anh đã thấy họ thường xuyên tụ họp tại nhà của chủ mình. Phải chăng đó là lý do thúc đẩy anh chạy đến Rô-ma để gặp thánh Phao-lô? Bức thư không nói cho chúng ta biết lý do. Dù sao thánh Phao-lô đã rửa tội cho anh và quý mến anh. Trong thời gian ở với thánh Phao-lô, anh Ô-nê-xi-mô đã trở nên một người hữu ích đến nỗi thánh nhân muốn giữ anh lại bên cạnh mình. Tuy nhiên, thánh nhân không thể, vì sợ vi phạm quyền lợi của ông Phi-lê-mon, chủ của anh. Vì thế, thánh nhân quyết định gởi anh Ô-nê-xi-mô trở về cho chủ của anh, ông Phi-lê-mon, kèm theo bức thư do tự tay thánh nhân viết.

Không ai biết rõ hơn thánh nhân rằng người nô lệ đào thoát này trở về nhà chủ có thể gặp phải những nguy hiểm như thế nào. Như chúng ta biết thân phận của người nô lệ vào thời đó, người nô lệ không được đối xử như một con người nhưng như một dụng cụ sống trong bàn tay của chủ, tùy ý chủ sử dụng. Trong trường hợp một nô lệ trốn chủ, anh sẽ bị đóng dấu bằng thỏi sắt nung đỏ mang hình chữ viết tắt Đào Tẩu và chịu hình phạt tùy theo ý chủ.

Với sự tế nhị, thánh nhân thỉnh cầu ông Phi-lê-mon hai cử chỉ khác thường: khoan hồng cho phạm nhân và nhận lại người này không phải trong tư thế của người nô lệ nhưng như người ruột thịt của thánh nhân và như một người anh em thân mến trong Đức Ki-tô.

Một sự gợi ý thật tinh tế, một lời mời gọi thật kín đáo, một lời thỉnh cầu mà không đòi buộc. Đoạn trích này thuộc phần trung tâm của bức thư.

  1. “Tôi, một người đã già và đang bị tù vì Đức Ki-tô”:

Thánh Phao-lô thử đặt tất cả danh dự của con người ngài vào lời thỉnh cầu của mình cho người nô lệ này: thánh nhân nhắc lại rằng ngài đã già (vào thời đó, 50-55 tuổi được xem là già) và đang bị cầm tù, và chính trong cảnh giam cầm này mà thánh nhân rửa tội cho anh: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích”.

  1. “Tôi xin gởi nó về cho anh”:

Thánh Phao-lô muốn mọi việc đều rõ ràng. Anh Ô-nê-xi-mô thuộc quyền của ông Phi-lê-mon. Thật ra thánh nhân biết rằng nếu ngài ngỏ lời với ông Phi-lê-mon, chắc chắn bạn của mình sẵn lòng để anh Ô-nê-xi-mô ở lại với thánh nhân để phục vụ thánh nhân trong cảnh xiềng xích. Như vậy, khi gởi anh Ô-ne-xi-mô trở về chủ của mình, thánh nhân xem trọng tính cách vô vị lợi của tình bạn.

  1. Như một người ruột thịt của thánh nhân:

Nhưng thánh nhân nhấn mạnh tình phụ tử tinh thần của ngài vì đã có một thay đổi sâu xa: anh Ô-nê-xi-mô đã trở thành Ki-tô hữu. Thánh nhân thương mến anh như đứa con ruột thịt mà thánh nhân đã mang nặng đẻ đau trong cảnh xiềng xích. Phải chăng thánh nhân muốn ông Phi-lê-mon cũng sẽ chia sẻ với thánh nhân những tâm tình như thế?

Thánh nhân khuyên ông Phi-lê-mon nên tha thứ cho anh Ô-nê-xi-mô, dù không nói trắng ra nhưng chỉ gợi ý: “Tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không tự nguyện”.

  1. Như một người anh em rất thân mến:

Thánh nhân nhắc cho ông Phi-lê-mon rằng việc anh Ô-nê-xi-mô trốn chủ phải được xem như một thiên ân: vì ông Phi-lê-mon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”. Với chỉ vài lời này thôi cũng đủ để diễn tả cuộc cách mạng mà Ki-tô giáo đem đến cho những mối quan hệ giữa người với người.

Quả thật, sau này thánh nhân đã viết: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, , nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3: 28; Cl 3: 14). Biểu thức này không muốn nói rằng từ nay không còn phân biệt chủng tộc, phái tính, chủ tớ, nhưng những phân biệt này chẳng còn có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Từ nay, sự biến đổi nội tâm mới là đáng kể, nó làm đảo lộn thậm chí những thân phận bên ngoài, đến độ ở nơi khác, thánh nhân mạnh dạn phát biểu: “Người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô” (1Cr 7: 22).

  1. Gấp bội mối liên hệ:

Ông Phi-lê-mon được lại anh Ô-nê-xi-mô như một người anh em “cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa”, nghĩa là cả trong sự phục vụ của anh cũng như trong những mối liên hệ của anh giữa người Ki-tô hữu với người Ki-tô hữu. Chắc hẳn thánh nhân muốn nói rằng việc ông Phi-lê-mon tha thứ sẽ thiết lập nên một mối liên hệ đặc biệt giữa chủ và nô lệ.

Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên tinh tế sau cùng: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Ông Phi-lê-mon và thánh Phao-lô là anh em trong đức tin. Tình huynh đệ này phải trải rộng đến người nô lệ, người anh em khác này. Đó là sự “hiệp thông” của các chi thể Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 14: 25-33)

Các sách Tin Mừng, đặc biệt sách Tin Mừng Lu-ca, tường thuật muôn vàn những lời khuyên của Đức Giêsu về việc từ bỏ: từ bỏ chính mình, từ bỏ của cải, đoạn tuyệt với sự giàu sang phú quý, vân vân. Nhưng chưa bao giờ Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ Ngài xa đến mức phải hy sinh thậm chí ngay cả những tình cảm cao quý và chính đáng nhất.

Quả thật, Đức Giêsu không nghĩ phải hủy bỏ huấn lệnh yêu người mà Ngài đã công bố ngang bằng với huấn lệnh mến Chúa; nhưng Ngài ấn định theo cấp bậc hai bổn phận: “mến Chúa” và “yêu người”. Lời của Ngài đã vang lên bên tai các môn đệ Ngài, những người đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài. Những môn đệ đầu tiên, Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, đã là mẫu gương, thậm chí Gia-cô-bê và Gioan đã để lại cha già mình là ông Dê-bê-đê mà họ có bổn phận chu toàn đạo hiếu, phụng dưỡng hằng ngày.

Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dù cứng rắn đến mấy đi nữa, tương ứng với thực tại và vang vọng xuyên suốt lịch sử Giáo Hội. Thánh Lu-ca, vốn bận lòng về Giáo Hội, nghĩ trước tiên đến Giáo Hội truyền giáo, nhưng cũng đến Giáo Hội của đời sống tu trì mà lý tưởng các tu viện sẽ nối tiếp.

  1. Mến Chúa trên hết mọi sự:

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi yêu mến Người đến tuyệt mức như vậy. Khi đòi hỏi phải yêu mến Ngài đến tuyệt mức tương tự, Đức Giêsu nhận về mình những đặc quyền của Thiên Chúa; Ngài ngầm khẳng định sự duy nhất của Ngài với Chúa Cha. Ngài đòi hỏi một tình yêu tối thượng phải vượt lên trên mọi tình yêu khác.

Thánh Mát-thêu cũng nêu lên tính tận căn của những đòi hỏi của Đức Giêsu: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37), nhưng thánh Lu-ca đưa ra một danh sách đầy đủ hơn về những người mà tình cảm dành cho họ phải được đặt vào hàng thứ hai: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thậm chí cả mạng sống mình.

  1. Để là môn đệ Đức Ki-tô:

Cử chỉ này của Đức Giêsu: “Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”, được thánh Lu-ca ghi nhận nhiều lần. Đức Giêsu luôn luôn dẫn đầu, Ngài là Thầy, người dẫn đường; còn các môn đệ là những người bước theo Ngài. Khi Đức Giêsu quay lại, Ngài ngỏ lời với đám đông hiện diện, nhưng bên kia đám đông này, với đám đông môn đệ tương lai. Tuy nhiên, cử chỉ của Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng sứ điệp mà Ngài sắp công bố thật là quan trọng.

Lời mời gọi mở đầu của Đức Giêsu gởi đến đám đông đang theo Ngài: “Ai đến với tôi…”, là biểu thức Cựu Ước được gặp thấy ở nơi lời công bố Lề Luật. Trong Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, biểu thức này được phát biểu: “Nếu ngươi…” (Xh 20: 22tt; 21: 2-17). Như vậy, đây là quy luật sống mà Đức Giêsu long trọng công bố, như xưa kia ông Mô-sê đã ngỏ lời như vậy với toàn thể dân Ít-ra-en.

Những yêu sách được trình bày dưới hình thức phủ định: “Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở nơi khác, biểu thức này được diễn tả dưới hình thức khẳng định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Các tác giả Tin Mừng đều sử dụng diễn ngữ “vác thập giá”, thậm chí trước khi Đức Giêsu nói rõ rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập giá vào lần loan báo thứ ba về cuộc Khổ Nạn của Ngài (x. Mt 20: 19). Nhưng các sách Tin Mừng được biên soạn dưới ánh sáng của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, vì thế diễn ngữ này gợi lên ở nơi các tín hữu tiên khởi còn khủng khiếp hơn. Các môn đệ phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, chấp nhận bước đi trên con đường đau khổ, thậm chí cho đến mức phải hy sinh cả tính mạng của mình.

  1. Phải suy nghĩ cho thật nghiêm túc:

Tiếp đó là hai dụ ngôn về việc xây tháp và việc một vị vua muốn xuất quân đi giao chiến, cả hai dụ ngôn này đều có chung một tư tưởng trong mối liên kết với những đòi hỏi của Đức Giêsu. Để là môn đệ Đức Giêsu, phải dấn thân trọn vẹn, phải yêu mến Ngài tuyệt mức. Như vậy, trước khi quyết định theo Ngài, trở thành môn đệ của Ngài, phải ngồi lại mà tính toán cho thật nghiêm túc, định liệu sức mình có thể theo đuổi cho đến cùng không, chứ không quyết định trong giây phút bốc đồng kẻo lỡ đường đứt gánh.

Tuy nhiên, vài nhà chú giải tự hỏi phải chăng Đức Giêsu đã công bố hai dụ ngôn này ở đây chứ không vào những hoàn cảnh khác. Bởi vì việc dấn thân theo Đức Giêsu, gắn bó với Ngài, phải phát xuất từ sựu bùng phát của một con tim bốc lửa chứ không từ những tính toán đắn đo hơn thiệt của lý trí. Ấy vậy, hai dụ ngôn này hoàn toàn thiếu vắng niềm hưng phấn của tình yêu nồng cháy này. Vì thế, kết luận mà từ đó Đức Giêsu rút ra: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”, khó định vị vào cái lô-gích của hai dụ ngôn này, nhưng đúng hơn tiếp nối giáo huấn về những đòi hỏi của người môn đệ ở trong những câu đầu tiên: Đức Giêsu đưa ra một mẫu gương, Ngài bước đi về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Ngài sẽ chịu chết mình trần thân trụi, chơ vơ một mình trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15: 34).

 

15. Chọn lựa Thiên Chúa là duy nhất – An Phong.

Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn “xây tháp” và “đi giao chiến”. Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Đức Giêsu.

Đức Giêsu mi gi hãy t b. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Đức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Đức Giêsu là Hy vọng, là Đường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.

Bn b, kiên trì, đi cho trn đường, đó là thánh giá đời người. Để là người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Đức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Đã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là “Thiên Chúa là trên tất cả”. Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Để có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là “chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,29-30).

Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp… nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.

Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.

Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết?

Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Đức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy?

Ly Chúa,

Để con có th gn bó vi Ngài tha thiết hơn na,

con ước mong ý thc con tr nên bao la như tri bin,

mênh mông như vũ tr,

tri rng như loài người khp mt đất,

sâu thm như quá kh, sa m, trùng dương,

tinh vi như ht nhân nguyên t,

thâm thúy như tư tưởng ca lòng người.

Phi chăng con cn gn lin vi Chúa

t mi địa đim ca vũ tr bao la này,

để con đừng sa chước cám d rp rình

trong mi hành vi táo bo,

để chúng con đừng bao gi lãng quên là

ch có Chúa mi đáng được tìm kiếm qua mi s.

 

home Mục lục Lưu trữ