Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1361162

VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY

 

VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY

 

Sau khi củng cố đức tin của các môn đệ ở Xêdarê-Philipphê, Chúa Giêsu dẫn các ông từ từ đi vào thực tế của sứ mệnh Ngài. Ngài phải làm công việc mà Cha Ngài đã định và các môn đệ cũng phải góp phần.

Ngài cho biết những gì đang chờ đợi Ngài: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết…”. Những lời tiên báo này đã được các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng không phải hoàn toàn là những lời tiên báo của chính Chúa Giêsu mà do thánh Matthêu và các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào sau khi Chúa đã sống lại. Nhưng việc tiên báo vẫn là của Chúa Giêsu, vì Ngài muốn chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ để họ khỏi ngạc nhiên khi mọi chuyện xảy ra. Chúng ta không cần phải đi vào chi tiết mà chỉ tìm hiểu xem Chúa muốn dạy chúng ta điều gì.

Đức Cha Fulton Sheen đã viết về cuộc đời Chúa Giêsu đã nói ngay từ trang đầu tiên: Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết. Chính cái chết của Ngài là nguồn sống của chúng ta. Chúa Giêsu có biết về cái chết của Ngài như thế nào không? Nhiều người bảo rằng Ngài chỉ biết mơ hồ thôi, nhưng nếu chúng ta đi vào những tường thuật của các sách Tin Mừng về cuộc tử nạn sẽ thấy rằng Chúa biết rõ và đã nài xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống chén và Ngài đã mướt mồ hôi máu khi nghĩ đến đó. Như thế chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ Ngài phải chịu khổ hình như thế nào và đã chấp nhận “không theo ý Con mà theo ý Cha”. Và Ngài cũng biết trước là Ngài sẽ sống lại. Vì thế Ngài luôn kèm theo lời tiên báo sẽ sống lại. Ba ngày là một thời gian không xác định mà chỉ hiểu là một thời gian ngắn.

Phêrô nghe Thầy báo trước như thế đã can thiệp. Ông không thể chấp nhận được Thầy phải gặp số phận đau đớn như thế. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì ông là người Do Thái. Đa số người Do Thái vẫn trông chờ Đấng Cứu Thế, một vị Mêsia oai hùng chiến thắng sẽ khôi phục nhà Israel, đem lại cho dân Chúa một vị trí hàng đầu trong thế giới. Ông vừa tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, thì tất nhiên trong trí ông, Thầy phải được vinh quang. Phản ứng của Chúa Giêsu thật mạnh và bất ngờ: “Xatan, lui ra đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người!” Xatan ở đây không thể hiểu là quỷ dữ mà là chướng ngại.

Tư tưởng con người bao giờ cũng nghĩ đến giàu có, vinh quang, thành công, sung sướng. Chúa Giêsu cho Phêrô thấy rằng thành công của con người không phải là ở trần gian này. Không phải chỉ có giàu sang mới là hạnh phúc.

Chúng ta cũng như Phêrô thôi. Chúng ta chỉ ham trần gian mà không nghĩ đến cái gì cao quí hơn. Chúng ta bảo vệ quyền lợi cá nhân của chúng ta mà quên đi những gì quan trọng hơn. Và vì thế, sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Đây là điều kiện của Chúa. Nhưng bỏ mình là gì? Rất nhiều chuyện phải nói về việc bỏ mình, nhưng chúng ta chỉ cần hiểu đơn sơ là không còn theo ý mình nữa mà theo ý Chúa, như Chúa Giêsu vâng phục ý Cha và làm theo ý Cha Ngài trong mọi sự, vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập giá. Đó là bỏ mình triệt để. Chúng ta có dám như thế không?

Một linh mục tâm sự: “Khi tôi mới chịu chức, tôi được nghỉ một tháng. Sau khi nghỉ, tôi đến dòng Thiên An, ở Huế tĩnh tâm ba ngày để chuẩn bị lãnh sứ vụ. Sau ba ngày yên lặng, tôi xin gặp cha tập sư là một cha người Pháp để xin ngài vài lời khuyên. Ngài ngồi trước mặt và hỏi: “Cha ở đâu và cha muốn gặp tôi để làm gì?” Tôi xin cha cho tôi một vài lời khuyên. Ngài nhìn thẳng vào mặt tôi một lúc rồi nói: “Cha sẽ được nhiều người thương mến… Bỏ mình! Bỏ mình! Bỏ mình!” Rồi ngài đứng dậy lẵng lặng ra đi. Ba tiếng đó đã khắc ghi trong tôi suốt bao nhiêu năm làm linh mục, và nó đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Chỉ cần bỏ mình vâng theo ý Chúa thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Chỉ một điều khó là chúng ta ngại bỏ mình. Chúng ta vẫn thương và cưng chiều cái tôi của chúng ta. Ai cũng phải theo định luật đó mới mong làm được một cái gì đó cho Chúa và cho anh em. Những người có gia đình càng phải bỏ mình nhiều hơn các tu sĩ vì phải làm cho gia đình hạnh phúc. Không biết bỏ mình sẽ không thể xây hạnh phúc.

Xem ra Chúa Giêsu mâu thuẫn. Bỏ mình là một mất mát lớn, nhưng lại là nền tảng cho cuộc sống. Sống là cho đi chứ không là chiếm hữu. Càng cho đi, chúng ta càng thấy sung mãn. Chúa Giêsu đã là một tấm gương không thể so sánh vì Ngài đã cho đi tất cả và trở thành căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta.

Chúng ta có muốn theo Chúa không? Theo Ngài phải vác thập giá như Ngài. Thập giá không phải chỉ là một cách nói, hay là một đồ trang trí mà là khúc gỗ mà tử tội phải vác đi đến nơi hành hình. Ngài biết rõ Ngài phải chịu treo trên thập giá. Trong câu chuyện với Nicôđêmô, Ngài đã nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời”. Nơi khác Ngài cũng nói: “Phần tôi, một khi đã được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi”. Vác thập giá để theo Chúa không là một trò chơi mà là một dấn thân triệt để đến chết. Vì thế Chúa nói với Phêrô: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chấp nhận mất đi để tìm được sự sống, không phải sự sống vật chất mà sự sống thật, sự sống không tàn phai theo ngày tháng mà sung mãn tràn trề hạnh phúc. Trần gian này có gì để chúng ta ham?

Thánh Phaolô nói: “Bộ mặt thế gian này qua đi”. Kho tàng trần gian có là gì, và “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì có lợi gì?” Có lẽ những người nhiều của cải trông cậy sẽ để lại cho con cháu hưởng nhờ, nhưng họ cũng phải qua đi, con cháu họ cũng sẽ qua đi. Thân phận tro bụi vẫn trở về tro bụi. Còn chúng ta, kho tàng chúng ta ở trên trời. Cuộc đời chúng ta không kết thúc trong hư vô mà trong vinh quang nếu chúng ta dám theo Chúa, tin vào Ngài thôi, dám bỏ tất cả vì Ngài. Các thánh đã làm như thế và các ngài đang vinh quang bên tòa Con Chiên.

Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố Ngài sẽ chịu nhiều đau khổ và bị giết, nhưng Ngài sẽ sống lại, “vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Chúa Cha cùng với các thiên sứ của Người và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”. Đây là những lời đầy hứa hẹn cho chúng ta, những người dám bỏ mình, vác thập giá theo Ngài. Nhưng chúng ta có dám theo Chúa không? Chúng ta dám bỏ mình không? Hãy nhìn Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta vào hạnh phúc mà chúng ta đang ước mong.

Đường còn dài, chúng ta ngại bước. Nhưng hãy nhớ rằng thánh Phaolô dạy rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta!” Thánh vịnh cũng dạy chúng ta rằng: “Gieo trong nước mắt sẽ gặt giữa ca mừng”. Chúng ta không phải là những trẻ mồ côi bơ vơ giữa chợ đời, nhưng là những đứa con yêu quí của Cha trên trời. Chúa Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ trên trời, vì Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó. Đó là lời hứa. Và mặc dù chúng ta đang sống cực nhọc hằng ngày nhưng luôn đầy tràn hy vọng, không chán nản. Hơn nữa, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng thịt máu Ngài, và đó là một bảo đảm chắc chắn. Chúng ta hãy bình thản vác thập giá theo Chúa hằng ngày, không sờn lòng rên siết, không sợ sệt vì chúng ta biết chúng ta đã tin vào ai.

 

24.Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Sau khi nghe Phê-rô tuyên xưng: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ…, sẽ bị giết…”

Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, nói: “Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết”. Ngài đến trong trần gian không phải để tạo một vương quốc cho Ngài, để hưởng thụ như các vua chúa trần gian. Ngài đến để cứu vớt trần gian để “ban mạng sống cho thế gian.”

Phê-rô, có lẽ đã không hiểu một cách rõ ràng những lời Thầy nói, lên tiếng: “Thưa Thầy, không thể như thế được! Thầy không thể như vậy đâu!” Có lẽ Phê-rô chỉ nhớ hai từ thôi: đau khổ và bị giết.

Hành động của Phê-rô cũng dễ hiểu. Theo ông, Thầy là một vị tôn sư cao cả, Thầy làm những việc phi thường và… Thầy lại là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà ông vừa mới tuyên xưng. Vậy thì Thầy làm sao có thể bị giết được! Thầy sẽ đạt đến đỉnh cao của vinh quang. Đó là cái nhìn thực tế của ông. Đi theo Thầy, sau này ông cũng sẽ được hưởng quyền tước nào đó.

Một lần nào đó, Phê-rô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì sao?” Nghĩa là chúng con sẽ nhận được những lợi lộc nào.

Những người theo Chúa nửa vời thường mang tâm trạng thực dụng đó.

Phản ứng của Chúa Giêsu thật bất ngờ và mạnh mẽ: “Santan, lui ra!”

Satan ở đây được hiểu theo nghĩa “chướng ngại.”

Tại sao Chúa lại tỏ ra cứng rắn như thế? Ngài giải thích: “Anh làm cho Thầy vấp phạm, vì anh không hiểu biết những điều thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết về những gì thuộc về loài người.”

Đối với Chúa Giêsu, Ý Chúa Cha là trên hết, dù biết rằng ý Cha sẽ đưa Ngài đến khổ nạn và cái chết, nhưng Ngài sẽ trung thành đến cùng. Vì thế, khi Phê-rô can gián Ngài, Ngài tỏ ra hết sức nhgiêm khắc. Thái độ cương quyết của Ngài là một bài học cho mỗi người chúng ta. Sống đạo chính là “hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa” chứ không theo ý chúng ta, nghĩa là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa, những gì đi ngược lại là Satan.

Sự cương quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, phải dứt khoát rõ ràng, không thể “làm tôi hai chủ”, không bắt cá hai tay.

Chúng ta luôn được đặt trước hai chọn lựa: Chúa hay thế gian. Phải dứt khoát không khoan nhượng.

Giữ đạo không chỉ chấp nhận một số luật lệ, một số bổn phận đạo đức, mà chọn một người chính là Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống: “Dưới gầm trời nầy không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Diễn từ của Phê-rô trước công nghị. Cvtđ 4,12).

Sự chọn lựa này quyết định tất cả cuộc đời chúng ta, tương lai của chúng ta.

Giữ đạo chính là chọn Chúa và theo Chúa. Theo Chúa, tức là cảm nghĩ như Chúa, nói năng như Chúa, hành động như Chúa.

Và Chúa Giêsu đã nêu lên những điều kiện đó: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta.”

Bỏ mình , thường được hiểu là chết. Một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến… Người Công giáo hiểu theo một nghĩa thiêng liêng. Bỏ mình là từ bỏ những gì là của mình để theo ý Chúa: bỏ những ý muốn riêng, những mơ mộng, chương trình, ý muốn thống trị của mình để sống theo ý Chúa. Hơn thế nữa, bỏ mình là trao quyền quyết định về vận mạng của mình cho Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu: Ngài đã bỏ mình như thế nào. Chúng ta có thể trả lời ngay: Ngài đã hoàn toàn bỏ mình. Nhập thể, xuống thế làm người, phải chăng đó là bỏ mình trọn vẹn?

Đó là giai đoạn khởi đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã hiểu điều đó một cách rõ ràng và thánh Phao-lô đã ghi lại một ca khúc xưa: “Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”

Chúng ta hiểu như thế nào?

Ngài đã bỏ mình triệt để. Thiên Chúa là Đấng vô hình, toàn năng hằng hữu, Ngài đã mang lấy thân phận con người. Có thể nói, Ngài đã rơi vào một vực thẳm không thể tưởng được. Chúng ta không thể hiểu được sự bỏ mình thẳm sâu của Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài cũng là một bỏ mình triền miên. “Ngài còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”. (Pl 2,6-8).

Vâng lời chính là từ bỏ ý riêng của mình để “thực thi ý Cha”. “Lương thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”.

Cuộc đời của Ngài chỉ có một nội dung: vâng phục.

Hãy nhìn Chúa Giêsu để thấy sự khác biệt giữa chúng ta với Ngài. Ngài đã vâng phục vì yêu mến Chúa Cha. Chúng ta vâng phục Ngài vì yêu mến hay vì một lý do nào khác? Hay chỉ vì không thể làm gì khác?

Theo Ngài là bỏ mình, là yêu Ngài hơn cả chính mình, là yêu đến quên mình. Sự vâng phục chỉ có nghĩa khi vâng phục vì tình yêu. Bỏ mình là yêu mến trọn vẹn. Chúng ta yêu mến Chúa được bao nhiêu phần trăm? Nếu tỷ lệ tình yêu của chúng ta thấp, làm sao bỏ mình? Vì yêu mới có thể bỏ mình. Hai người yêu nhau thực tình và tha thiết mới có can đảm lo cho người mình yêu. Tình yêu của chúng ta với Chúa được bao nhiêu? Sâu đậm đến độ nào? Chúng ta lo cho Chúa những gì? Chúng ta dám bỏ thì giờ, công khó (và nếu cần cả tiền bạc) để lo cho Chúa được yêu thương hơn không?

Điều kiện thứ hai Chúa Giêsu nêu lên là vác thập giá.

Lúc Chúa Giêsu nói đến điều nầy, Ngài chưa chịu tử nạn, Ngài chưa vác thập giá. Khi nói đến vác thập giá Ngài nghĩ gì?

Ngài liên tưởng đến cuộc tử nạn của Ngài mà Ngài vừa nói đến chăng? Hay đây chỉ là một điều các Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào và thánh Mat-thêu đã ghi lại?

Nếu Ngài nói đến vác thập giá có thể hiểu như thế nào?

Có thể hiểu là chấp nhận mọi đau khổ dù nó đến từ đâu; là chấp nhận thân phận yếu đuối của mình, là chấp nhận mọi nhục nhã và cả cái chết đau thương vì Chúa: “ Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.”

Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trên con đường thập giá. Cuộc sống trần gian của Ngài, phải chăng là một cuộc “vác thập giá” liên tục, từ khi mới sinh ra cho đến đỉnh đồi Can-vê?

Con người chỉ muốn sống nhàn hạ, không đau khổ. Chúa Giêsu hướng chúng ta về tương lai, một tương lai duy nhất là hạnh phúc trong Nước Tình Yêu của Chúa Cha. Hạnh phúc vững bền đó chỉ có khi chúng ta dám bỏ đi tất cả thế gian, liều mạng vì yêu mến Ngài, “cho không tất cả.”

Chúng ta dám tin vào Ngài đến nỗi “khóc lóc, hãy như không khóc, vui mừng như không vui, mua sắm như không có gì cả…” (1Cr 7,30-31).

Các thánh đều hiểu điều đó. Các ngài đã tin Chúa vô điều kiện. Các thánh tử đạo là những bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các ngài đã dám chịu mọi cực hình và đã trung thành đến cùng.

Còn chúng ta?

Chúng ta đang sống trong một thế giới giàu có, đầy tiện nghi, chúng ta dám “bỏ mình, vác thập giá” như Chúa không?

Chúng ta sống cho thế gian hay sống cho Chúa?

Con đường Chúa đi không có tiện nghi mà chỉ có thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”

Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta vào hạnh phúc của Ngài, chúng ta còn do dự sao?

Ngài không chỉ mời gọi. Ngài đến trên bàn thờ nầy. Ngài đến với chúng ta, tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào.

Ngài hoàn toàn bỏ mình vì chúng ta, đến nỗi trở nên của ăn cho chúng ta, bồi dưỡng nâng đỡ chúng ta, sống trong chúng ta…

Hãy nghe tiếng gọi tha thiết của Ngài và can đảm bước theo Ngài.

Hôm nay, Ngài đến dưới hình thức khiêm nhu, nhỏ bé, nhưng Ngài sẽ đến trong “vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả công cho mỗi người”, những người dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài.

 

25.Dám lội ngược dòng

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Nếu nói về khát khao, ước mong muốn theo thầy Giê-su, thiết nghĩ hầu như ai trong chúng ta cũng có, dù ít hay nhiều. Nhưng theo thầy Giê-su thật sự là thế nào thì không nhiều người biết. Và chính vì không nhiều, nên ít người thật sự bước theo thầy Giê-su!

Trong bài Tin mừng hôm nay, chẳng ngẫu nhiên mà Đức Giê-su đưa ra điều kiện như một khuôn mẫu hầu trở nên môn đệ của Ngài, đó là “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Dường như thứ tự này không thể đảo lộn: ước muốn làm môn đệ Giê-su, từ bỏ mình, vác thập mình, bước theo thầy Giê-su.

Mặc định, hầu hết chúng ta đều ước ao trở nên môn đệ Chúa. Như vậy, trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hành động từ bỏ mình. Như chúng ta biết, bỏ mình không phải đánh mất chính mình, đánh mất chính ‘bản ngã’ (ego) mà chạy theo làm hài lòng ‘trăm họ, vạn người’, cũng chẳng phải đánh mất căn tính, bản chất con người nơi mình, để cứ thay đổi theo thời thế, xu hướng, xã hội và người khác…Thật ra, chính nhờ ‘bản ngã’ đúng mực, ta mới có thể nói: tôi là ai, tên gì, làm gì, v,v…, và nhờ đó phân biệt được ‘người khác với tôi’, xác nhận ‘tôi khác biệt với muôn loài cây cỏ’ trong thế giới này. Tuy nhiên, nếu ‘cái tôi’ này thai nghén, và dần dần lớn lên to tướng thì có thể khiến chúng ta sẽ không nhận ra Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, không nhân ra tha nhân, và hơn thế, không nhận ra chính bản thân thật sự của mình! Giống như đứa trẻ không được đến trường gặp gỡ bạn bè, học biết sẻ chia, yêu thương, nhường nhìn…, mà cứ được bảo bọc trong bốn bức tường, thậm chí có đủ mọi thứ đồ chơi thô sơ đến hiện đại, thì nó sẽ chỉ biết thế giới này dường như tồn tại một mình nó, và nhỡ ai bước vào thế giới ấy, đụng vào thứ gì đó thì nó cũng cảm thấy khó chịu!

Vậy từ bỏ mình như Chúa mời gọi là sao? Hình ảnh tiên tri Giê-rê-mi-a và Phê-rô cho chúng ta lời giải đáp rõ ràng. Như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chịu chế giễu suốt ngày” (x. Gr 20, 8), chúng ta nhận biết: bỏ mình chính là chịu thiệt thua vì Chúa, vì Lời Chúa, vì Giáo hội, vì lý tưởng sống với tư cách người môn đệ Chúa, với tư cách con cái Chúa. Người ta thường nói “ở đời này, hiền quá sẽ bị bắt nạt, bị thiệt thân thôi!”. Nếu chúng ta ‘hiền lành’ như thầy Giê-su, như Cha chúng ta trên trời thì nên tự hào, thay vì sợ thiệt thòi, hay bị bắt nạt chứ! Hơn nữa, từ bỏ chính mình cũng như lời quở trách Phê-rô của Đức Giê-su “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16, 23). Thay vì can ngăn như Phê-rô - người chỉ nhìn theo lối suy nghĩ con người, bao gồm cả suy tính, thành kiến, quan điểm sai lạc, những đinh ninh cảm tính bất động, suy đoán cá nhân…, thì bỏ mình là lúc chúng ta mở lòng đón nhận Thánh ý Chúa nơi bản thân, qua đời sống, qua biến cố hằng ngày, qua mọi người bất kể thích hay không thích, yêu thương hay ganh ghét, hợp gu hay không, cùng thuộc một nhóm hay không…Trong tiến trình bỏ mình hằng ngày không thiếu những lúc chúng ta buông xuôi, nhục chí, hay bỏ mặc dù trong suy nghĩ như ngôn sứ Giê-rê-mi-a “tôi tự nhủ rằng: sẽ không nhớ đến Ngài nữa, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa…” (x. Gr 20, 9); nhưng thật ra, chúng ta không ‘đơn thân độc mã’, tự thân vật lộn với ý hướng ‘bỏ mình’ đâu, trên hết Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khuyến khích ta qua ơn thánh của Ngài như lời tự nhủ của tiên tri Giê-rê-mi-a “…lúc ấy lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (x. Gr 20, 9)

Một khi đã bỏ mình để trở thành người môn đệ của Chúa, chúng ta tiếp tục nỗ lực thực hiện hành động tiếp theo, đó là: vác thập giá mình. Ở đây, Chúa muốn chúng ta vác lấy chính thập giá của mình trước khi nghĩ đến thập giá của người khác, kể cả vợ chồng, người thân, hội đoàn, cộng đoàn. Thực tế, chúng ta thường xem người khác là thập giá nặng nề của bản thân, điển hình khi cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc “vợ/chồng là thập giá mà tôi phải vác dài dài, có khi cả đời”, rồi trong gia đình “con cái là thập giá nặng nề của bố/mẹ”, và trong cộng đoàn giáo xứ, hội dòng. Thập giá mà được đề cập ở đây có lẽ theo nghĩa rộng, chính là: những gì khó khăn, vất vả, gian nan, khốn khó, những điều trái ý ngược lòng chúng ta, những thử thách trong đời sống đạo, những giới hạn bản thân, những yếu đuối cá nhân đã biết hoặc chưa biết. Như vậy, vác thập giá mình là chấp nhận sự yếu hèn bản thân, đồng thời khiêm tốn đón lấy lời răn dạy, hướng dẫn của Chúa qua Kinh Thánh, qua giáo huấn Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức thánh. Hơn nữa, vác thập giá mình cũng chính là biết cảm thông với tha nhân như Chúa hằng cảm thông, biết quan tâm đến anh chị em như Ngài luôn chăm sóc, nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày qua Lời và Thánh Thể, biết đồng hành với mọi người như Chúa đồng hành với ta luôn mãi như cảm nghiệm sâu sắc của Thánh Phao-lô qua lời khuyên nhủ giáo đoàn Rô-ma: “vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12, 1).

Sau cùng, chúng ta bước theo Chúa Giê-su. Một khi cất bước ra đi làm môn đệ Giê-su, chúng ta đã phải từ bỏ mình hằng ngày, và vác thập giá mình mọi lúc. Ra khỏi con người ương hèn, ích kỷ, xu hướng đổ lỗi, than phiền, cũng như dám bỏ ‘căn phòng chăn ấm nệm êm’ cũng biết bao tiện nghi, thoải mái trong đời mình, là lúc chúng ta can đảm lội ngược dòng của một xã hội không dám bỏ cái tôi, bám víu vào lợi danh, chức tước, địa vị, tiền tài…; và cũng là lúc chúng ta dám trở nên khác biệt vì đức tin, đối lại một thế giới lẫn tránh ‘thập giá’, phê phán tha nhân chỉ vì ngôn ngữ, sắc tộc, màu da, hay không giống với triết lý sống của mình. Có thể chúng ta sẽ cảm nhận được như những gì ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã từng thốt lên “…suốt ngày tôi trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi” (x. Gr 20, 7); nhưng sâu thẳm trong ta, nơi tiếng lòng ta, Chúa hằng khuyến dụ và dẫn dắt ta. Vì vậy, khi bước theo Chúa, chúng ta không thể quên những lời mà Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ giáo đoàn Rô-ma: “…đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo” (Rm 12, 2). Thánh ý Chúa, những gì đẹp lòng Chúa và hoàn hảo không gì khác hơn đã được viết trong phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?” (Mt 16, 25-26).

Chúng ta cùng dừng lại thinh lặng chốc lát, và cùng nhau thầm nguyện rằng:

Lạy Chúa, bao lần con muốn theo Chúa

Nhưng cũng bấy nhiều lần con chưa từ bỏ mình.

Những lúc con muốn từ bỏ bản thân theo Chúa

Con lại chần chừ, chưa sẵn sàng vác thập giá mình.

Thoáng chốc con nhủ lòng vác thử thánh giá

Thế mà đôi chân cứ bất động chẳng bước theo Ngài.

Xin giúp con một lòng khát khao

Nên môn đệ tín trung chứ không thất tín

Nên người bỏ mình chứ không bỏ Chúa

Nên người can đảm vác thập giá chứ không than trách

Nên người hân hoan bước theo Chúa, chứ không chần chừ. Amen!

 

26.Mất và được

(Trích từ ‘tinmung.net’)

Có câu chuyện kể như sau:

Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.

Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.

Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.

Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.

Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.

Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.

Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.

Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.

Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.

Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.

Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.

Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.

Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.

Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.

Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.

Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.

Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.

Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.

 

27.Con đường ba (chữ) “phải”

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.

Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!

Trong cuộc sống hằng ngày, khi chỉ có một con đường để đi, chỉ có một lối để thoát, chỉ có một giải pháp duy nhất, thì ta vẫn thường dùng chữ phải, chứ không dùng “có thể, có lẽ”. Anh phải đi. Em phải chết. Con phải lấy anh ta. Anh phải yêu em. Không còn con đường nào khác.

Hôm nay trong lúc quan trọng, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu hé mở cho các tông đồ biết con đường mà Chúa Giêsu phải đi, con đường ba chữ PHẢI. Chúa phải chịu đau khổ, phải bị loại bỏ, cuối cùng Ngài sẽ phải bị giết chết.

Trước khi chúng ta tìm hiểu con đường ba chữ PHẢI, tại sao Chúa phải đi con đường đó, chúng ta thử hỏi xem có thể có con đường nào khác không?

1. Có thể có con đường nào khác không?

Tông đồ Phêrô khi nghe Thầy mình loan báo con đường ba chữ phải này, thì kéo Chúa Giêsu ra nói nhỏ: Thầy không thể như thế đâu. Còn lý lẽ của loài người lúc nào cũng muốn gào to lên rằng: Chẳng lẽ không có con đường nào khác nhẹ nhõm hơn, dễ dàng hơn để cứu độ trần gian sao? Nếu để tạo dựng nên vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật, Thiên Chúa chỉ phán một lời là có mọi sự, thì tại sao để cứu chuộc, để hồi phục, Ngài không dùng con đường quyền phép đó: chỉ phán một lời mọi sự đâu vào đó.

Hoặc nếu cần, thì sai phái các thiên sứ Kerubim, Seraphim, hay cao hơn nữa, ra lệnh cho các Tổng lãnh Thiên sứ Micae, Gabriel, Raphael xuống trần gian để cứu chuộc. Vượt lên trên đó, Thiên Chúa đã chọn một con đường cực kỳ diệu là đích thân hoá mình làm người để xuống trần. Vậy là chưa quá đủ sao, mà lại còn phải chận bớt khoảng rộng để đi vào con đường quá hẹp hòi, gai góc là phải chịu đau khổ nhiều, phải bị loại bỏ, phải bị giết. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, toàn năng vô song muốn gì được nấy, lại nhân từ vô cùng, sao lại để Con của mình cũng là Thiên Chúa phải đi vào con đường khó hiểu như vậy, con đường chẳng có vẻ nhân từ chút nào, chứ chưa nói là con đường của Đấng nhân từ vô cùng.

Cũng vì vậy mà các Tông đồ vấp phạm vì con đường này, còn Phêrô, thì kéo Đức Giêsu về phía mình, một cử chỉ sỗ sàng song thành thực của một dân chài bộc trực như muốn ân cần săn đón, giữ gìn và giật người bạn, người thầy của mình khỏi hiểm nguy, kèm theo lời nói: Thầy đâu thể như thế được! Nhưng Đức Giêsu đã nổi xung thiên về lời nói đó của Phêrô bằng cách đuổi Phêrô đi cũng bằng một lời như khi đuổi ma quỉ cám dỗ trong sa mạc: Satan, hãy xéo đi!

Vậy con đường Đức Giêsu đi là con đường ba chữ PHẢI, chứ không phải con đường “có thể” để thay đổi, để can gián. Và vì nhất thiết phải đi con đường dẫn tới cái chết do người ta giết, nên ta thử tìm hiểu ý nghĩa con đường Chúa đi đó.

2. Tại sao Chúa phải đi con đường ba chữ “Phải” đó?

Trả lời dễ dàng nhất là chúng ta không trả lời được. Hay nói cách khác: ta không hiểu nổi tại sao Chúa phải đi con đường đó. Chữ PHẢI đây không phải là tất yếu của định mệnh: như nghèo thì phải khổ. Bệnh thì phải đau. Đói thì phải rách. Không học thì phải dốt. Nhưng PHẢI ở đây là điều cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa, ăn khớp với chương trình của Ngài trên nhân loại, mà chương trình và tư tưởng của Ngài thì vượt xa ý nghĩ của con người. Sách Isaia (55, 6-9) ghi: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Cách xa nhau như vậy làm sao ta hiểu nổi kế đồ của Thiên Chúa? Khi la Phêrô là Satan, hỡi Satan hãy xéo đi, thì Chúa cũng nói như vậy: vì ngươi chẳng hiểu biết gì những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ biết những gì thuộc về loài người.

Nhưng mà, chúng ta có Chúa Thánh Thần, có Chúa Phục sinh. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, còn Chúa Phục sinh giải thích cho ta như xưa Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai môn đồ trên đường Emmau (Lc 24,25): “Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó chịu chết rồi mới vào nơi vinh hiển sao?” Vậy thì Chúa Phục Sinh đã giải thích và Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho ta hiểu phần nào, tại sao Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết.

Càng dày lịch sử, càng lắm giải thích. Cho đến nay người ta ghi nhận ít là bốn giải thích này để trả lời cho câu hỏi Tại sao. Tại sao Chúa phải đi con đường đau khổ và chết? Mỗi giải thích là một cours thần học, nhưng chúng ta chỉ lấy kết luận thôi.

1) Chân lý được khẳng đình rõ nhất là bằng cái chết. Dùng cái chết để chứng minh, thì lời chứng đó hùng hồn nhất (Các thánh Tử đạo sẵn sàng chết để chứng minh Đạo mình theo là Đạo thật; vợ chàng Trương trầm mình chết để chứng minh mình ở nhà không phản bội chồng; các võ sĩ đạo Nhật sẵn sàng chết vì danh dự để chứng minh sự thật).

2) Chúa đi con đường đó không phải để đau khổ, để chết nhưng để diễn tả tình yêu cho đến cùng, “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết vì người mình yêu.” Mà Thiên Chúa là Tình yêu, yêu cho đến cùng! Cha mẹ đau khổ vì con, cha mẹ sẵn sàng chết vì con, không phải vì cha mẹ muốn đau khổ, muốn chết, mà là muốn biểu lộ tình yêu đối với con mình. Thiên Chúa là cha là mẹ.

3) Đức Kitô chết để làm giá chuộc cho chúng ta. Người mang thương tích để anh em được chữa lành. Người đã chết – để anh em được sống (x. 1Pr 2, 23-24). Thánh Phaolô nói: Anh em được chuộc bằng giá rất cao: giá máu Con Chúa. Chứng tỏ loài người chúng ta rất có giá, chứ nếu không, chỉ cần giọt mồ hôi của Con Chúa cũng đủ, đâu cần đổ tới giọt máu cuối cùng!

4) Để lại một mẫu mực cho chúng ta. Nếu Đức Kitô không đau khổ, không chết thì khi con người chúng ta bản tính là hay chết, thân phận là lưu đày đau khổ, chúng ta biết nhìn vào ai, soi vào gương nào để tiến bước khi gặp chết chóc khổ đau.

Cũng chính vì vậy mà trong Bài Tin Mừng hôm nay, sau khi vạch con đường ba chữ phải, Chúa Giêsu thêm: “Ai muốn đi sau tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo.”

Trong kinh Tin Kính chúng ta sắp xướng đây, chúng ta hãy cùng tuyên xưng, Đức Giêsu phải đi con đường thập giá và phải chết thời Phongxiô Philatô. Lời chúng ta tuyên xưng cũng là lời nhắc nhở, khuyến khích, nâng đỡ, an ủi chúng ta khi chúng ta bước theo con đường ba chữ phải của Ngài.

 

home Mục lục Lưu trữ