Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 65
Tổng truy cập: 1363643
VÂNG PHỤC ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
VÂNG PHỤC ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
(Suy niệm của Lm Ignatio Trần Ngà)
Ngay từ thủa khai sinh nhân loại, Nguyên Tổ loài người là A-đam và E-va đã bị Sa-tan cám dỗ từ bỏ đường lối Thiên Chúa để theo đường lối Sa-tan. Hai ông bà đã nghe theo lời ma quỷ xúi giục, không vâng phục Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Thế là một khi “Đầu Tàu” đã đi trật đường rầy thì sẽ lôi kéo các “toa tàu”, tức là vô vàn con cháu về sau đi vào ngõ cụt, lao vào cõi đau khổ trầm luân.
Để cứu nhân loại thoát cảnh lầm than do Nguyên Tổ A-đam E-và gây ra, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế đầu thai làm người, trở thành Nguyên Tổ mới, tác sinh ra một nhân loại mới, đồng thời trở nên như là “Đầu Tàu” thứ hai dẫn đưa nhân loại vào chốn hồng phúc.
Sa-tan đã hạ đo ván Nguyên Tổ A-đam E-va ngay từ thử thách đầu tiên, nay lại thừa thắng xông lên với quyết tâm lôi kéo “Đầu Tàu” thứ hai là Đức Giê-su Ki-tô đi trệch đường lối Thiên Chúa, nhằm nhận chìm nhân loại vào trong cõi trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Mặc dầu Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philipphê 2, 7), do đó, “Người đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta” (Do thái 4, 15). Chính vì thế, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giê-su đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
***
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Chúa Giê-su anh dũng chống lại và đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giê-su bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giê-su phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giê-su đã chiến thắng: “Xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha”. (Lc 22, 42). Người cương quyết vâng theo ý Chúa Cha bước vào cuộc khổ nạn đau thương để cứu độ muôn người.
Thế nên lần nầy, Sa-tan ra sức đánh trận cuối cùng, may ra giành được chiến thắng vào phút chót. Chiến lược của Sa-tan là tìm cách cám dỗ Chúa Giê-su xuống khỏi thập giá nhằm phá vỡ hoàn toàn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trước hết, qua miệng các thủ lãnh, Sa-tan khiêu khích: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"
Phải rồi, khi tự mình xuống khỏi thập giá, muôn người sẽ tin nhận Đức Giê-su thật sự là Đấng Ki-tô… như thế sẽ có lợi cho biết bao tâm hồn.
Tiếp theo, Sa-tan dùng lời binh lính để dụ dỗ Chúa Giê-su: “Hãy xuống khỏi thập giá đi.” Lý do được đưa ra là: “Ông là vua dân Do-Thái”. Đúng vậy, là vua thì phải xuống khỏi thập giá để lãnh đạo toàn dân thần phục Thiên Chúa, hẵn sẽ có lợi hơn nhiều.
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-su cũng được Sa-tan sử dụng để cám dỗ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Phải rồi, là Đấng Ki-tô thì có dư quyền năng để tự cứu mình và cứu luôn hai nạn nhân đang cùng chịu khổ nạn đau thương với mình. Thực là điều chính đáng!
Nhưng Chúa Giê-su đã không chịu lùi bước trước bất kỳ cám dỗ nào. Người quyết vâng phục Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng. Người đã chiến đấu kiên cường và đã hoàn toàn chiến thắng.
Lời thánh Phao-lô trong thư Philipphê (chương 2, 6-11) sau đây như khúc khải hoàn ca tán dương Chúa Giê-su đã vẻ vang chiến thắng:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”
Ngợi ca Vua Giê-su Ki-tô toàn thắng vinh hiển muôn đời. Amen.
25.Chọn vua nào?
(Suy niệm của Lm Ignatio Trần Ngà)
Ngày hôm ấy, toàn thể nhân loại được tập họp lại trước ngai tòa của hai vị vua đầy quyền thế: Một bên là vua Tiền, còn được gọi là thần Tài, đang chễm chệ trên ngai cao nạm ngọc dát vàng hết sức lộng lẫy; còn bên kia là vua Giê-su, cũng được gọi là vua Tình Yêu, đang bị treo thân trên thập giá, trên đầu Ngài có tấm biển ghi rõ danh hiệu của Ngài, đó là dòng chữ INRI, nghĩa là Giê-su Nadaret Vua Israel.
Mọi ánh mắt ngưỡng mộ đều đổ dồn về vua Tiền, tức thần Tài đang uy nghi trên ngai vàng lộng lẫy mà ít ai hướng nhìn về vua Giê-su đang bị treo trên thập giá.
Thế rồi, thời khắc chọn lựa bắt đầu. Mọi người chuẩn bị. Vua Giê-su lên tiếng mời gọi trước:
“Ta là vua Tình Yêu. Ai theo Ta thì hãy yêu thương người khác như chính mình và hãy hy sinh phục vụ mọi người như Ta đã nêu gương. Người đó sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.”
Tất cả chìm vào trong yên lặng nặng nề, không ai nhúc nhích. Sau chừng 10 phút chờ đợi, có một ít người rời khỏi đám đông tiến về thập giá để theo vua Giê-su.
Đến lượt vua Tiền, ông ta huênh hoang mời gọi, dõng dạc và đầy tự tin:
“Ta là vua Tiền, là thần Tài đây! Ai theo ta thì ngay ở đời này, sẽ được giàu sang phú quý và được vui hưởng lạc thú trần gian!”
Tiếng vua Tiền vừa dứt, cả đám đông xôn xao náo động, hối hả đua nhau chạy đến với ông ta.
Thế là trong cuộc tranh đua mời gọi thần dân về với mình, vua Tiền thắng lớn, còn vua Giê-su xem ra thất bại nặng nề.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn xem chính sách, đường lối của hai vị vua này ra sao.
Vua Tiền hô hào, thúc giục thần dân làm gì?
Đây là bản tuyên ngôn của ông ta:
- Mọi người phải tôn vua Tiền lên ngôi cao, phải xem “tiền là tiên, là phật”, xem tiền là thần, là thánh, là thần tượng số một của đời mình.
- Mọi người phải cậy dựa vào sức mạnh vạn năng của vua Tiền.
Người có lắm tiền trong tay có thể mua đủ mọi thứ trên đời, thậm chí có thể mua chức mua quyền, mua lạc thú, có thể mua được cả hoa hậu, hoa khôi, người mẫu làm vợ, có thể bẻ cong cán cân công lý cách dễ dàng…
- Mọi người hãy để cho vua Tiền thống trị và sai khiến.
Vua Tiền xô đẩy người ta phạm đủ thứ tội ác: Vì tiền mà tham ô, vì tiền mà cướp của giết người, thậm chí giết luôn cả ông bà cha mẹ để chiếm đoạt tài sản… xô đẩy các nhà cầm quyền châm ngòi nổ chiến tranh để xâm chiếm tài nguyên, lãnh thổ của các nước khác…
Còn vua Giê-su kêu gọi thần dân làm gì?
Vua Giê-su là vua Tình Yêu. Ngài chủ trương lấy tình yêu xóa bỏ hận thù. Ngài truyền cho thần dân hãy tuân giữ điều răn mới: “Thầy truyền cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 34).
Tuyên ngôn của vua Giê-su là yêu thương. “Người ta căn cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, đó là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Mục tiêu của vua Giê-su là xây dựng thế giới này thành trời mới đất mới, nơi công lý, hòa bình và yêu thương ngự trị.
Chọn theo ai?
Nếu hôm nay, vua Tiền và vua Giê-su tập trung chúng ta lại như đoàn dân trong câu chuyện trên đây và cất lời kêu gọi, chúng ta quyết định thế nào?
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình và trả lời cho thật: Tôi sẽ bước theo ai? Thật là khó khăn khi phải từ giã vua Tiền và những lôi cuốn hấp dẫn của ông ta để theo vua Giê-su.
Theo vua Tiền thì được hạnh phúc chóng qua đời này nhưng phải trầm luân đau khổ đời đời mai sau. Theo vua Giê-su thì được hạnh phúc hoan lạc vĩnh cửu đời sau nhưng phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát ở đời này. Cần phải biết chọn lựa thế nào cho khôn ngoan sáng suốt.
Sự khôn ngoan cho ta biết rằng: Thế giới chỉ được hòa bình, nhân loại chỉ được hạnh phúc, ghen ghét hận thù chỉ bị đẩy lùi… khi mọi người biết tôn Chúa Giê-su làm vua của mình và lấy luật yêu thương của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Từ bỏ vua Tiền để theo Vua Giê-su là điều rất khó. Chỉ có những ai khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, có nhiều bản lãnh và dồi dào ơn Chúa thì mới có thể lìa bỏ vua Tiền để theo Chúa mà thôi.
Xin ban ơn phù trợ để chúng con đủ sức theo Chúa, thờ Chúa và sống theo luật yêu thương Chúa truyền dạy, nhờ đó, chúng con sẽ được hưởng phúc muôn đời với Chúa. Amen.
26.Cùng chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Ignatio Trần Ngà)
Thiên Chúa mong muốn loài người đi theo đường lối Ngài để họ được hạnh phúc và được sống muôn đời. Trong khi đó, ma quỷ luôn tìm mọi cách để lôi kéo con người đi trật đường lối Thiên Chúa, để con người phải sa đoạ, phải đau khổ và diệt vong.
Ngay từ đầu, ma quỷ tìm cách lôi kéo tổ tiên loài người là Adam - Evà đi trật đường Thiên Chúa. Hai ông bà đã sa ngã và toàn thể con cái loài người phải mang họa.
Nay ma quỷ tiếp tục cám dỗ, lôi kéo Đức Giêsu, một Ađam mới, đi trật đường lối của Thiên Chúa Cha bằng nhiều chiêu thức khác nhau.
Mặc dầu Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Philipphê 2, 7), do đó, "Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta..." (Do thái 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giêsu đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
* * *
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Ngài đã anh dũng chống lại và Ngài đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong đời rao giảng, Chúa Giêsu từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giêsu bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục và vô cùng đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giêsu phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giêsu đã chiến thắng: "xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha". (Lc 22, 42)
Nhưng Sa-tan vẫn chưa chịu lùi bước, lại còn đeo đẳng cám dỗ Chúa Giêsu đến giờ phút cuối cùng. Người ta gọi đây là những cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu, được thánh Luca thuật lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, các thủ lãnh cám dỗ: "hãy xuống khỏi thập giá đi!". Lý do mà các thủ lãnh đưa ra là: "cứu được người khác, tại sao không tự cứu mình?". Nghe thật chí lý!
Quân lính cũng đưa ra cám dỗ tương tự: "hãy xuống khỏi thập giá". Lý do mà quân lính đưa ra: "Ông là vua dân Do-Thái", tương lai đầy hứa hẹn, lẽ nào lại chọn cho mình cái chết oan ức và ô nhục thế nầy, hãy tự cứu mình đi!
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu cũng cám dỗ Ngài với lý do: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Phải rồi, mình đã cứu được bao nhiêu người khác, lẽ nào lại không tự cứu mình? Mình là Vua dân Do-Thái, lẽ nào ông vua mà lại thảm hại thế nầy ư? Mình là Đấng Kitô được Thiên Chúa sai đến, lẽ nào Đấng Kitô lại kết thúc cuộc đời cách bi thảm thế nầy sao?
Nhưng Chúa Giêsu đã không chịu lùi bước trước các cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến đấu oanh liệt và đã đi đến chiến thắng cuối cùng. Nhờ đó, Ngài mới được tôn vinh là Vua hoàn vũ, đã sửa lại sự sai trật của tổ tông, mang lại ơn cứu độ cho muôn người.
* * *
Hôm nay chúng ta cũng đang lâm chiến chống lại Sa-tan và tội lỗi như Chúa Giêsu ngày xưa. Vốn mang tính xác thịt nặng nề, tự sức mình chúng ta không thể nào chống lại mưu chước Satan. Phải cậy nhờ Chúa Giêsu thôi. Ngài là người bạn đồng minh đã không bao giờ thua cuộc và hôm nay vẫn đang sống bên ta và đang cùng ta chiến đấu.
Vì thế, mỗi lần bị cám dỗ, chúng ta hãy nhớ đến người bạn đồng minh và thưa với Ngài: Lạy Chúa Giêsu, xin chiến đấu cùng con và giúp con chiến thắng. Nhờ Ngài, chúng ta sẽ thắng được các cám dỗ và sẽ được thông phần vinh hiển với Ngài trên quê Trời mai sau.
27.Xin Vua Tình Yêu nhớ đến tôi
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ở thời nào con người cũng đề cao tình yêu, nhưng tìm được một tình yêu tinh ròng không lợi dụng, không ích kỷ mà chỉ biết yêu và hy sinh cho người mình yêu là điều rất khó. Đây chính là tình yêu cao thượng. Không giống như tình yêu lãng mạn, tình yêu cao thượng có nghĩa là cho người yêu của mình những gì mà người yêu cần mà không kỳ vọng nhận được bất cứ một điều gì đáp lại. Tình yêu cao thượng cũng hiện hữu trong các mối quan hệ khác của con người, không phải chỉ có trong tình yêu đôi lứa.
Nhưng liệu trong đời này còn có tình yêu dám chấp nhận thiệt thòi và sẵn sàng tha thứ? Hi sinh vì người khác mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì? Dường như trong cuộc sống ngày nay, rất khó để chúng ta tìm thấy một người sống dám sống mình vì mọi người. Hình như cách sống cao thượng quá khó với con người ngày nay?
Cách đây hơn 2000 năm người tử tội bên hữu Chúa đã nhận ra một tình yêu tinh ròng ấy. Chúng ta hãy hình dung khung cảnh đồi sọ vào giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng từng được Chúa ban ân huệ ăn bánh của Người, thế mà hôm nay, đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ tử tội sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nhưng chính vào giây phút tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người tử tội bên phải thưa với Chúa: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi, ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
Qua đây, Chúa Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền, đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Tai sao giữa lúc tối tăm đó, người trộm lành lại can đảm thốt lên điều đó? Giữa lúc mà mọi người đã bỏ Chúa, giữa lúc mà mọi người đang nhục mạ Chúa, mà người trộm lành lên tôn vinh Chúa? Vâng, anh đã tôn vinh Chúa không phải vì Chúa đã thành công theo lối nhìn ở đời mà quan yếu là anh đã cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho nhân thế.
Ngay trên khổ giá của mình, anh thấy trong bao lời trách mắng về Ngài với những câu như: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá”. Nhưng những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Vâng, chính Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Một vị vua không đăng quang trên ngai vàng mà trên cây thập giá. Một biểu tượng cho tình yêu tự hiến chết cho người mình yêu. Một biểu tượng cho tình yêu bao dung dành tình yêu cho cả kẻ làm hại mình.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế. Hành trình nào cũng có khó khăn, đôi khi cả vấp ngã, nhưng hãy tin tưởng và cầu xin Vua tình yêu nhớ đến chúng ta ngay bây giờ và trong vương quốc của Ngài.
Xin Vua Tình yêu thống lĩnh gia đình và từng người chúng con trong vương quốc của Ngài để nhờ đó chúng con luôn được che chở bình an trong sự quan phòng đầy tình yêu của Chúa. Amen.
28.Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước.
Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến nhà vua càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”.Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
29.Vua tình yêu – Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Tình yêu là mức đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả! Đó là trung tâm qui tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn là vua, vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức Giêsu thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh lính đều một giọng như nhau: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23,37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23,35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo Chúa, bọn lý hình đã thâm gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền viết phía trên đầu tử tội: “Đây là vua người Do thái.” (Lc 23,38) Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26) Ngay trong hàng ngũ quân đội cũng có “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: ‘Người này quả thật là công chính.’” (Lc 23,47) Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình là một bất công lớn lao giáng xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm trọn được lòng người, kể cả những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai người gian phi đã thành tâm thưa với Chúa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh mẫn biện hộ cho Chúa, đối lại với đồng bọn: “Ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23,42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa: “Tôi bảo thật anh: hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43) Tin Mừng luôn mang tính “hôm nay” ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ lợi dụng tương lai để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn tìm thấy nét hiện thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù hiện tại đau thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế, Tin Mừng luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công Chính, Vua Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người. Nói khác, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23,34) và người gian phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ Samaritana, Phêrô v.v. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,20) Là con dân trong Nước Chúa, Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa giải của mình trong gia đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận từ ngày tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực, “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh.” (Cl 1,18) Trở thành chi thể Đức Kitô, chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ khi nào thi hành sứ mệnh cao cả đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con Thiên Chúa (x. Mt 5,9)
Chính khi thi hành sứ mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh tẩy, chúng ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ được thể hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi người. Phục vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì để tự hào. Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ cho một đối tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội, tức là dân Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã “sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là con đường ngắn nhất dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình trở nên giống Chúa Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương xót của Chúa. Phải có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một cách vô tư mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét đặc trưng cao đẹp nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với những người Hồi giáo Algerie rằng: “Giáo hội Công giáo rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể họ có tin vào Đức Kitô hay không.” (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1,13)
Chính Người đang thúc đẩy “triều đại Cha mau đến.” (Mt 6,10) Hằng ngày chúng ta vẫn đọc lời kinh cao đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời kinh đó? Thú thật cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài này rất run sợ vì vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm để phán xét. Nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Như thế, càng lâm cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp bất công, càng cần phải xin cho “triều đại Cha mau đến.” Nghĩa là, Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi! Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl 1,19-20)
30.Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ
(Suy niệm của Lm. Trần Đình Nhi)
Để diễn tả quyền bính cai trị của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mátthêu (25:31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23:35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu” đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên Chúa dành cho muôn dân qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
a) Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu
Vua Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút trọng đại ấy, thánh Luca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục mạ Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải đã can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của họ. Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của một ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rôma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do đó họ không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng mình là “vua dân Do-thái” được. Nếu quả thực Chúa Giêsu là một tên tội phạm, thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là vua của họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa trên nhu cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giêsu không thể tự cứu mình và cứu được hắn, nên Chúa Giêsu cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giêsu phức tạp hơn. Khi đặt câu hỏi giả dụ Chúa Giêsu là “Đấng Kitô”, chắc chắn họ đã hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu Kitô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh, họ hiểu Đấng Kitô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giêsu chỉ là một anh thợ mộc đến từ Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt câu hỏi Chúa Giêsu có đích thực là Đấng Kitô không và họ tự trả lời: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới thiệu: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9:35), hoặc chính Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7:28-29).
Có lẽ mỗi cách phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu qua những hạng người ấy đều nói lên một cách nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở thành những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giêsu nữa.
b) Nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua cứu độ
Trái ngược với những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu là đám dân chúng “đứng nhìn” và nhất là người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào buông lời chế giễu Người. Còn những người nhận biết Chúa Giêsu thì giữ thái độ im lặng kính cẩn hoặc tha thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn phải là do cung cách của Chúa Giêsu ngay trong những giây phút trầm trọng cuối đời. Chính trên thập giá, Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã nói lên cung cách của người “thí mạng sống mình vì bạn hữu” và sẵn sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo thói a dua của người đời mà khinh bỉ người tử tội Giêsu, giống như nhóm lãnh đạo tôn giáo, tên gian phi không hối cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ đang “đứng nhìn”, một thái độ chiêm ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều kích “dài, rộng, cao, sâu” của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu trên thập giá cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu, đồng thời kêu cầu với Người: “Xin nhớ đến con” chắc chắn sẽ là điều mọi Kitô hữu phải lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi thuộc nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu không? Nếu có thì điều gì đã làm cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy, bằng cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa, để cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp đau khổ hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác không? Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khao khát nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì khổ đau của con
nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam