Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1359473

VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?

VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?

 

Chủ đề: Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng.

1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.

Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. “Như một tên trộm viếng vào ban đêm”. (1 Tx 5: 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.

Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Điều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: “Ta không biết các ngươi”. Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?

– Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?

– Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?

– Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?

Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Đây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; “Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ” (Dt 4: 12-13).

Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Đây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?

Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.

Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.

Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là “Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh” thường đọc sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: “Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra”.

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

 

  1. Sống trung tín và tỉnh thức – Jude Siciliano

Vào thời tiết này, nhiều nơi trên đất nước Hoa Kỳ, nhất là ờ miền Nam ấm áp, cây cối vẫn còn rực sáng trong nắng cuối thu. Trời đất quả là một bức tranh tuyệt đẹp. Lá vàng nhuộm màu sặc sỡ khắp đó đây. Nhiều thi nhân, hoạ sĩ gọi là mùa pháo bông của thiên nhiên. Tiết đông chưa tới, gió lạnh nghiệt ngã chưa thổi luồn qua các khóm lá vàng trên cành khô. Ánh sáng mặt trời óng ả đọng từng mảng trên triền núi, mái nhà, ngọn cây cao làm tăng thêm vẻ rực rỡ cho các phiến lá đầy màu sắc cuối thu. Những tia sáng nhạt xuyên qua kẽ lá làm bầu khí ban chiều thật yên tĩnh. Mọi người đều khao khát những khoảnh khắc nhàn rỗi để đi dạo chơi trong quang cảnh quyến rũ của vạn vật vào những buổi chiều tàn cuối năm. Nhưng có điều chi không ổn trong tâm trí tôi: Cảnh trí rực rỡ kia lại như báo trước cái chết có sẵn trong thiên nhiên.

Những tấm lá vàng cực kỳ đẹp đẽ kia lại đang nói rằng chúng sắp qua đời, đang tàn tạ dần. Những chiếc lá vàng cho biết rằng chúng đang run rẩy chết trên các cành cây, chẳng mấy chốc nữa sẽ quay cuồng trong gió lạnh rồi rơi xuống mặt đất khô, người ta sẽ gom chúng lại, chở đi đổ ở mãi tận đâu xa. Chấm hết một đời lá. Chắc chắn mùa đông sẽ tới, năm tận tháng cùng. Những người trọng tuổi, các thân hình đau yếu, bệnh hoạn rất sợ mùa lạnh lẽo, gía rét này. Bởi nó có nghĩa là họ sẽ bị giam hãm dài ngày trong những căn phòng chật hẹp, tù túng bốn bề, từng giây từng phút ngóng đợi đến khi tuyết tan, nước chảy, cho đến ngày lại được chống gậy đi đây đi đó cho khuây khoả tấm lòng, lại được thấy cây xanh nẩy lộc, chim hót líu lo.

Thật kỳ diệu, phụng vụ của Hội Thánh luôn đi song song với cảnh sắc thiên nhiên. Nó cũng đang kết thúc một chu kỳ, chù kỳ năm A. Chúng ta đang ở trong ba tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, trước khi bước vào mùa vọng năm tới, năm B. Suy tư và lời kinh nguyện của chúng ta cũng đang hướng về ngày cánh chung, kết thúc thời gian trần thế. Mọi chỉ dẫn của phụng vụ đều nhắc nhớ các tín hữu phải ngẫm nghĩ, không những về sự chết riêng của mình, mà còn về kết thúc tất cả các kinh nghiệm mà chúng ta phải trải qua trong cuộc đời. Những thành công và thất bại, những ân huệ và tội lỗi, những trung tín và phản bội. Các bài đọc Thánh kinh cũng hằng khuyến khích cộng đồng suy niệm về những thực tại chắc chắn và bền vững của kiếp sống con người, những phù vân mau qua của thế gian mà không đáng tín hữu đầu tư thời gian, sức lực hoặc tiền tài, những điểm hội tụ chính đáng của cuộc sống mỗi người, cũng như những điều phải gạt bỏ đi, những chi nâng đỡ và cứu giúp chúng ta qua khó khăn khủng hoảng trong cuộc sống.

Tác giả sách Khôn ngoan bộc lộ sự hiện diện của một nhân tố tối cần thiết cho các linh hồn để vượt qua biển đời trần thế là Khôn Ngoan. Sách này được soạn bằng ngôn ngữ Hy Lạp ở thành phố Alexandria, nước Ai Cập vào khoảng giữa các năm 100 và 50 trước Chúa Cứu Thế. Bà chúa Khôn Ngoan “sáng chói và không hề tàn tạ” là tâm điểm của sách. Bà sánh đôi với khao học, triết học, thần học và các môn khác của khôn ngoan nhân loại. Bà không thể thiếu trong tư duy và hành động của một con người khôn khéo. Bà dạy dỗ những việc lành phải làm, việc ác phải tránh, để được hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại và sự sống mai hậu. Bà được nhân cánh hoá để thi hành ý muốn của Thượng Đế nơi trần gian. Hội Thánh có thói quen đồng hoá Bà chúa Khôn Ngoan với Đức Giêsu Kitô, khuyên dạy chúng ta lấy Bà làm tiêu chuẩn để lọc lựa những phù vân thế tục, giữ vững những điều chi “sáng chói và không hề tàn tạ”của cuộc sống trên thế gian này, khi những xoắn vặn mùa đông, những gian nan thử thách, những tin tức không vui ập đến, bà chúa khôn ngoan sẽ là điểm tựa để chúng ta chống đỡ, kêu cầu. Bà là ngọn hải đăng “sáng chói không hề tàn tạ” hướng dẫn mọi cuộc đời vượt biển trần gian trong tối tăm.

Như vậy chúng ta có thể đáp trả bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay bằng cách mời mọc Bà đến cư ngụ trong linh hồn mình. Bí tích thánh thể sẽ khích lệ chúng ta canh thức và ngóng trông Bà, vì Bà luôn luôn gặp gỡ linh hồn với mọi nỗi “lắng lo”. Tác giả bài đọc còn gợi ý rằng tất cả những ai cất công tìm kiếm ngôn khoan sẽ được gặp Bà: “Ai kiếm tìm Đức khôn ngoan thì Đức khôn ngoan cho gặp, ai khao khát Đức ngôn ngoan thì đức khôn ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết.” Điều kiện duy nhất là có một trái tim trong sạch, thành thật kiếm tìm. Sách các Vua quyển thứ I còn cho hay khôn ngoan là ân huệ Chúa ban và cung cấp cho người tìm kiếm ” một trái tim hiểu biết để phán đoán và phân biệt phải trái ” (1V 3,9). Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, nhưng Bà chúa khôn ngoan sẽ dẫn chúng ta đến với những chi vững bền, bởi bà giống như Thượng Đế toàn năng và bất biến (Kn 7,22-27). Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta chỉ khởi sự tìm kiếm thì Đức khôn ngoan đã ngự sẵn trong lòng: ” Ai từ sáng sớm đã tìm Đức khôn ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả, họ sẽ thấy Đức khôn ngoan ngồi ngay trước cửa nhà “. Khôn ngoan như vậy là ân huệ hơn là cố gắng thủ đắc. Nó chỉ đường dẫn nẻo để chúng ta tận lực sống trung tín và tỉnh thức.

Chúa Giêsu là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh, là Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Những ai hằng ngày kiếm tìm Ngài, sẽ thấy Ngài là ánh sáng “rực chói và không hề tàn tạ”. Trong Tin mừng hôm nay chúng ta ngồi dưới chân Ngài mà học cho biết khôn ngoan để bước đi trên những đường lối Thiên Chúa, không bị thế gian, ma quỉ, xác thịt lừa đảo trong những chuyện chóng qua. Phong tục tập quán cưới hỏi ở thời Ngài khác xa bây giờ. Cô dâu và đoàn tuỳ tùng ngồi ở nhà đợi chú rể và đám bạn bè tới dự tiệc. Tại sao tiệc lại trễ? Ấy là vì theo thói tục thời đó, người bên chú rể còn phải thương lượng với bố cô dâu và gia đình. Càng thương lượng lâu thì là dấu cô dâu càng đắt giá và danh tiếng. Có khi người ta phải thức thâu đêm hay nhiều ngày để thương lượng. (Patricia Sanchez: Lời Chúa chúng ta cử hành, năm A). Cuối cùng, chú rể và bạn bè cũng đến. Tiệc cưới khởi sự. Nó có thể kéo dài cả tuần lễ, vì vậy Chúa đã sử dụng tục lệ này để minh hoạ cho việc Ngài trở lại bất ưng và tuyên bố triều đại Thiên Chúa ngự trị. Mặc dầu thời giờ trở lại là việc chắc chắn, nhưng chúng ta vẫn dễ dàng vô tâm, không sẵn sàng, đúng như năm cô gái khờ dại trong truyện ngụ ngôn.

Hàng chữ cuối cùng của Tin Mừng hôm nay thật đột ngột và dứt khoát: “Rồi người ta khoá cửa lại.” Không phải chỉ khép mà khoá lại (locked). Những cánh cửa mở rộng đón khách, nay được khoá lại. Tiếng then lóc cóc gài vào ổ nhắc tôi nhớ đến ngay các cánh cửa của nhà tù đóng lại. Nhưng đây là tiệc cưới, không phải nhà giam. Những thực khách bên trong đang hưởng sự vui mừng hớn hở của bữa tiệc. Họ chấm dứt những giây phút mong đợi dài dằng dặc. Những ai ở ngoài là vĩnh viễn ở ngoài. Họ lỡ hẳn cơ hội dự tiệc, bởi đã hoang phí thời giơ, sức lực vào những công việc vô ích, không dự trữ dầu đèn đầy đủ. Rõ ràng họ ngu ngốc hết cỡ. Đáng lý, khi chờ đợi họ phải tỉnh thức canh phòng, làm những chi cần làm do hoàn cảnh đòi hỏi, để không phải rơi vào kết thúc đáng buồn. Khi đang viết những dòng này, tôi nhận được cú điện thoại của một anh bạn. Anh báo cho tôi hay rằng bạn anh, 45 tuổi, cha của hai đứa nhỏ, chồng của một người vợ trẻ, vừa mới đột ngột qua đời khi vượt qua chỗ quẹo gấp. Gia đình anh rất buồn và đau lòng. Anh là một lực sĩ nổi tiếng, chẳng bao giờ ngờ rằng mình sẽ vĩnh viễn ra đi chỉ sau một cuộc chạy đua vào buổi chiều thu như hôm nay. Người ta vẫn hy vọng anh còn nhiều sức lực, đèn của anh còn cháy sáng và có nhiều dầu, anh còn đủ thời gian để nói những lời yêu thương với vợ con, lời xin lỗi với bạn bè. Người ta vẫn hy vọng anh sống khôn ngoan, biết thương cảm những ai bất hạnh, giúp đỡ hàng xóm láng giềng khi gặp khó khăn, thực phẩm cho người đói, nước uống cho người khát, đón tiếp khách lạ, áo mặc cho kẻ trần truồng, thăm viếng người tù tội hay yếu đau (Lễ Chúa Kitô Vua chúng ta sẽ được nghe Tin Mừng Chúa phán xét về những công việc tương tự).

Câu truyện Tin Mừng Chúa nhật này không những nói đến ngày cánh chung, nhưng cả đến thời khắc hiện tại. Nó nhắc nhở chúng ta phải luôn tỉnh thức và hướng dẫn cuộc đời mỗi người theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tỏ hiện nơi Đức Kitô. Chúng ta chưa được trông thấy ngày Ngài trở lại. mà chỉ được kinh nghiệm những công việc hằng ngày, lao động, học hành, buôn bán, cầy cấy, gieo trồng… Nhưng đôi khi cũng gặp những điều bất ngờ xảy đến cho mình, cho gia đình và bạn bè thân yêu. Chúng ta có luôn luôn sẵn sàng không? Nó tuỳ vào dầu đèn của mình đầy đủ hay thiếu thốn. Nếu hiện thời chúng ta phí phạm thời giờ, tiền của, sức lực, e rằng lúc gặp những khủng hoảng chúng ta chẳng thể trở tay kịp. Thời gian đã hết, muộn quá rồi, cửa đã khoá. Chúa giảng dụ ngôn là để cảnh giác toàn thể nhân loại luôn tỉnh thức chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Ngài luôn sẵn lòng ban khôn ngoan giúp chúng ta sống trung thành và xứng đáng.

Để kết thức bài suy niệm, xin kể một câu truyện nhỏ:

Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn xót lại một thanh niên trẻ. Nhờ tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển cả suốt mấy ngày đêm. Anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gío lạnh, nằm chờ chết. Trời phật thương tình, nổi cơn gió lớn đưa anh dạt vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên đảo cứu anh sống, rồi phong làm vua. Anh ngỡ ngàng hết sức, tưởng mình nằm mơ. Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu chi. Anh cố gắng học ngôn ngữ của họ. Sau hiểu ra, theo thói tục, mỗi người chỉ được làm vua có một năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu, xa cư dân và bỏ cho chết đói. Anh thuỷ thủ trẻ lo lắng sợ hãi quá. Vận may hoá thành tai hoạ. Anh thức suốt đêm, tìm ra một phương kế để không bị chết đói sau khi mãn hạn một năm. Anh dùng quyền làm Vua của mình phái một số nông dân giỏi ra đảo canh tác trước, biến nó thành màu mỡ, sản xuất đủ lương thực thực phẩm. Nhờ khôn ngoan anh đã thành công lớn. Sau năm mãn hạn anh ung dung ra đảo với tương lai vững chắc.

Chúng ta cũng chỉ làm vua ở thế gian này bất quá một đời người, cho nên phải biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng để lo liệu cho cuộc sống tương lai như người thủy thủ trẻ. Bằng không, sẽ ngu dốt như năm cô trinh nữ dại khờ.

Xin Chúa Giêsu Thánh Thể soi sáng chúng ta trong thánh lễ này để làm những quyết định Khôn Ngoan cho cuộc đời mình. Amen.

 

  1. Chú giải của Noel Quesson

Trong tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc. Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)… kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của Con Người (Mt 24,26-44)… ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về, Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 – 25,30)… Cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46)…

Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể…

Ngay từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là “parthènoi”. Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.

Khi Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể… và Giáo Hội, mọi người chúng ta là người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.

Trong mười cô đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.

Chúng ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày, một cái chết tàn bạo.

Người vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)… Giờ đây “vụ án” của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23, 34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô “lơ đễnh”, dại dột, những người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn đề người điên dại “môrai” và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên” không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch đạo”, kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm chi có Chúa ‘Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để chỉ “người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực hành”: (Mt 7,24) – “những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17). Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc trống rỗng hoặc lơ đễnh.

Đây là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa được đặt ra… một sự “được thua” được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?

Vì chú rể đến chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.

Nếu câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong “bài giảng thời cánh chung”, những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn “người đầy tớ chờ chủ”, người đầy tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).

Hãy chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.

Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”

“Nửa đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20; Mc 13,35-36). “Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). “Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ mà người ta không ngờ” (Mt 24,44), “lóe sáng như tia chớp” (Mt 24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây phút của Thiên Chúa… giây phút của cuộc gặp gỡ… giây phút mà, đối với mỗi người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một tiếng kêu thảng thốt.

Không một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…

Trong lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi giật mình không?

Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.

Trong câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại… Tất cả đều thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con. Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?

Chỉ cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn thê trong Diễm Ca (5,2). “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức”. Vâng, lạy Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.

Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”.Đúng lúc các cô đi mua, thì chú rể tới…”

Vào đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.

Rõ ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi… anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu… anh em hãy giữ lại cho mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói khá nhiều điều ngược lại.

Nhưng Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu! Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta hãy nghe phần cuối của câu chuyện.

Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”

Các cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc, nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn giờ.

Rõ ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên Chúa: “Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!”. Thế đấy không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21-23).

Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Câu nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người. Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ. Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi có canh thức không?

 

  1. Dọn lòng đón Chúa

Cái chết làm loài người sợ hãi nhưng không tránh khỏi được. Nhiều người cố gắng kéo dài sự sống bằng nhiều phương pháp khác nhau để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận nó. Đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là đi vào một cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta sống theo lời dạy của Thầy Giêsu Chí Thánh, đời đời chúng ta sẽ được một cuộc sống hạnh phúc vô vàn. Nếu chúng ta không tin giữ lời Đức Giêsu, mãi mãi chúng ta sẽ phải hối hận! Biết chắc điều đó sẽ đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn để được nghênh đón Chúa Giêsu ngự đến và vui mừng nhận phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ trung thành với Người.

Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn đều biết mình đang chờ gặp chàng rễ và mong được vào dự tiệc với Người. Tuy nhiên, các cô không biết giờ chàng rễ đến, năm cô khôn ngoan biết chắc chàng rễ sẽ đến nên đã chuẩn bị sẵn sàng. Khi chàng rễ đến, tất cả đều muốn được đón chàng rễ vào dự tiệc. Thế nhưng, 5 cô khờ dại vì không chuẩn bị trước nên không có dầu thắp đèn để đón chàng rễ! Chúng ta biết cuộc đời này có hạn và chúng ta sẽ phải tiến đến đời sau, nhưng có một số người lại không lo chuẩn bị cho cuộc sống đời đời, chưa lo làm việc lành dù được Chúa nhắc nhở thường xuyên.

Nhiều người vì không muốn cực khổ nên không chịu học hỏi, không muốn phục vụ, không dệt nên một cuộc đời có ý nghĩa, không cố gắng sống tốt nên mất luôn cả đời này và đời sau. Để biết đúng hay sai, chúng ta hãy trở về với lòng mình mình và cầu nguyện với Chúa. Lúc đo, lương tâm chúng ta sẽ mách cho chúng ta biết mình như thế nào, đang được dồi dào ơn nghĩa Chúa hay đang sống èo uộc vì thiếu sót bổn phận với Chúa, với tha nhân hay với chính mình. Khi chúng ta không lo tròn bổn phận thì lương tâm trách móc, khi chúng ta làm điều lành thì tâm hồn bình an. Ai chểnh mảng bổn phận trong đời sống, thì trong giờ chết có đủ công phúc để vào nước Trời không? Vậy, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa và thực hành đầy đủ, làm tròn mọi bổn phận trong cuộc sống trong niềm Tin Cậy Mến. Nếu Chúa có đến chậm thì chúng ta cũng hãy kiên tâm giữ đạo, không được buông lơi, nhưng biết lo làm việc lành phúc đức và việc bổn phận hàng ngày. Nếu chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì giờ Chúa đến bất ngờ cũng sao, vì chúng ta luôn luôn ở trong ân nghĩa Chúa.

Chúng ta đừng bắt chước năm cô khờ dại. Các cô này đã dại đến cả hai lần: từ đầu các cô đã không mang dầu theo và khi chàng rễ đến muộn cũng không biết lợi dụng thời gian chờ đợi để sắm sửa cho đủ dầu. Chính sự chểnh mảng không đem dầu theo đã khiến các cô bị loại trừ, không còn là người trong tiệc cưới với chàng rễ nữa. Những ai không sống đạo tốt và không lo cho phần rỗi đời sau của mình thì cũng vậy.

Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong đợi chờ, cho đến giờ chết của chúng ta. Nhưng chúng ta không đợi chờ cách thụ động mà phải tranh thủ lập công, đền tội, luôn trung thành với ơn nghĩa Chúa. Đến lúc chết mới sám hối thì không còn kịp nữa! Khi cửa đã đóng lại thì muôn đời không vào được nữa, những lời van xin trong giờ phán xét là không còn giá trị và Chúa sẽ không đón nhận.

Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến, vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức, trung thành sống trong ơn nghĩa Chúa và tin tưởng phó thác vào sự quan phòng và tình thương của Chúa.

 

  1. Chú giải của Fiches Dominicales

DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:

Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, “diễn từ về thời cánh chung”. Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: “khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.

Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): “Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.

Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Và kết luận: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!

Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:

Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.

Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:

Hồi l: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ “được mời dự tiệc cưới”. Cầm đèn “ra đi đón chú rể”. Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô “thiếp đi rồi ngủ cả”.

Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình “nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi”. Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi nào là “biết phòng xa”, “thận trọng”, “khôn”. Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là “khôn” những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này “vừa mang đèn, vừa mang dầu theo”. Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là “dại”. Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là “dại” kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ?

Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: “Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi’ với!, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: “Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa… Bấy giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).

Màn kết: với lời khuyên: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”. Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus l’histoire vraie”, Centurion, trang 383).

  1. Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:

Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước “giờ” chú rể đến, “ngày” Chúa trở lại. Cl Tassin nhận xét: “Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa”. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ “nhận ra” thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là “người khôn”, theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp: “Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.

Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày” (“L’evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).

BÀI ĐỌC THÊM

  1. “Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché, Desclée de Brouwer, trang 335- 336).

“Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo… Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”. Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: “Kìa chú rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì… “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào…” Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (25,40).

  1. “Con ve và con kiến” (Bible du dimanche, trang 339-340).

“Một đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự “khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa… và là chuyện quan trọng hơn cả.

Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi”.

 

home Mục lục Lưu trữ