Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 67
Tổng truy cập: 1361355
VIỆC TÔNG ĐỒ
VIỆC TÔNG ĐỒ
Bây giờ chúng ta hãy thử nhắm mắt lại và tưởng tương ra một cánh đồng bao la với những bông lúa chín vàng, nhấp nhô theo gió. Mùa màng thật trúng, thế mà vì không có thợ gặt, nên những bông lúa ấy bị rơi rụng. Và chúng ta tiếc xót cho bao công lao vất vả, bao mồ hôi nước mắt đổ xuống trên ruộng đồng.
Có một chiếc thuyền đánh cá ra khơi vào một đêm tối trời, chẳng may gặp dông bão. Những con sóng bạc đầu cùng với những trận gió giận dữ của trận cuồng phong đã làm cho con thuyền ngâp nước và chìm dần, Những người trên thuyền hốt hoảng và tuyệt vọng. Có lẽ chúng ta không bao giờ thấy được một cảnh tượng kinh hoàng và khiếp hãi như vậy.
Đã hai ngàn năm, Chúa Giêsu đến trong trần gian và công bố Tin mừng Phúc âm, thế nhưng nhân loại vẫn còn chìm trong tăm tối, vẫn còn là như một cánh đồng bát ngát thiếu những người thợ lành nghề là những vị tông đồ nhiệt thành đến gặt những bông lúa chín vàng, rồi chất vào kho lẫm của Thiên Chúa. Cho tới ngày hôm nay, nhân loại vẫn còn kêu cứu giữa những cơn phong ba bão táp trần gian. Hằng tỷ người vẫn còn lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Mỗi phút giây có hàng ngàn người chết đi mà vẫn chưa nhận biết Đức Kitô. Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn nói lên một thực trạng đen tối: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn là một lệnh truyền thôi thúc chúng ta lên đường, thôi thúc chúng ta dấn thân cho việc tông đồ truyền giáo: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Thế nhưng nói đến việc tông đồ, chúng ta thường mường tượng ra những vị thừa sai rời bỏ quê hương để đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh mà truyền bá giáo lý của Chúa cho những sắc dân man di mọi rợ… hay ít nữa, chúng ta nghĩ rằng đó là việc dành riêng cho các linh mục, tu sĩ, chứ còn chúng ta, nhưng người giáo dân bình thường, suốt ngày những quần quật làm ăn, kiếm sống cho bản thân và gia đình thì làm sao có thời giờ dành cho những công việc truyền giáo. Thế nhưng việc tông đồ không phải là việc dành riêng cho một số người nào đó, trái lại còn là bổn phận của mỗi người chúng ta, còn là việc chung của mọi phần tử trong Giáo Hội, bởi vì bất cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều có thể và phải là những tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu. Vậy để trở thành những tông đồ nhỏ, chúng ta phải làm gì?
Phương thế thứ nhất để trở nên tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy cầu nguyện và hy sinh. Thực vậy, cầu nguyện là phương thế thông thường để lãnh nhận ơn Chúa. Và hy sinh cũng là một phương thế không kém hiệu nghiệm. Chúa Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nếu không có đổ máu, thì không thể có chuyện tha tội. Vì thế, chúng ta có thể cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ bằng cách hòa trộn những giọt máu hy sinh của chúng ta với giòng máu cao cả của Chúa Giêsu trên thập giá.
Giữa bốn bức tường nhà kín, thánh nữ Terêxa đã âm thầm cầu nguyện và chịu đựng những hy sinh thay cho các vị thừa sai, để những cố gắng của Giáo Hội trên cánh đồng truyền giáo gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Chỉ mình Chúa mới biết được những ơn ích mà thánh nữ đã thực hiện. Nhưng chúng ta có thể nhân ra tầm mức rộng lớn khi thấy Giáo Hội tuyên phong thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Theo tương truyền thì số người trở lại do lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nữ cũng đông không kém những người trở lại của thánh Phanxicô Xaviê, một người đã dành suốt cả đời mình lăn lộn trên cánh đồng truyền giáo tại Á châu.
Năm 1683, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nữ Magarita và xin thánh nữ cầu nguyện cho những tội nhân biết ăn năn trở lại. Ngài nói với thánh nữ:
- Một linh hồn công chính có thể xin ơn tha thứ cho hàng ngàn kẻ tội lỗi.
Khi hiện ra tại Lộ Đức, Mẹ Maria cũng đã nói với chị Bernadette:
- Phải cầu nguyện cho các tội nhân.
Cùng với lời cầu nguyện, chúng ta hãy thêm vào đó những hy sinh. Có một ông đại úy hồi hưu sống trong tình trạng khô khan nguội lạnh. Khi ông lâm bệnh nặng và không còn hy vọng sẽ qua khỏi, vị linh mục mời ông xưng tội, nhưng ông đã từ chối một cách dứt khoát. Lần sau, vị linh mục lại tìm đến nhưng người ta đã cấm không cho vào. Trở về nhà, bỗng vị linh mục nảy ra một ý định là dâng một gìơ kinh và hy sinh một ly cà phê thường lệ ở bữa ăn sáng để cầu nguyện cho bệnh nhân. Và vị linh mục đã thực hiện như thế. Một vài ngày sau, điện thoại reo vang, người ta mời vị linh mục đến giải tội cho ông đại úy vì ông ta đã đổi ý.
Sự hy sinh tự nó không quan trọng, nhưng sẽ đem lại những hậu quả to lớn, nếu chúng ta biết hy sinh vì Chúa, biết kết hiệp với những đớn đau của Chúa Giêsu trên thập giá.
Những chiếc rễ mặc dù nhỏ bé và chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại rất cần thiết vì chúng hút nhựa sống từ lòng đất làm cho cây cối được lớn lên, đâm bông và kết trái. Cũng thế, những lời cầu nguyện và hy sinh là như những chiếc rễ nhỏ làm cho Giáo Hội không ngừng được phát triển và sống động.
Phương thế thứ hai để trở thành tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy làm gương sáng. Thực vậy muốn rao giảng Tin mừng, chúng ta không cần phải làm Linh mục hay tu sĩ, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta vì như tục ngữ đã bảo:
- Lời nói như gió lung lay,
việc làm như tay lôi kéo.
Biết đâu nhờ đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta mà làm cho người khác trở về cùng Chúa, hay ít nữa cũng đặt ra trong đầu óc họ một câu hỏi: Tại sao chúng ta lại dễ thương đến thế?
Ngày kia, thánh Phanxicô Assie gọi một thày dòng đến và bảo:
- Này thày, chúng ta cùng nhau đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra đi, rảo qua các đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng bỡ ngỡ và hỏi:
- Thưa cha, bao giờ chúng ta mới đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
- Chúng ta đã đi giảng đạo rồi đó.
Thày dòng thắc mắc:
- Lạ thật, mới chỉ đi một vòng phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân đã cắt nghĩa:
- Chúng ta đã giảng đạo bằng chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của chúng ta.
Thế giời hôm nay không thiếu những bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế nhưng những bài diễn văn ấy là như tiếng nhạc chúng ta nghe thoảng ngoài tai, nhưng không đủ sức thúc đảy chúng ta hành động. Thế giới hôm nay không thiếu những nhà hùng biện tài ba, nhưng thiếu rất nhiều nhưng người làm gương sáng.
6.Thương dân
Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có người đứng đầu phần đời cũng như phần đạo. Thực vậy, chính quyền thuộc về đế quốc Rôma. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê, Sađốc, và bọn biệt phái.
Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrô đe đại đế người xứ Dumê phía nam Do thái. Phái Sađốc thuộc giòng dõi thượng tế Sađốc từ vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của đền thờ và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột nhân dân. Tuy họ giữ luật Môisê nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hóa thần tượng Hy Lạp và Rôma. Trái lại, bọn Biệt phái hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân. Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisê. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là tiến sĩ bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng. Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối và thù hận nhau của phái Sađốc và Biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “Mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ, ít nữa là phải thương dân.Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “Quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Thương dân, tránh thái độ tời ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi cụa họ và chỉ tìm lợi lộc cá nhân, đến nỗi họ đã biến “nhà Cha ta thành chọ búa, thành hang trộm cướp”. Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thày lăn lộn với dân chúng nghèo khổ, bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị sói rừng hãm hại trong tội ác, đem tin mừng nước trời đến cứu chữa họ. Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những biệt phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sáng vác gánh nặng, để gánhnặng của người dân trở nên êm ái nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng của tội lỗi. Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống để cứu cuộc nhiều người.
7.Thợ gặt
Thánh Phanxicô Xaviê, trong một bản tường trình đã viết như sau:
“Nhiều người ở đây đã không thể trở thành Kitô hữu, chỉ vì chẳng có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ. Con cảm thấy bị thôi thúc muốn đến các đại hoạc Âu Châu, đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris, để la lên, như một gã điên, cho những người giàu trí thức hơn là thiện chí, yêu cầu họ xử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích. Phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ. Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động kêu lên:
- Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con phải làm gì?”
Lá thư trên khiến cho chúng ta nhớ tới lại Chúa phán:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2).
Lời phán dạy này, cho đến hôm nay, vẫn còn mang tính cách thời sự nóng bỏng của nó. Tuy nhiên, trước khi đi vào sứ mạng truyền giáo, chúng ta nên tìm hiểu về mùa gặt và thợ gặt.
Vậy trước hết mùa gặt là gì? Tôi xin thưa mùa gặt, hay lúa chín là tất cả những người hiện đang tìm kiếm Chúa, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm mục đích và ý nghĩa cuộc đời.
Còn thợ là những ai? Tôi xin thưa là tất cả chúng ta, bởi vì mỗi người chúng ta đều có thể và phải là một người thợ gặt được sai đến trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, tại sao ngày hôm nay lại có quá ít thợ gặt như vậy?
Lý do thứ nhất là vì chúng ta không thực hành điều Chúa đã truyền: Hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2). Thực vậy, có bao nhiêu người trong chúng ta, thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn các bạn trẻ để họ nghiêm chỉnh đáp trả ơn gọi của Chúa. Có bao nhiêu người trong chúng ta thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn những người đã lập gia đình để họ nghiêm chỉnh dấn thân vào mùa gặt bằng lời cầu nguyện và bằng những giúp đỡ tài chính hoặc làm bất cứ việc gì.
Lý do thứ hai khiến ngày nay có ít thợ gặt liên quan đến các gia đình. Liệu gia đình chúng ta có còn là thửa vườn ươm trồng ơn gọi hay không? Là những bậc cha mẹ, chúng ta đã nói cho con em chúng ta về việc chọn lựa đời sống tu trì như thế nào?
Sau cùng, lý do thứ ba liên quan đến cá nhân mỗi người chúng ta, đó là chúng ta có sẵn sàng hiến dâng cho Chúa trong nếp sống tu sĩ, khi chúng ta còn là một thanh niên hay không? Còn nếu như đã lớn tuổi thì liệu chúng ta đã làm gì để dấn thân vào mùa gặt. Có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc phải làm một điều gì đó để trực tiếp giúp cho việc truyền giáo.
8.Ánh mắt cứu độ
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 9, 36 – 10,8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt. Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu không đến. Người ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi như chạy để tranh thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện, thông cảm. Và vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm cảnh chung quanh, ngay trước mắt ta.
Chúa Giêsu thì không như thế. Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám đông thoáng qua thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã nhìn kỹ từng người, thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một đám đông, Chúa vẫn có thời giờ nhìn kỹ từng người, vì Chúa quan tâm đến số phận của từng người.
Khi nhìn ngắm kỹ lưỡng, sẽ hiểu rõ. Khi hiểu rõ sẽ dễ chạnh lòng thương. Tuy nhiên từ ánh mắt đến trái tim là một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa. Trái tim con người thật khó hiểu. Khi mở ra thì bao la ngàn trùng. Nhưng khi khép lại thì vô cùng chật hẹp. Một hạt bụi cũng khó lọt qua. Khi thao thức thì vô cùng nhanh nhậy, chỉ một thoáng nhìn, chỉ một âm thanh mơ hồ cũng đã đủ làm xao xuyến, rộn ràng. Nhưng khi ngủ yên thì vô cùng chai cứng, chậm chạp, dù có đập vào mắt, dù có la vào tai, cũng lạnh lùng dửng dưng. Trái tim Chúa Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người.
Tình thương của Chúa Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viển vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Người lập tức an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng. Việc Người an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn mười hai Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy tôi ba bài học.
Bài học thứ nhất: hãy biết nhìn người khác bằng ánh mắt cảm thông. Ở Việt Nam phong trào đô thị hoá ngày càng mạnh. Các thành phố ngày càng phình ra vì dân cư từ quê đổ ra tỉnh tìm đường làm ăn sinh sống. Thành phố trở nên đông đúc chật chội. Người sống trong thành phố đang trở thành những con số vô danh, chìm mất giữa đám đông vội vã. Không ai biết ai. Không ai nhìn ai. Không ai quan tâm tới ai. Vì ai cũng bận lo cho bản thân mình. Hãy nhìn các đám đông trong chợ búa, ở trường học, ở công sở. Hãy quan sát đám đông trongvùng kẹt xe hay ở ngã tư đèn đỏ. Có biết bao linh hồn cô đơn buồn khổ. Có biết bao thể xác đang bị bệnh tật bào mòn. Có biết bao trái tim đang tan nát vì thất vọng. Hãy nhìn và hãy cảm thông như Chúa Giêsu nhìn đám đông và cảm thương họ.
Bài học thứ hai: hãy có một trái tim biết cảm thương. Đời sống ngày càng vất vả. Nhu cầu ngày càng nhiều. Vì thế con người ngày càng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân hoặc gia đình mình. Chính vì thế trái tim thường dễ khép lại, trở thành lạnh lùng, xơ cứng. Khi trái tim xơ cứng, ta không thể đón nhận được những thông tin từ ánh mắt đem lại. Và con đường từ ánh mắt đến trái tim trở thành muôn trùng diệu vợi. Hãy mở lòng ra. Hãy biết rung động. Hãy để lòng mình thổn thức nỗi đau của người. Hãy biết khóc thương những số phận hẩm hiu. Hãy âu lo cho những cuộc đời bế tắc. Hãy để cho niềm cảm thương dâng tràn trái tim như trái tim Chúa Giêsu đã cảm nghiệm.
Bài học thứ ba: công cuộc truyền giáo phải bắt đầu bằng tình thương. Đức Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người đã sai Chúa Giêsu xuống trần gian. Chúa Giêsu, vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, đã sai các môn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thết là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu nơi trái tim Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, nhân rộng trong cuộc đời. Vì thế người làm nhiệm vụ truyền giáo không bắt đầu bằng rao giảng, cũng không bắt đầu bằng cử hành bí tích mà phải bắt đầu bằng yêu thương. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.
Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Ta hãy học theo gương của chúa Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.
Lạy trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Bạn có để giờ nhìn kỹ những người thân trong gia đình không? Bạn có thực sự hiểu hết những uẩn khúc trong tâm hồn những người thân yêu không?
2) Mỗi khi gặp một hoàn cảnh đáng thương, bạn có cụ thể làm ngay một việc gì để giúp đỡ không?
3) Sống chan hoà yêu thương là truyền giáo. Bạn nghĩ gì về điều này?
9.Thời giờ cấp bách
Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm ba phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên Chúa thương xót, giống như một mùa gặt bao la, nhưng thợ gặt lại thiếu, sau đó Ngài lại sai các môn đệ đi làm mùa gặt ấy. Cuối cùng Ngài dạy cho các ông biết phải làm gì. Chúng ta xét phần thứ nhất:
1) Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt thì ít…
Theo thói quen, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh thông thường để giảng dạy một giáo lý cao siêu. Mùa màng tốt đẹp là một ơn lành quý giá đối với người Do thái và để mất một vài nắm hạt cũng được gọi là một thiệt hại đáng tiếc. Vì vậy lúc đó cần có nhiều nhân công để thu hoạch cho đúng thời. Nhân loại giống như mùa gặt ấy và các nhân công tinh thần có bổn phận tập họp người ta vào Vương Quốc thì ít. Do đó cần phải xin Chủ mùa, Cha nhân loại, sai các nhân công cần thiết là các tông đồ đến với nhân loại ấy.
2) Vậy hãy cầu xin Chủ mùa sai thợ đến gặt đồng lúa của Ngài.
Tại sao Chúa Cha không tự mình sai nhân công đi? Có lẽ vì hai lý do: trước hết vì Chúa đã quyết định rằng ơn cứu độ phải chuyển qua trách nhiệm của con người, nghĩa là thông qua dân Do thái trước kia, thông qua Giáo Hội ngày nay. Giáo Hội chịu trách nhiệm về ơn cứu độ, ý thức tầm mức bao la của công việc, nên cầu xin Thiên Chúa cho có nhiều thợ loan truyền sự cứu chuộc. Ở đây chúng ta gặp mầu nhiệm của lời kinh cầu bầu. Giáo Hội liên kết với Chúa Giêsu để xin Chúa Cha ban ơn cứu độ cho mọi người. Lý do thứ hai, Chúa Cha muốn cho lời kinh của chúng ta tạo được một kết quả mà chúng ta ít khi nghĩ đến. Lời kinh giúp ý thức mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của điều khẩn cầu và chuẩn bị chúng ta thực hiện điều ấy. Khi cầu xin Chúa Cha sai các môn đệ đến thế gian, chúng ta hiểu được việc ấy hết sức quan trọng và chúng ta mở lòng ra để biết rằng, chính chúng ta phải làm tông đồ. Như thế người ta càng cầu xin, và càng là tông đồ càng cảm thấy cần cầu xin.
3) Phải mau lẹ thu mùa màng về, thời giờ thúc bách.
Trong Kinh Thánh có nhắc đến bằng nhiều cách bổn phận phải biết dùng thời giờ để hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở: Nước Thiên Chúa đã gần kề. Phải xin Chủ mùa sai thợ đến không những vì mùa màng đầy tràn, mà còn vì thời giờ cấp bách, hạn kỳ ngắn ngủi. Các vị tông đồ chân chính buồn lòng khi thấy trong Giáo Hội số thời giờ bỏ phí để bàn luận mọi thứ vấn đề ít hay nhiều giả tạo, trong khi nhân loại là một mùa gặt đang sắp hư hại. Một lần nữa lại thấy nhu cầu phải cầu nguyện, vì chỉ có sự cầu nguyện cho thấy các khẩn cấp chân chính. Chúng ta không xét đoán giá trị thực của những tìm kiếm và thử nghiệm mục vụ, nhưng cần tự hỏi chúng ta có lo cầu xin Chúa Cha sai những tông đồ đến thế giới chúng ta không? Lời cầu nguyện có biến đổi chính chúng ta nên những tông đồ ý thức rằng thời giờ thúc bách hay không?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam