Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1363379

VỌNG VÀ HY VỌNG

VỌNG VÀ HY VỌNG

 

“Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).

Hạnh Phúc, Bình An và Hy Vọng, luôn là điều mà ta mơ ước đạt được trong nhịp sống hằng ngày. Đặc biệt là Hy vọng.

Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:

Trong một căn phòng nhỏ khang trang và ấm cúng. Vào một buổi tối, chủ nhân căn phòng thắp lên 3 ngọn nến. Ngọn nến thứ nhất sắc màu đỏ, mang tên Hạnh Phúc, ngọn nến thứ 2 sắc màu vàng mang tên Bình An, và Hy Vọng mang sắc màu xanh là tên của ngọn nến thứ 3.

Sau khi đã thắp sáng ba ngọn nến và đặt chúng gần nhau, chủ nhân lui ra. Điều đầu tiên là cả ba ngọn nến đều cảm thấy tự hào vì với ánh sáng tuy nhỏ bé, nhưng rọi sáng cả một gian phòng, hơn nữa hơi nóng từ ánh sáng của chúng làm ấm lên giữa tiết trời đông giá. Sau niềm tự hào đó, ba ngọn nến cùng tâm sự, kể cho nhau nghe những điểm nổi bật của bản thân.

Đầu tiên, ngọn nến Hạnh Phúc cất tiếng tâm sự với hai bạn rằng:

– Này hai bạn, đối với cuộc sống của con người, mình rất quan trọng, vì không có mình thì những nước mắt và khổ đau, luôn đi theo con người. Hơn nữa mình rất mạnh mẽ, không có gì có thể dập tắt mình được. Vì thế chủ nhân đã cho mình mang sắc màu đỏ.

Ngọn nến Hạnh Phúc vừa dứt lời, ngọn nến Bình An tiếp lời:

– Cuộc sống của con người, nếu không có mình, họ luôn cảm thấy bất an, lo lắng… đời sống của họ như chìm vào bóng tối, mình cũng như bạn rất khỏe và rất mạnh mẽ, mình có thể chịu đựng và luôn sáng tỏ dẫu có phong ba bão táp ập đến. Mình mang màu sắc vàng là vì thế.

Cả hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An đều cảm thấy tự hào về những gì mình bộc bạch, tâm sự. Riêng ngọn nến Hy Vọng, sau khi nghe hai bạn tâm sự. Ngọn nến Hy Vọng cất tiếng nhỏ nhẹ rằng.

– Hai bạn ơi! Hai bạn đều ngang tài ngang sức với nhau, riêng mình thì chỉ là bóng mờ mà thôi, nhưng mình nghĩ, trong nhịp sống của con người, nếu vắng bóng hai bạn, mà không có mình kề bên thì chắc có lẽ sẽ tồi tệ biết là dường nào phải không? Tuy mình yếu ớt và mờ nhạt, nhưng mình tin chắc mình sẽ chịu đựng được, khi gặp phải những làn gió nhẹ cũng như mạnh, màu sắc xanh của mình muốn nói lên điều đó.

Ngọn nến Hy Vọng vừa dứt lời, hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An cảm thấy đắc ý với những gì mình đang có, cùng cất lên tiếng cười sảng khoái. Bỗng một làn gió thổi ngang, đầu tiên là ngọn nến Hạnh Phúc vụt tắt chỉ còn lại làn khói mỏng manh, kế đến là ngọn nến Bình An cùng chung số phận, riêng ngọn nến Hy Vọng, tuy chao đảo nhưng ánh sáng vẫn cứ leo lét rồi bừng sáng khi cơn gió đi qua.

Sau khi được chủ nhân thắp sáng lại nhờ ánh sáng của ngọn nến Hy Vọng, ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An quay sang cám ơn ngọn nến Hy Vọng và nói: “Cám ơn bạn rất nhiều, may mà có bạn, tụi này lại được thắp sáng ”.

Vâng! Chính niềm hy vọng là động lực giúp ta vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống.

Trong cuộc sống thường nhật, dù là ai, lứa tuổi nào; trình độ cao, thấp, giàu hay nghèo, đời sống tận hiến, hay giữa đời thường… Đều nuôi và dưỡng niềm hy vọng như:

Nơi những bậc làm cha làm mẹ, luôn hy vọng gia đình ấm êm, hạnh phúc, con cái khôn lờn, khỏe mạnh và nên người.

Với tuổi trẻ, luôn hy vọng một tương lai rực sáng, với những thành công cả về tri thức, công việc, tình yêu.

Những bậc cao niên, sau một thời bương chải, giờ gối mỏi tay run, luôn hy vọng có sức khỏe, con cháu sum họp kề bên, để vui hưởng tuổi già trong bình an và hạnh phúc.

Với những hoàn cảnh như: Thất nghiệp, nợ nần, thiếu thốn, bệnh tật hiểm nghèo, bất hòa, chia rẽ… luôn hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”.

Khi những cám dỗ của tiền, quyền, danh lợi, lạc thú… đánh gục những thành viên trong gia đình, và ngay như chính bản thân, luôn hy vọng một ngày nào đó, người ngã quỵ sẽ đứng lên để vượt thắng cám dỗ.

Đời người hữu hạn, luôn hy vọng sau khi từ giã cuộc đời trần thế, được vui hưởng phúc Thiên Đàng…

Tất cả những niềm hy vọng đó, đều được thắp sáng nhờ một Đấng mà khi xưa dân Do Thái đã ngày đêm ngóng đợi, không chỉ dân Do Thái xưa, nhưng toàn thể nhân loại qua mọi thời đại, trong đó có ta vẫn luôn khắc khoải mong chờ. Đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn hạnh phúc, bình an và luôn thắp sáng niềm hy vọng cho những ai đón nhận Ngài là Cứu Chúa của mình. Đây chính là tâm tình sống mùa vọng.

Nhưng để thực sự nhận ra Thiên Chúa qua Đức Kitô là Cứu Chúa, Đấng thắp sáng niềm hy vọng cho ta trong cuộc sống, là điều không phải dễ, những lúc yên hàn đã khó, gặp phải những lúc đắng cay, thử thách, điều này còn khó gấp vạn lần. Hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả minh chứng cho ta thấy.

Là một ngôn sứ vĩ đại và cuối cùng của thời Cựu Ước, một Ngôn Sứ mà chính Đức Kitô đã nói về ông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt11,11). Nơi dòng sông Giođan, chính ông Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, mạnh dạn, giới thiệu một con người mang tên Giêsu, xuất thân từ làng quê Nararét, sinh trưởng trong một gia đình nghèo hèn là Đấng Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đây chính là Đấng mà các Ngôn Sứ khi xưa đã tiên báo, là niềm đợi trông và hy vọng của toàn dân Do Thái.

Như ta đã biết khi ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, niềm đợi trông, hy vọng, những gì ông Gioan Tẩy Giả đã từng giới thiệu như bị xáo trộn và chợt lu mờ, ông không dám chắc lời giới thiệu của mình đúng hay sai, qua việc ông sai đệ tử đến gặp và hỏi Đức Kitô như Tin Mừng đã trình thuật: “Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt.11,2-30).

Để thắp sáng lên niềm đợi trông và hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, Đức Kitô đã không trả lời đúng hay sai Ngài trả lời theo như những gì mà trước đây Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt11,4-6). Câu trả lời bao hàm sự nhắc khéo ông Gioan hãy mạnh dạn và đừng sợ, hãy làm chứng cho sự thật dù có phải hy sinh tính mạng, niềm mong đợi và hy vọng của dân Do Thái và của chính ông đã và đang thành sự nơi Đức Kitô

Tuy không giáp mặt, chỉ bằng lời nhắn gởi, Đức Kitô đã thắp sáng niềm hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, để rồi ông mạnh dạn bảo vệ sự thật, bảo vệ luân lý và tiếp tục làm chứng cho Đức Kitô. Điều này đã đưa ông đến cái chết qua việc trả thù của người phụ nữ lăng loàn Hê-rô-đi-a (Mt14,3-12).

Ta đang sống trong mùa vọng, đặc biệt trong tuần lễ thứ 3, với phẩm phục màu hồng của vị chủ tế, Thiên Chúa qua Giáo hội mời gọi ta hãy sống trong tâm tình vui lên và hy vọng Đức Kitô đã đến, sẽ đến và đang đến, chính Ngài sẽ đem lại cho ta Hạnh Phúc và Bình An, ban tặng cho ta hạnh phúc Nước Trời, Ngài sẽ thắp sáng niềm Hy Vọng cho ta, dẫu ta đang phải bị những cám dỗ bủa vây và ngã quỵ; hay ta đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất; đang phải chống trả với những khổ đau của bệnh tật, nợ nần, đói nghèo, thất nghiệp, bất hòa chia rẽ. Chính Ngài là chất xúc tác là sức mạnh, là động lực cho ta đứng lên và tiến bước.

Ngày xưa ông Gioan Tẩy Giả tuy sống cảnh tù đày, không có cơ hội chứng kiến, giáp mặt Đức Kitô, nhưng Lời của Đức Kitô đã giúp ông lấy lại tất cả sức mạnh, niềm hy vọng tưởng chừng vụt tắt giữa quyền lực của thế gian. Đây chính là bài học cho ta trong cuộc đời Kitô hữu, đặc biệt trong bổn phận và trách nhiệm làm chứng và giới thiệu Đức Kitô cho mọi người, nhất là những người chưa có khái niệm gì về Đức Kitô. Chính Đức Kitô luôn ở bên ta, với ta nơi bí tích Thánh Thể, Lời Ngài nói với ta qua Tin Mừng, Ngài hiện diện quanh ta qua những người anh em.

Để nhận ra Đức Kitô và lời của Ngài, Như ông Gioan xưa, trước tiên là ta lui vào cõi lặng, lui vào hoang địa, sống đời sống khiêm hạ, đơn sơ. Hình ảnh của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse là tấm gương sống động nhất cho ta noi theo, trong việc đón nhận và lắng nghe Lời của Đức Kitô trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, kế đến là ta sống trong tâm tình mà Thánh Giacôbê nhắn nhủ ta qua thư của ngài: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm… Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc.5,7-11).

Ước chi nhờ ơn Chúa giúp, ta có được đức tin sắt đá, sự tỉnh thức, lòng kiên nhẫn, niềm hy vọng. Đây chính là những điều cần thiết giúp ta hân hoan đón nhận tất cả những phúc lành của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên ta, như viễn cảnh mà Ngôn Sứ Isaia xưa đã giới thiệu: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).

Lạy Chúa! Con đang sống trong tuần lễ mà Giáo Hội là Mẹ mời gọi con hãy vui lên, hãy hy vọng vì Chúa đã đến gần. Xin Chúa giúp con biết dành thời gian tâm sự với Chúa nơi bí tích Thánh Thể, chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa nơi Tin Mừng. Nhờ đó mà niềm vui và niềm hy vọng của con luôn được Chúa thắp sáng bằng tình yêu của Chúa ngay bây giờ và mãi về sau. Amen.

 

52.     Ngài là ai? – Lm Phaolô Nguyễn Văn Đông

Khác hẳn với các xã hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất cho những người nghèo và khiêm tốn. Còn người lớn nhất sẽ là những người có tâm hồn rộng mở đón nhận tất cả mọi người. Đó là những người đã được thanh luyện qua những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua trong gần hết cuộc đời mình.

Sách Tiên tri Is 35, 1-6a.10

Trong lúc Assyri tàn phá Vương quốc Giu đa và lưu đày Vương quốc Israen, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến Cứu độ. Dân Thiên Chúa sẽ phải trải qua những đau khổ trong một cuộc xuất hành mới trước khi được Thiên Chúa ban cho sự sống phong phú.

Thánh Vịnh 145

Khác với những kẻ nắm quyền hành trên trần gian, Thiên Chúa là nơi nương tựa vững chắc mà tất cả những kẻ bé nhỏ có thể tin cậy

Thư Gia cô bê 5, 7-10

Trong thư, Thánh Gia cô bê mạnh mẽ nhắc lại rằng trong Giáo hội, những kẻ bé nhỏ và những người nghèo hèn không thấp kém hơn những người giàu. Ngài khuyên nhủ phải kiên trì và tin tưởng như người gieo giống.

Tin mừng: Mt 11,2-11

Ngữ cảnh

Trong tù, nghe thuật lại những gì Chúa Giê su đã làm, Gioan hoang mang tự hỏi: Phải nghĩ về Ngài như thế nào? Ngài có thật là Đấng đã được loan báo không? Những nghi vấn đặt ra về Chúa Giê su, một điều không hề có trước đây, đã khởi đầu một khúc quanh trong Tin Mừng Mát thêu. Các chương đi trước trình bày Chúa Giê su đầy quyền năng trong việc giảng dạy (cc.5-7), làm phép lạ (8-9) cũng như trong việc sai các Tông đồ truyền giáo (c.10), thật khác xa với hình ảnh một vị Thẩm phán mà người ta được loan báo (3,101-2). Bây giờ, đã đến lúc đặt vấn đề về căn tính Mê sia của Chúa Giê su. Ngài có thật là đấng Mê sia không?

Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây:

– Nhập đề: câu hỏi Gioan đặt ra cho Chúa Giê su (11,2-3)

– Câu trả lời của Chúa Giê su (11,4-6)

– Chúa Giê su ca ngợi Gioan Tẩy giả (11,7-11)

TÌM HIỂU

Ông Gioan đang ngồi tù: Gioan thẳng thắn chỉ trích hành vi của Hêrôđê vì ông ta đang sống bất chính với chị dâu của mình. Và hậu quả là ông đã bị Hêrôđê trả thù, và bị tống giam trong ngục.

Thầy có thật là Đấng phải đến không?: đối với Gioan, đấng phải đến là một đấng đầy quyền uy (x. 3,11: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi). Một vị Thẩm phán đáng sợ, lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu diệt mọi tội nhân không ăn năn hối cải (x. 3,10-12) đúng theo truyền thống CƯ (x. Ml 3,1-3). Nhưng những gì ông biết về cách thức Chúa Giê su thi hành sứ vụ hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng mà ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó câu hỏi của ông khiến mọi người ngạc nhiên.

Hơn nữa có một tương quan mật thiết giữa câu hỏi của vị Tẩy giả và thân phận tù đầy của ông. Đấng Thiên sai mà người ta mong chờ sẽ đến giải cứu tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4,18; Is 61,1), ông chẳng phải là người đầu tiên được cứu thoát sao?

Các anh cứ về thuật lại cho Gioan: thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy tự mình tìm ra câu trả lời ngang qua những gì những dấu chỉ Ngài đã làm. Đó là con đường đưa con người đến đức tin.

Không vấp ngã vì tôi: dịch sát chữ: “hòn đá hay chướng ngại làm cho ai vấp té” chỉ tất cả những gì khiến cho người ta sa ngã trên con đường luân lí hay đức tin. Chúa Giê su thấy trước rằng cách trả lời của Ngài có thể làm cho Gioan thất vọng, vì hình ảnh của ông về Đấng Mê sia quá khác biệt với những gì Chúa Giê su đã thực hiện.

Về ông Gioan: Chúa Giê su khen ngợi ông Gioan: Ngài coi ông ngang hàng với các Tiên tri lớn nhất thời Cựu Ước và ca ngợi ông đã nghiêm khắc và kiên cường rao giảng Tin mừng. Đồng thời Ngài cũng cho thấy khoảng cách giữa vị Tiền hô và Đấng mà ông chuẩn bị con đường cho Ngài.

SỨ ĐIỆP

“Ngài có phải là đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?”. Đó là câu hỏi đầy khó khăn mà Gioan Tẩy giả đặt ra cho Chúa Giê su sau một thời gian dài nhìn thấy những gì Chúa Giê su đã làm. Thật vậy, khi làm phép rửa cho Ngài ở bờ sông Gio đan, ông đã thực sự xác tín rằng Ngài chính là Đấng Messia. Ông đã lớn tiếng nói cho mọi người biết điều ấy, và đồng thời loan báo rằng Đấng Messia sẽ nghiêm khắc thực hiện phán quyết của Thiên Chúa.

Thế rồi tháng ngày trôi qua, Gioan Tẩy giả đã bị cầm tù. Còn Chúa Giê su rời xa gia đình để bắt đầu sứ vụ. Và không có điều gì xảy ra như ông đã báo trước. Những lời giảng dạy và hành vi của Đức Ki tô không có gì giống với cuộc phán xử chung thẩm. Trái lại, Ngài đã qui tụ một nhóm người chài lưới quê mùa, thất học làm môn đệ; Ngài thường lui tới tiếp xúc với những người tội lỗi và những kẻ tai tiếng. Điều ấy khiến Gioan Tẩy giả tự nhủ: mình có lầm về đấng Messia không? Ngài có phải là Đấng mà thiên hạ đợi trông không? Ông nghi ngờ về chính những gì mình đã loan báo.

Cách thế tốt nhất để biết rõ, là đi hỏi. Ông mong muốn được Chúa Giê su soi sáng, giúp ông thấy rõ hơn về sứ mạng của Ngài. Nên ông quyết định sai một vài môn đệ đến hỏi: “Thầy có phải là đấng phải đến không?”. Thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy nhìn và hãy tin: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo khổ”.

Tất cả những điều ấy dường như trái ngược hoàn toàn với bài đọc thứ nhất loan báo sự báo oán của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không báo thù bằng cách tàn sát con cái của Ngài. Thiên Chúa đến là để cứu thoát và nâng con người chỗi dậy. Đó là sự chiến thắng của sự lành trên sự dữ. Đấng Thiên Chúa mà Chúa Giê su loan báo là tình yêu và lòng thương xót. Đó là một tin mừng mà chúng ta tìm thấy trong các sách tin mừng và đem lại cho chúng ta niềm vui và hi vọng.

Rõ ràng Thiên Chúa đến là để cứu độ, nhưng với điều kiện là chúng ta cần đến và tiếp nhận Ngài. Vì thế, những ai cậy dựa vào sức mạnh, quyền thế, kiến thức hay của cải thì không thể tiếp nhận ơn ban giải thoát của Người. Những ai chỉ cậy vào sức riêng mình để tự giải thoát thực sự không cần đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà Gioan Tẩy giả đã loan báo cơn thịnh nộ dữ dội của Thiên Chúa dành cho họ. Án phạt sẽ được thi hành ngay tức khắc.Và sám hối là điều cần phải làm ngay.

Chúa Giê su không phủ nhận vai trò của ông Gioan Tẩy giả, trái lại khi đề cập đến ông, Ngài hết lời ca tụng ông. Nhưng vì ông là một tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân ước, nên Chúa Giê su kết luận rằng người nhỏ nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông vì thuộc về Giao Ước mới.

Tin mừng mạc khải cho chúng ta một khuôn mặt khác của Thiên Chúa. Quả thật, Người là đấng toàn năng, nhưng đó không phải là sự toàn năng đáng sợ của một người khổng lồ, mà là sức mạnh của một tình yêu không biên giới. Ngài không đến để tiêu diệt, nhưng để ban cho chúng ta cơ hội để sám hối, vì Ngài không muốn một ai phải hư mất. Nước Thiên Chúa mà Ngài vừa loan báo dành cho tất cả mọi người. Đó là ơn ban không tốn phí và không đòi hỏi một công trạng nào về phía chúng ta.

Vì thế, Thiên Chúa báo thù bằng cách sai chính Chúa Giê su đến với chúng ta. Bằng những bước chân êm đềm, nhưng chắc chắn Ngài đến để mạc khải cho chúng ta thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể nhận ra Ngài nếu biết thay đổi cái nhìn về Ngài. Đó là điều quan trọng, vì Thiên Chúa của chúng ta không tương ứng với hình ảnh mà chúng ta có về Ngài. Chúng ta hình dung Ngài theo cách nghĩ của người thời nay, chỉ biết quan tâm đến những lợi ích cá nhân. Có người chờ đợi một vì Thiên Chúa kiểu ông già Nô ên, để xin ban cho mọi sự được an lành trong đời sống. Có người thì tưởng tượng một vì Thiên Chúa cảnh sát, dùng sức mạnh và áp chế lập lại trật tự trong thế giới đầy ích kỉ nầy, một vì Thiên Chúa sẽ ra tay uy quyền chận đứng mọi chiến tranh và trừng phạt những người từ chối chia sẻ.

Không, Thiên Chúa không phải là một vì Thiên Chúa tháo gỡ các khó khăn thay cho chúng ta và miễn cho chúng ta khỏi trách nhiệm. Một vì Thiên Chúa đích thật thì hoàn toàn khác: trong lễ Giáng sinh, Ngài hiện đến trong vóc dáng của một bé thơ bé bỏng, mềm yếu, một người không có gì để cho. Đôi tay nhỏ bé của Ngài không mang theo gì cả, hoàn toàn tùy thuộc và cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhưng khi giúp cho chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về phía Ngài, Ngài sẽ biến đổi trái tim chúng ta, giúp chúng ta cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc khi trao ban.

Do đó, sứ điệp lớn nhất của mùa vọng chính là một lời mời gọi đặt chúng ta trong tư thế tiếp nhận: đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi giấc ngủ mê. Thiên Chúa không ban tặng chúng ta một Vương Quốc làm sẵn nhưng đang hình thành. Chúng ta phải dọn một con đường cho Chúa đến trong chúng ta. Chúng ta đang sống trong một thế giới mang dấu ấn chiến tranh, hận thù, và thiếu hiểu biết. Và chính trong thế giới đó mà Chúa Giê su muốn gặp chúng ta, vì Ngài mang đến một tin vui: tình yêu của Ngài không ngừng ban tặng cho chúng ta. Ngài là nguồn suối đem lại bình an nội tâm. Nơi Ngài chúng ta học cách sống chung liên đới với nhau như anh chị em một nhà. Như thế mỗi người sẽ được nhìn nhận trong sự khác biệt và sự phong phú, sẽ phục vụ thiện ích cho mọi người.

Xin Chúa Ki tô mở mắt và tai chúng ta, xin Ngài đặt chúng ta trên đường đến với Ngài và đến với tha nhân; ước gì Tin mừng Ngài đã đến mang lại biến đổi thực sự đời sống chúng ta và cho thế giới.

 

53.     Đấng phải đến, đã đến – PM. Cao Huy Hoàng

Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê chung sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphê, anh ông ta. Và kết quả là ông bị giam trong tù.

Rõ ràng là Thánh Gioan không chỉ kêu gọi mọi người hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, mà còn chỉ rõ ra việc cần làm ngay, cần khắc phục chấn chỉnh ngay, mà không hề ngán sợ vòng ngục tù lao lý.

Việc Thánh Gioan ở tù, không phải là thất bại của vị ngôn sứ, nhưng là việc phải đến cho người dọn đường cho Chân Lý của Thiên Chúa. Thiên Chúa tôi luyện niềm tin và hy vọng của ngôn sứ của Ngài trong ngục tù trần gian.

Ngục tù trần gian có thể làm cho lòng người ta hoang mang nao núng, nhưng Thánh Gioan đã tìm được phương thế vượt qua điều ấy bằng cách sai các môn đệ mình gặp trực tiếp Chúa Giêsu. “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 3-6)

Nghe thuật lại thế nầy, thì chắc chắn Thánh Gioan sẽ liên hệ ngay tới lời tiên báo của Tiên Tri Is 35,1-6a, 10, và như thế, niềm tin của Ông và các môn đệ được Thánh Kinh soi dẫn và củng cố: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 4-6)

Đấng Cứu Thế, “Đấng Phải Đến, Đã Đến” là ông Giêsu quá tầm thường như thế, là một con người thật, sống giữa con người và sẻ chia những nỗi bi thương nhất của con người. Ngài đã sẻ chia cách cụ thể là đến thăm dân người, và thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa qua các phép lạ. Ở nơi Ngài, chúng ta gặp được bình an, niềm vui, và hạnh phúc mà con người trần gian không ban tặng được. Đó phải là niềm tin của mỗi chúng ta trong những ngày Mừng Đón Chúa Giáng Sinh.

Bởi vậy, Chúa nhật 3 mùa vọng là Chúa Nhật Hồng, một màu hồng của niềm vui Giao Duyên Trời với Đất, niềm vui của Đôi Tân Hôn mà chàng rể là Chúa Giêsu Kitô và hiền thê của Ngài là Giáo Hội, là chúng ta, là mỗi người. Một màu hồng hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc là được sống với Chúa Giêsu “Đấng Phải Đến, Đã Đến”. Và cụ thể niềm hạnh phúc ấy, là được sống trong Giáo Hội của Ngài, nơi đây, không chỉ là dung mạo, là khuôn mặt là hình ảnh của Chúa Giêsu mà còn là chính Chúa Giêsu đang tác động trong và qua Giáo Hội.

Bạn và tôi đều có thể đã có hơn một lần cảm nghiệm tuyệt vời về nỗi mong đợi “Đấng Cứu Thế” đến trong Giáo Hội, nơi các Bí tích, và trong cuộc đời

– Hơn một lần bạn và tôi cùng với cả bà con trong Giáo Xứ ước mong và khẩn xin có một Linh Mục đến để dâng Thánh Lễ, và ban các bí tích. Nhất là ở các Giáo xứ vùng sâu, vùng xa thì nỗi khát mong càng mãnh liệt hơn. Một lần như thế, cho chúng ta mỗi cảm thông sâu sắc với những nơi, đến hôm nay, vẫn còn một Mùa Vọng dài đôi ba chục năm, năm bảy chục năm mà chưa thấy bóng dáng “Đấng phải đến, đã đến”.

Hơn một lần, cảm xúc sung sướng trào dâng khi được đón Linh Mục Quản xứ Tiên khởi như đón chính “Đấng phải đến, đã đến”. Có người mừng đến rơi lệ vì cảm nghiệm được ơn Chúa đã thương đáp lại nỗi khát mong của dân Ngài. Và từ cảm nghiệm ấy, chúng ta sống được niềm vui của bao nhiêu giáo xứ, bao nhiêu con người thỏa niềm khao khát

– Gần hơn, thường xuyên hơn, chúng ta đã hồi hộp đợi chờ gặp được Đấng Cứu Thế nơi tòa Giải tội, để xưng thú tội lỗi, để quyết tâm sám hối, để được thứ tha và nhất là để tình yêu nên trọn vẹn.

– Và gần hơn nữa, lòng chúng ta thấy đói, thấy khát của ăn của uống Thường Sinh là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể.

– Hình ảnh “Đấng Phải Đến, Đã Đến” còn là hình ảnh của những con người đang đứng ngay trước cửa nhà mình, ngay trong cuộc sống thường ngày, nơi những người ta gặp, và nhất là nơi những người nghe và thực hiện công việc của Đấng Cứu Thế là yêu thương nhân loại. Cho dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân và kể cả những người bần cùng tội lỗi bệnh tật yếu đuối nhất trong nhân loại, khi đã đến với mỗi chúng ta, thì thiết nghĩ việc tiếp đón của chúng ta cũng phải đàng hoàng như tiếp đón “Đấng phải đến, đã đến”.

Một người bạn làm gương cho tôi việc nầy, là anh ta chọn cho mình câu “Đấng phải đến, đã đến” làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Và điều đã xảy ra là anh ta luôn sẵn lòng lịch sự, yêu thương và sẻ chia với hết mọi người. Anh ta có một cuộc sống bình an, hạnh phúc, vì anh ta không những tiếp đón “đấng phải đến đã đến” mà còn sống tinh thần của Đấng Cứu Thế là đem lại niềm vui cho mọi người.

Gần đây, trong Giáo Hội và ngay tại Giáo Hội Việt nam, lại trổ ra những tâm thức nghi hoặc, hoang mang, bất ổn, vẫn đặt câu hỏi với Giáo Hội rằng “Ông có phải đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác”. Xảy ra điều ấy, vì có tư tưởng nghi hoặc rằng người này, người kia, không phải “Đấng Nhân Danh Chúa Mà Đến”, nhưng lại là nhân danh mình hoặc nhân danh nhà nước thế gian mà đến.

Đáng tiếc thay, vì thiếu cảnh giác hoặc vì chủ quan, đã tạo cơ hội cho những sự hỗn độn của trần gian len lõi vào bên trong nội thất của Giáo Hội để làm mất đi sự bình an hiệp nhất và cả sự thánh thiện cần có. Vì thế, thay vì “Đấng phải đến đã đến” đem niềm vui, niềm hy vọng cho dân Chúa thì “người đã đến” đem lại cho dân Chúa bao nỗi sầu thương thất vọng, thay vì giải thoát dân Chúa khỏi những bức bách thì lại đặt vào cổ dân đen những ách nặng nề.

Trong giai đoạn hỗn độn do những kịch bản của ma quỷ, làm chúng ta bán tín bán nghi về sự chân chính của sứ vụ mỗi người, tạo nên những thất vọng và mất kiên nhẫn, Thánh Giacôbê đã kịp thời gửi thông điệp đến chúng ta. “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (Jac 5, 9-10)

Lời Chúa chúa nhật thứ ba mùa vọng mang đến cho chúng ta niềm vui nhưng cũng nhắc nhở cho mỗi chúng ta phải trở thành một niềm vui cho người khác.

Niềm vui ấy là làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Và cụ thể hơn trong toàn cảnh Việt Nam, niềm vui ấy là làm cho người xa rời nhà thờ trở về với Hội Thánh Chúa, người nghèo khổ bất hạnh có được niềm an ủi, được thăm viếng; người bệnh tật được giúp đỡ, người bị áp bức được đồng thanh tiếp cứu, công lý, sự thật được tôn trọng và nhất là nhân phẩm con cái của Thiên Chúa được bảo vệ đúng mức, không thể để cho thế lực gian tà chà đạp.

Lạy Chúa, chúng con được vui mừng tiếp đón Đấng Cứu Thế. Xin cho cuộc sống chúng con mang lại niềm vui cho mọi người. Amen.

 

54.     Khiêm tốn phục vụ với lòng yêu mến

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng nhằm giới thiệu Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và đề cao Tân Ước trổi vượt hơn Cựu Ước. Khi Gio-an trong tù nghe biết hoạt động của Đức Giê-su, liền sai môn đệ đến gặp Người để tìm hiểu rõ hơn về sứ mạng Thiên Sai của Người. Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho Gio-an khi nêu ra các công việc Người đang thực hiện ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a về Đấng Thiên Sai. Người cũng khen ngợi các đức tính của Gio-an và xác nhận vai trò tiền sứ của ông.

CHÚ THÍCH:

– C 2-6: + Gio-an lúc ấy đang ngồi tù…: Gio-an đã bị vua Hê-rô-đê bắt giam về tội dám ngăn cản nhà vua lấy bà chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê vợ của ông hoàng Phi-líp-phê làm vợ của mình (x. Mt 14,3). + Liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?: Gio-an rất vui khi nghe môn đồ thuật lại những việc Đức Giê-su làm (x. Ga 3,28-30). Ông đã được chứng kiến cuộc thần hiện cho thấy sứ mạng Thiên Sai của Đức Giê-su khi ông làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan. Đang khi các môn đệ của ông lại tỏ ra ganh tị khi thấy Đức Giê-su thành công hơn thày mình (x. Ga 3,26). Giờ đây Gio-an sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, chính Gio-an cũng thắc mắc tại sao Đức Giê-su không hành xử công thẳng như Đấng Mê-si-a thẩm phán, mà ông đã loan báo cho dân chúng trước đó (x. Mt 3,10.12). + Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Khi các môn đệ của Gio-an tới thì gặp lúc Đức Giê-su đang chữa nhiều bệnh hoạn tật nguyền trong dân, xua trừ ma quỷ (x. Lc 7,21). Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho Gio-an về sứ mạng Thiên Sai của Người khi cho họ thấy các việc Người đang làm ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a về Đấng Thiên Sai (x. Is 26,19). + Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi: Đức Giê-su cũng cảnh báo: Cần loại bỏ quan niệm về một Đấng Thiên Sai hành xử công thẳng và thiết lập một Nước Trời thế tục như dân Do thái đang mong.

– C 7-9: + Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về Gio-an rằng: Đức Giê-su đã hết lời khen ngợi Gio-an để đánh tan hiểu lầm của dân chúng cho rằng ông đã bị thất bại và bị Thiên Chúa bỏ rơi khi Chúa bỏ mặc ông cho vua Hê-rô-đê bắt bớ. + Anh em ra xem gì ở hoang địa…: Gio-an được đề cao vì đức tính can đảm bất khuất, không luồn cúi trước bạo lực. + Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?: Gio-an không sống giàu sang buông thả nhưng có nếp sống đơn giản khổ hạnh. + Để xem một vị ngôn sứ chăng…: Gio-an chính là một ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến.

– C 10-11: + Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Đây là lời tuyên sấm của ngôn sứ Ma-la-khi về một vị tiền hô đi trước dọn đường cho Chúa ngự đến (x Ml 3,1) đã được ứng nghiệm nơi Gio-an là vị tiền hô có sứ mạng đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. + Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông: Gio-an tuy là ngôn sứ cao trọng nhất trong thời Cựu Ước, nhưng ông vẫn không thể sánh được với Đức Giê-su trong thời Tân Ước.

CÂU HỎI:

1) Tại sao Gio-an bị vua Hê-rô-đê bắt giam vào tù? 2) Gio-an có tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai không? Tại sao? 3) Tại sao ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su về vai trò Thiên Sai của Người? 4) Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ Người thật là Đấng Thiên Sai? 5) Đức Giê-su khen ngợi Gio-an về những gì? 6) Sứ vụ của Gio-an đã được ngôn sứ nào nói tới? 7) Tại sao Gio-an vừa cao trọng lại vừa nhỏ bé nhất?

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: “Anh em ra xem gì trong hoang địa?” (Mt 11,7).

CÂU CHUYỆN: Về gương khiêm tốn hòa đồng của Đức Gioan 23.

Vào một buổi chiều, sau ngày lên ngôi vị giáo chủ, đức Gioan 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can đi bách bộ để tìm thư giãn sau một ngày làm việc căng thẳng. Ngài thấy một người đang làm vườn, bên mình bác ta có đeo một chai rượu. Vị giáo chủ khả ái tiến lại gần hỏi chuyện và không chút ngần ngại ngồi xuống đất uống rượu chung với bác ta. Vì chưa biết mặt vị tân giáo chủ, nên trước vẻ xuề xòa của ngài, bác làm vườn nghĩ ngài cũng chỉ là một viên chức cao cấp trong giáo triều, nên bác ta hết lời ca ngợi vị tân giáo chủ dựa theo dư luận mà bác đã nghe biết về ngài. Sau khi đã uống cạn bình rượu với bác làm vườn, trước khi từ giã, đức Gioan 23 mới hỏi rằng: “Này bác, bác chưa bao giờ thấy mặt vị giáo chủ mới phải không?” Bác ta trả lời: “Thưa chưa ạ”. Bấy giờ Đức Gioan 23 mới ôn tồn nói: “Thế là hôm nay bác đã thấy rõ rồi nhé. Giáo chủ mới chính là người đã ngồi uống rượu với bác từ nãy đến giờ đó!”.

SUY NIỆM:

1) “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”:

Dù bị Hê-rô-đê bắt giam vào tù, nhưng Gio-an vẫn được các môn đệ thông báo về các hoạt động của Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su không hành xử nghiêm khắc trừng phạt tội nhân như ông đã rao giảng (x. Mt 3,10-12), Gio-an trở nên hoang mang nghi hoặc, nên sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su để nêu thắc mắc về sứ mạng cứu thế của Người: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.

Đức Giê-su đã không trực tiếp trả lời vấn nạn của Gio-an. Người chỉ nêu ra những công việc Người đang làm. Qua đó, Đức Giê-su gián tiếp cho Gio-an biết Người thực là Đấng Thiên Sai, nhưng là một vị Thiên Sai mục tử, xót thương và làm các dấu lạ để cứu giúp những người bệnh tật bất hạnh phù hợp với sấm ngôn của I-sai-a về sứ mạng Đấng Thiên Sai: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Is 35,5-6a). Qua đó, Đức Giê-su muốn Gio-an thay đổi quan niệm về một Đấng Thiên Sai thế tục, giải phóng đất nước Do Thái bằng bằng chính trị và binh hùng tướng mạnh, để thiết lập một triều đai hiển hách như thời vua Đa-vít và Sa-lô-mon xưa. Vì nếu không thay đổi, Gio-an chắc sẽ khó tránh khỏi bị vấp ngã (x. Mt 11,6), như ông Phê-rô sau đó đã ngăn cản Đức Giê-su và đã bị Người nặng lời trách mắng như Tin Mừng Mát-thêu thuật lại: “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).

2) “Anh em ra xem gì trong hoang địa?”:

Sau khi môn đệ Gio-an về, Đức Giê-su đã khen ngợi Gio-an tẩy giả về ba phương diện: một là tính tình dũng cảm cương nghị chứ không hèn hạ luồn cúi như loài lau sậy phất phơ trước gió (c 7); Hai là có nếp sống đơn sơ khổ hạnh chứ không đua đòi ăn mặc gấm vóc lụa là như người trong đền vua chúa (c 8); Ba là có sứ mạng tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai (c 10).

Sau khi làm phép rửa cho Đức Giê-su ở sông Gio-đan và được chứng kiến cuộc thần hiện xảy ra trên Người, Gio-an đã tin Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người là “Con Chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ và khuyến khích họ bỏ ông để theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,36-37). Gio-an đã khiêm tốn thừa nhận vai trò thấp kém của mình “không đáng cởi quai dép cho Người” (x. Lc 3,16) và khẳng định sự lệ thuộc của mình: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”. Cuối cùng ông còn khiêm tốn tuyên bố như sau: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,29-30).

3) “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”:

Gio-an đã được Đức Giê-su khen là người cao trọng nhất trong con cái loài người: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Vậy Đức Giê-su muốn dạy gì khi nói: “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”?

Đức Giê-su đến thiết lập Nước Trời ban ơn cứu độ, mà Gioan có sứ mạng đi trước dọn đường cho Người. Nước Trời là một gia đình của Thiên Chúa, trong đó chỉ có một Thiên Chúa là Cha, chỉ có Đức Giê-su là Thầy và là người chỉ đạo, còn hết mọi người đều là anh em với nhau (x. Mt 23,8-10). Đây là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người có bổn phận yêu thương nhau và nhờ đó họ sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc. Hiện nay, trên thế giới vẫn có nhiều tiêu cực, đau khổ là do người ta thiếu tình thương với nhau. Đức Giêsu có sứ mạng đem đến cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên tình yêu thương. Từ nay tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ là lề luật như lời thánh Phao-lô: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28).

4) Dọn lòng đón Chúa đến bằng lối sống khiêm tốn phục vụ với lòng yêu mến:

Mùa Vọng là thời gian các tín hữu chúng ta mong chờ Chúa đến. Trong khi người Do thái mong Đấng Thiên Sai đến trong uy quyền vinh quang thì Chúa lại chọn đến trong khiêm hạ khó nghèo và âm thầm không ai hay biết. Trong khi người đời mong Chúa đến ban ơn cứu độ bằng con đường rộng rãi, thì Chúa lại chọn đi con đường thánh giá chật hẹp leo dốc và ít người dám đi. Ngày nay để nhận được ơn cứu độ là được vào Nước Trời, đòi người tín hữu phải tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Mt 7,21-23). Đức Giê-su cũng cho biết đến ngày phán xét, chỉ những ai phục vụ Người hiện thân trong những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi mới được vào Thiên Đàng (x. Mt 25,34-36).

Ngoài ra, chúng ta cũng cần làm các việc đạo đức và bác ái chia sẻ với lòng mến Chúa. Muốn biết việc cầu nguyện dâng lễ của mình có đẹp lòng Chúa không, thì cần phải nhìn vào hiệu quả: Nếu việc cầu nguyện dâng lễ làm cho tâm hồn chúng ta được bình an, thêm niềm vui và phấn khởi hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân hơn… là dấu chúng ta đã làm các việc đạo đức theo thánh ý Thiên Chúa. Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa cho thấy Ngài “chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch vì thiếu tình yêu” (x. Is 1,11-17). Ấy thế mà rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay vẫn đang cầu nguyện dâng lễ theo luật nhưng lại thiếu lòng yêu mến như thế, hoặc đang làm các việc bác ái để tìm tiếng khen hay chỉ mong được thưởng công sau này (x. Mt 6,1-6). Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta cần thực hành các việc đạo đức với tâm tình nào để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến?

THẢO LUẬN: Noi gương Đức Giê-su cứu thế bằng con đường vâng phục, yêu thương và khiêm tốn phục vụ (x. Mt 11,5), trong những ngày này bạn sẽ làm gì để nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su trước mặt anh em lương dân?

NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay chúng con rất khâm phục thánh Gio-an, vị tiền hô của Chúa khi ngài can đảm đứng ra nói lên sự thật, dù bị Hê-rô-đê thù ghét và sau đó ngài đã anh dũng chết để làm chứng cho sự thật ấy. Xin đừng để chúng con bao giờ hèn nhát, vào hùa với kẻ mạnh để hiếp đáp những kẻ thân cô thế cô, giống như loài lau sậy ngả nghiêng theo chiều gió. Gio-an đã sống khổ hạnh, đi ngược lại trào lưu đam mê ích kỷ trong đền vua chúa. Xin cho chúng con biết tiết giảm mua sắm các vật dụng quần áo, để dành tiền chia sẻ cho những anh chị em nghèo khổ bất hạnh chung quanh chúng con. Gio-an đã trung thành với sứ mạng công bố Lời Chúa để giúp những kẻ gian ác bỏ đường tội lỗi trở về với Chúa, xin cho chúng con cũng biết chu toàn sứ mạng ngôn sứ khi dám lên tiếng bênh vực công lý, bất chấp những sự đe dọa trả thù và làm mọi việc lành với lòng mến Chúa để xứng đáng được Chúa vui nhận.

X) Hiệp Cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ