Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1363498

VUA CÔNG LÝ

VUA CÔNG LÝ

 

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Không có công lý thì không có tự do, không có tự do thì không có bình an – hòa bình, nghĩa là bất ổn, xã hội bất ổn thì hỗn loạn, sinh ra tội lỗi. Thế nên Chúa Giêsu đã đến thế gian để bảo vệ công lý và giải thoát những con người bị áp bức, bị bóc lột. Thánh Vịnh gia xác định: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” (Tv 72:7)

Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Kinh Thánh xác định: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:12). Mặc dù “Người là Đấng Toàn Năng, ta chẳng sao vươn tới, Người cao cả, vì Người hùng mạnh và công minh. Người quyền năng, vì Người chính trực, nhưng CHẲNG ÁP BỨC AI.” (G 37:23)

Xã hội luôn cần có công lý để loại bỏ bất công, cần có luật để duy trì an sinh xã hội. Nhưng “luật bất công không phải là luật” (Thánh Augustinô, 354-430). Theo xã hội loài người, công lý là một khái niệm đúng đắn về luân lý, dựa trên nền tảng đạo đức, tính hợp lý, luật pháp, quy luật tự nhiên (hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên, mang tính phổ quát), tôn giáo, công bằng, cũng như việc quản lý của pháp luật, có tính đến quyền sống bất khả nhượng của mọi người và mọi công dân, quyền chung của mọi người và cá nhân để bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật của các quyền dân sự của họ, không phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi tác, hoặc các đặc tính khác, và được coi là bao gồm các luật về công bằng xã hội.

Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, bởi vì “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Thế nhưng người ta không tin nhận Ngài, đến nỗi đã lập mưu ác sát hại Ngài. Trên đầu Thập Giá, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, có ghi bảng bằng tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp: INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái. Thế nhưng các thượng tế của người Do Thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết: Vua dân Do Thái, nhưng viết: Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do Thái.” Tuy nhiên, ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Vô tình mà chính họ lại tôn vinh tử tội Giêsu là Vua. Thế mới độc đáo, kỳ lạ và mầu nhiệm. Bảng chữ đa ngữ đó đã nói lên tất cả.

Ngày xưa theo quan niệm phong kiến, người ta có một câu như mệnh lệnh bất di bất dịch: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Thời quân chủ, vua mệnh danh là Thiên Tử, mọi quyền hành nắm gọn trong tay, cho sống thì được sống, bắt chết cũng phải chết. Vua đi đâu cũng có tiền hô, hậu ủng. Mọi sự sang trọng, quyền thế, ưu tiên,… đều phải dành cho vua. Ai muốn tâu với vua điều gì cũng không được nhìn “long nhan”, cũng không được tâu trực tiếp, mà chỉ được tâu cái bệ rồng vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.” Nhà vua độc quyền màu vàng, và cái gì của vua cũng đệm chữ “long” – rồng: Long nhan, long thể, long bào, long sàn, long xa, long đình,… Dù sướng từ trong trứng nước, nhưng rồi chính nhà vua cũng không tránh khỏi “long đanh” và “long đong” như bao thần dân khác. Thế mà vẫn chảnh lắm!

Thế mà Chúa Giêsu, Vua muôn vua và Chúa các chúa, Hoàng đế của các hoàng đế, Thủ lãnh của các thủ lãnh, lại “được” người ta đội cho triều thiên là vòng gai nhọn và khoác cho chiếc áo choàng đỏ, và họ mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!” (Ga 19:3), thậm chí họ còn vả vào mặt Ngài. Kẻ ác càng hèn càng nhát, càng nhát càng ác. Thật đáng ghê tởm!

Ngày xưa, toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến trình báo vua Đa-vít tại Khép-rôn: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài: Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” (2 Sm 5:1-2) Sau đó, toàn thể kỳ mục Ít-ra-en cũng đến gặp vua tại đó. Rồi Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Họ đã xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en. (2 Sm 5:3) Xức dầu là dấu chỉ “công nhận” một người nào đó với chức vụ và trách nhiệm nào đó, cụ thể là phong vương. Ngày nay, Công giáo cũng vẫn theo truyền thống đó khi cử hành các bí tích theo nghi thức phụng vụ, đặc biệt là nghi lễ truyền chức.

Chắc hẳn xưa nay ít người được vào nội cung triều đình của vua chúa trần gian hoặc dinh tổng thống, người ta chỉ đứng xa mà ngắm nhìn cũng là “có phước” lắm rồi, thậm chí có mơ cũng chẳng thấy, huống chi đối với Thánh Cung của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Vịnh gia sung sướng thốt lên: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv 122:1-2) Hạnh phúc biết bao, ngỡ chỉ là giấc mơ mà lại là sự thật, thật ngay trong đời thường. Hạnh phúc gấp bội, gia tăng theo cấp số nhân. Ôi, thế thì còn gì bằng!

Như một kỹ sư xây dựng, Thánh Vịnh gia mô tả chi tiết: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:3-5) Đền Thờ đó là Nhà Chúa trên trần gian, nhưng vẫn thật hạnh phúc cho ai được đặt chân vào: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11) Ngày nay, cuộc sống khá hơn, nhiều người muốn đã đến hoặc muốn được đến Ít-ra-en để đặt chân lên vùng đất mà Chúa Giêsu đã một thời sinh sống và thi hành sứ vụ: Thánh địa Giêrusalem. Tuy nhiên, đối với người nghèo thì chẳng khác chuyện lên cung trăng. Không thể đến được, mặc dù rất muốn!

Những ai được vào Nhà Chúa thì cùng được làm con cái Ngài. Thánh Phaolô động viên: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Một loạt những cái “được” quý giá lắm. Thật vậy, các tội nhân chúng ta đang từ hố bùn lầy tội lỗi mà được Thiên Chúa kéo lên, được tẩy rửa và đặc biệt là được nhận làm con. Niềm hạnh phúc quá lớn lao!

Đấng cứu vớt chúng ta không là VIP bình thường theo khái niệm thế tục, mà Đấng đó là Chúa của các chúa, Vua của các vua, vô thủy vô chung. Đấng đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.” (Cl 1:15-18) Vua Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, không có Ơn Cứu Độ ngoài Ngài, và Ngài là Độc Đạo dẫn về Trời.

Với cách nói ngắn gọn mà súc tích, Thánh Phaolô giải thích: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:19-20) Đức Kitô là Vua, nhưng không thị uy hoặc độc đoán như vua chúa trần gian. Vua Giêsu đã không quản ngại thí mạng sống vì thần dân, Giá Máu của Ngài đã minh chứng tất cả. Chắc chắn rằng, cả quá khứ và tương lai, không có một vị vua nào dám chết vì dân tộc của mình, có tốt lành thì cố gắng làm lợi cho đất nước và nhân dân, không thì chèn ép và “hút máu” dân để mình sống ung dung, được vinh thân phì da.

Chúa Giêsu là Đệ Nhất Hàn Vương, Vua Nghèo vì không ngai vàng, không sở hữu bất cứ thứ gì, xả thân quên mình vì dân, chẳng có ai có thể nghèo như Ngài, đến cả “chỗ tựa đầu” cũng không có. (Mt 8:20; Lc 9:58) Vua chúa hoặc tổng thống nào cũng có lễ đăng quang, kể cả Giáo hoàng, nhưng Vua Giêsu không hề có lễ đăng quang, cứ cho là có “lễ đăng quang” thì lại chẳng giống ai: Bị treo trên Thập Giá. Tiều tụy, te tua, tơi tả, thiệt thòi, thảm thương,… Rất nhiều các mẫu tự T “ghép” thành Thập Tự.

Người ta đứng nhìn ngơ ngác, kẻ sợ người lo, kẻ ho người cười, không biết có được mấy người mủi lòng! Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23:35) Ngay cả bọn lính tráng cũng chế giễu Ngài, chúng lại gần đưa giấm cho Ngài uống, và chúng thách thức: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23:37) Nhưng Ngài vẫn im lặng và bất động. Trước mặt phàm nhân, Vua Giêsu thua trắng, chiến bại hoàn toàn. Thế nhưng không phải như vậy, họ hoàn toàn ngộ nhận vì thiển cận. Thánh Phaolô nói: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18)

Điều lạ lùng vô cùng là có một tử tội chung số phận với Chúa Giêsu lại có động thái khác thường. Đó là “người gian phi sám hối”, chúng ta quen gọi là “người trộm lành” nhưng thật ra anh ta là tướng cướp khét tiếng, đại ca thứ thiệt, dân “anh chị” chính hiệu chứ không phải loại cướp cạn “tép riu”, vì thế mới đáng tử hình, chứ nếu chỉ là tên trộm thì đâu đến nỗi chịu án tử như vậy.

Thế nhưng một tên tử tù đồng bọn với anh ta cũng bị treo trên thập giá chiều hôm đó, chính hắn cũng nhục mạ Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39) Chết tới nơi mà còn ngông cuồng, ngang ngược, thách thức và cố chấp, không chịu “mở mắt” mà nhận biết cái sai của mình. Tội này mới đúng là “tội tày trời” – tính cố chấp, chắc chắn không ai có thể cứu hắn. Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay!

Có thể là một số người trong chúng ta cũng có “tầm nhìn” như tên-cướp-ác-ôn này. Đó là những người thiển cận, không chịu rán sức “mở to” mắt ra để nhìn vấn đề cho thấu đáo, mà vẫn lì lợm, thủ cựu, không chịu nhìn rộng hơn “cái bóng” của mình, hoặc không đủ “tầm” để nhìn xa trông rộng, thế nên nhận xét của họ cũng phiếm diện. Thiển cận sinh độc đoán, độc đoán sinh ích kỷ, ích kỷ sinh tự tôn – lúc nào cũng cho mình là “number one” (số dzách, số một). Họ “mù” mà cứ tưởng mình “sáng mắt”. Tên-trộm-ác là thế, không chịu nhận mình có trọng tội mà còn “gân cổ” thách thức và nguyền rủa Đức Kitô. Có lẽ Ngài thấy tên này “dở hơi”, “trẻ ranh” vắt mũi chưa sạch nên Ngài không thèm nói gì. Nói với hạng người cố chấp thì cứ nói với đầu gối còn hơn!

Thế nhưng Ngài lại nói với tên-cướp-tốt-bụng. Tại sao? Hắn có tên “cúng cơm” là Dismas (hoặc Dimas), hắn lên tiếng phản đối: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:40-41) Như thế mới là “mắt sáng”, là anh hùng, can đảm, nói thẳng nói thật chứ không hèn nhát mà che đậy hoặc giấu giếm sự thật. Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Tên cướp này thực sự có “trình độ”, xứng danh là một “tay anh chị” lắm. Anh ta đã “nhìn” rõ Tử Tội Giêsu thực sự là VIP rất đặc biệt nên mới xin như vậy. Giỏi lắm. Nhanh trí lắm. Anh ta phải giỏi mới đủ trình độ nhận biết Chúa Giêsu là “siêu nhân” thực sự. Tên tử tội ác ôn kia ngu muội nên không có tầm hiểu như Dismas.

Nghe anh ta cầu xin chân thành, Vua Giêsu nhẹ nhàng nói với thần dân Dismas ngay: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Có lẽ không ai may mắn và sung sướng hơn tướng cướp “hiền lành” Dismas, vì dù tội lỗi tày trời, nhưng anh biết thú nhận và ăn năn nên Chúa Giêsu tha thứ, và còn cho anh hơn những gì anh muốn. Lòng Chúa Thương Xót chỉ cần thế thôi, còn tội to hay nhỏ không là vấn đề. Tên-cướp-tốt-bụng Dismas có điều rất “độc đáo” này: Cả đời anh ta chuyên đi ăn cướp, giờ lại “cướp” được cả Thiên Đàng. Khôn và khéo quá chừng luôn. Thật tuyệt!

Chúa Giêsu luôn khuyến khích các tín nhân chịu đau khổ – vác thập giá. (Mt 10:38; Mt 16:24) Khó thì Khổ, thế nhưng lại là Khéo và Khôn. No Cross, No Crown – Không có Thập Giá thì không có Triều Thiên, không có Đau Khổ thì không có Vinh Quang. Hạnh phúc tỷ lệ thuận với gian nan, vất vả, hy sinh – tức là đau khổ. Thập Giá hình chữ T, Chúa Giêsu dang tay hình chữ Y. Theo Việt ngữ, TY là Tình Yêu.

Lạy Vua Giêsu Kitô – Vua Công Lý, Vua Cứu Thế, Vua Thương Xót, xin chữa lành con-mắt-tâm-linh để chúng con thật lòng tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Vương đích thực muôn đời, là Vua Cứu Độ duy nhất, và xin giúp chúng con sống kiên cường với đức tin mà chúng con đã lãnh nhận. Kính lạy Thánh Tử Giêsu cai trị linh hồn chúng con và cho chúng con về sum vầy tại Vương Quốc Trường Sinh, Ngài là là Đấng Hằng Sống, đồng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đời đời kiếp kiếp. Amen.

 

15.Vinh quang và đau khổ - Trầm Thiên Thu

Hạnh phúc nào cũng có nước mắt – dù ít hay nhiều. Nước mắt thì mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ thì niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự. Hầu như đó là “nguyên lý” của cuộc đời. Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại nào ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại nào càng đơn giản thì càng bền.

Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Cũng vậy sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Quá đỗi kỳ diệu!

Đức Kitô là Sự Sống (Ga 14:6), tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu. Ngài là sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (G 2:1).

Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel”. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel”. Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel.

Quốc Vương thời Cựu Ước là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua, đó là Đức Kitô đã đến thế gian, và chính Ngài đã xxác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5:24).

Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Tử Thần còn khuất phục thì ai có thể làm gì trái lệnh Ngài chứ?

Thật là hạnh phúc khi chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô. Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng.

Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Tác giả Thánh Vịnh cũng vậy, cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân” (Tv 122:1-2).

Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện, luôn có điều gì đó linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Tác giả Thánh Vịnh mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít” (Tv 122:3-5).

Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hôm nay và mãi mãi, hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10). Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Hằng Sinh để đời đời chúc tụng Ngài!

Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả! Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi” (Cl 1:12-14).

Quả thật, những tội nhân như chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải mơ mà là sự thật. Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người” (Cl 1:15-16). Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng mình qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…”. Thật là trên cả sự tuyệt vời!

Còn nữa, chứ chưa dừng lại ở mức đó. Thánh Phaolô nói: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:17-20). Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Chúa Giêsu là Vua, vậy thì chúng ta là em của Vua, cũng có nghĩa là chúng ta thuộc dòng dõi Hoàng Tộc. Đặc biệt hơn là chúng ta còn được hòa tan vào Thiên Chúa, nên một với Ngài mỗi khi tiếp rước Thánh Thể. Ôi, thật là kỳ diệu quá chừng!

Huynh Trưởng Giêsu là Vua, nhưng Ngài không đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không lòng bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, không được tiền hô hậu ủng.

Trình thuật Lc 23:35-43 cho biết giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ!

Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác. Có lẽ nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài.

Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Có thể nói rằng diễm phúc nhất là tướng cướp này, có tên cúng cơm là Dismas.

Vua Giêsu quá nhân hiền và đại lượng. Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, mấy ai dám “chơi ngông” như Dismas. Thế mà chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xí xóa hết, hoàn toàn trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó.

Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Thương Xót vô bờ bến của Thiên Chúa. Thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình là một dạng kiêu ngạo, vì như vậy là không tin vào lòng đại lượng ta thứ của Thiên Chúa. Hạy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Và Ngài cũng đã hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ” (Nhật Ký, số 1541). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối.

Với những người có chức, có quyền, lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở họ điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác. Tất cả mọi người đều là tôi tớ, và Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12:47-48).

Thiên Chúa là ai? Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc” (Đnl 10:17-18). Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng công và trừng phạt.

Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường khác!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết Ngài và biết con, xin thêm sức mạnh cho con để can đảm thú nhận tội lỗi và xin tha thứ mọi tội lỗi của con đã xúc phạm đến Ngài và đến tha nhân. Cúi xin Vua Giêsu cai trị và hướng dẫn cuộc đời con đi đúng định hướng của Chúa Cha. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

16.Xin nhớ đến tôi

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Hôm nay chúng ta hãy tôn vinh thờ lạy Chúa Giêsu, là Vua vũ trụ. Tôn vinh và thờ lạy Ngài vì Ngài nắm quyền tuyệt đối trên chúng ta.

Đức Thánh Cha Pi-ô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ vào thời điểm các chế độ quân chủ mất dần thế giá và dần dần biến đi trên thế giới, dù một vài vị vua được toàn dân thương mến như vua Baudoin,vương quốc Bỉ.

Một số người Công giáo cho rằng, thời nay mà nói về vương quyền là không hợp thời. Giáo hội có thoái hóa chăng? Thưa rằng không. Vì chúng ta còn mang nặng trong đầu óc chúng ta hình ảnh của các vua trần thế và gán cho Chúa quyền tước và vinh quang của các vua trần thế. Vua chúa trần gian không có được mấy vị  được tôn vinh, vì sự độc tài tàn ác của họ.

Vua Giêsu không là một vua trần thế: “Nước tôi không ở trần gian này”. Chúa Giêsu đã khẳng định như thế trước mặt quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, vì Ngài ở trong trần gian mà không thuộc về trần gian và hơn thế nữa, Ngài là Chủ Tể trần gian. Chính Ngài đã tạo nên vũ trụ này: “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3).

Chúng ta tôn vinh Ngài là Vua vũ trụ là điều hiển nhiên, mặc cho ai không đồng ý.

Chúng ta hãy nhìn nhận và suy tôn Chúa chúng ta, vì “chúng ta là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 94)

Đứng trước một thế giới chối bỏ mọi quyền bính, chối bỏ cả Thiên Chúa, tôn vinh Chúa là khôn ngoan. Giữa những người không tin và chúng ta  là những người tin khác nhau ở điểm này: chúng ta có cội nguồn và họ lại không. Điều này rất quan trọng vì nó định đoạt ý nghĩa của cuộc sống chúng ta và tương lai của chúng ta.

Hãy hân hoan và hãnh diện vì Vua Giêsu của chúng ta! Ngài là Chúa, là Vua vũ trụ. Tất cả đều ở trong tay Ngài.

Nói đến Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Giáo hội bảo chúng ta nhìn lên thập giá, nhìn người Tử Tội Thần Linh. Ngài chính là Vua chúng ta.

Vua Giêsu của chúng ta không ngồi trên ngai vàng, giữa những người hầu hạ… mà là một tử tội tả tơi trên thập giá. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Ngài mang tên Giêsu, nghĩa là Cứu thế.

Khi dang tay trên thập giá, Ngài mới thật sự là vua, không chỉ là vua một nước mà là Vua vũ trụ. Đó là điều thế gian không thể hiểu. Ngài tạo nên vũ trụ, giờ đây, Ngài là một tử tội trần truồng đau thương. Vương quyền của Ngài được tỏ bày giữa trời và đất vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu của Ngài là “chết cho bạn hữu”. Chúng ta hiểu được điều đó không?

Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, chính là Vua chúng ta, Vua Tình Yêu: “Ngài đã yêu tôi và đã liều mạng cho tôi”. Vương quyền của Ngài là Tình Yêu. Vương Quốc của Ngài cũng là Tình Yêu. Tất cả được gói trọn trong một quả tim, quả tim của Thiên Chúa.

Hãy nhìn Ngài trên thập giá, chúng ta mới hiểu phần nào vương quyền của Ngài.

Trình thuật của thánh Luca cho thấy bốn hạng người chung quanh cây thập giá: thứ nhất là dân chúng. Trước mặt thánh Luca, dân chúng chỉ là khán giả, đứng nhìn và chứng kiến cuộc hành hình mà thôi. Hạng người thứ hai là những thủ lãnh Do Thái. Chính những người này là những kẻ thù không đội trời chung của Chúa Giêsu. Họ thỏa mãn vì đã diệt được kẻ thù độc hại nhất của họ. Họ mỉa mai nhạo cười không hết lời, và khiêu khích: “Hãy tự cứu mình đi!”“Nếu hắn thật là Đức Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”

Hạng người thứ ba là lính Rôma, đội thi hành án. Họ cũng chế diễu Người: “Nếu ông là Vua Do Thái!”

Hạng thứ bốn là hai tên tội phạm. Một tên nhục mạ Người: “Ông Giêsu ơi! Ông không phải là Đức Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với!”

Họ không tin là điều dễ hiểu vì ai có thể tin vào một người chịu đóng đinh thê thảm như thế?

Nhưng một tên tội phạm lại tin. Anh nhìn nhận tội lỗi của mình và sự vô tội của Chúa Giêsu. Anh tuyên xưng một cách gián tiếp vương quyền siêu vượt của Chúa: “Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”

Và Chúa Giêsu lại khẳng định một cách uy nghi: “Ngay hôm nay, anh sẽ đượcở cùng Ta trên thiên đàng”. Có vị vua nào công bố vương quyền của mình trên cây thập tự như thế không? Đó là một lời công bố uy nghi và long trọng, giữa trời và đất, trong đau khổ tuyệt đỉnh.

Chúng ta dám tin như anh tội phạm đó không?

Đúng thế! Chúa Giêsu thực sự là Vua vũ trụ khi tất cả những gì là sang trọng quyền uy của thế gian đều biến dạng thay thế vào đó là đau thương tuyệt đỉnh. Vương miện được thay thế bằng mão gai, cẩm bào là tấm thân trần trụi, giập nát, ngai vàng là cây thập giá, vương quyền được thay bằng án tử hình nhục nhã. “Nước tôi không ở trần gian này.” Nước tôi chính là tình yêu hi sinh đến giọt máu cuối cùng, là chết cho tình yêu, vương quyền của tôi là tình yêu trọn vẹn…

Chúng ta hãy nhìn thật lâu Tử tội thần linh của chúng ta, hãy nhìn với tất cả lòng biết ơn sâu xa, với tất cả tình yêu…

Chúng ta là thần dân của một Vị Vua Thần Linh, Vị Vua Tình Yêu! Hãy hân hoan, hãy tạ ơn lâu dài!…

Chúng ta là thần dân của Vương Quốc Tình Yêu, chúng ta hãy sống “yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta.”

Chúng ta là thần dân của một Vương Quốc Tự Do, vì Vương Quốc Tình Yêu mới thực sự là Vương Quốc tự do. Chúa tạo nên chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có thể từ chối Ngài hay yêu thương Ngài, Ngài vẫn để chúng ta chọn lựa: Vua Giêsu hay thế gian. Ngài không cần sự bái lạy của một đám nô lệ.

Chúng ta làm gì cho Vua chúng ta?

Chúng ta tưởng rằng chúng ta chẳng làm được gì sao?

Hãy sống yêu thương, chúng ta là sứ giả của Vua Tình Yêu. Hãy mở rộng vương quốc tình yêu của Ngài bằng đời sống đầy ắp tình yêu của chúng ta.

Vua chúng ta hôm nay vẫn đến với chúng ta qua một tấm bánh… Hãy nhìn Ngài dưới hình thức nhỏ bé và khiêm tốn ấy. Đó là Tình Yêu nguyên vẹn đấy! Hãy đến với Ngài, đem Ngài vào trong chúng ta để không còn có gì ở trần gian này có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài.

 

17.Đức Kitô - Vua Tình Yêu

(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Lc 23: 35-43: Chúa kitô là vua, nhưng là một vị vua hoàn toàn khác với các vị vua trần thế. Nhìn vào lịch sử nhân loại chúng ta thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân.

Nguồn gốc của Lễ Chúa Kitô Vua

Một triết gia thời xưa đã nói: "Homo hominis lupus": Người với người như lang với sói. Lang sói là một loài thú dữ, bản tính hay tấn công, cắn xé. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn muốn tấn công nhau, cấu xé và chém giết  nhau. Lịch sử loài người là một chuỗi dài những cuộc chiến tranh liên tiếp. Gần đây nhất là hai cuộc thế chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, trong hai cuộc thế chiến đã giết chết cả hàng mấy chục triệu người.

Chính vì vậy, một câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, mà lại cư xử với nhau như vậy?

Thưa là vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Cho nên trong bối cảnh giữa hai cuộc thế chiến, ngày 11/12/1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua.

Ý nghĩa của Lễ Chúa Kitô Vua

Chúa kitô là vua, nhưng là một vị vua hoàn toàn khác với các vị vua trần thế. Nhìn vào lịch sử nhân loại chúng ta thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần Thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2.000 mạng để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng  đã đốt sạch đế đô La Mã để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ.          

Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối,  nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương. Yêu thương ngay cả những con người tội lỗi cùng chịu đónh đinh với mình. Chính vì yêu thương, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá, giữa hai kẻ trộm. Thậm chí chấp nhận để cho tên “trộm dữ” lăng mạ mình và đồng thời lại ban cho người trộm lành một đặc ân lớn lao là “hôm nay anh được ở trên thiên đàng với Ta.”

Tập San Catholic Digest có mục thường xuyên gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở), có một câu chuyện thật cảm động về chàng thanh niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội và sau đó gia nhập chủng viện.

Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam, chàng thanh niên này rời khỏi chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội. Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng.

Sau đó vào ngày thứ sáu tuần thánh năm 1970, chàng thanh niên lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là một vị linh mục mà anh rất kính trọng và yêu mến.

Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và bước vào nhà thờ?

Khi bước vào nhà thờ, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn Thánh Giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There They Crucified My Lord” (bạn có đứng ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?) Và rồi một điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra, anh viết: “trong con người tôi một điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được cơn xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quì xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi”

Từ ngày đó trở đi, tôi trở nên một người Công Giáo được tái sinh. Anh kết thúc với một cảm nghiệm như sau: “tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng và hạnh phúc”.

Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho mỗi người chúng ta. Người muốn tha thứ cho chúng ta. Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với anh trộm lành “hôm nay anh được ở trên thiên đàng với Ta”.

Đây chính là một Tin Mừng khiến chúng ta qui tụ nơi đây để mừng lễ Chúa Kitô Vua. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ