Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 73

Tổng truy cập: 1362813

XÂY DỰNG HÒA BÌNH

XÂY DỰNG HÒA BÌNH

 

“Kể từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở thành phố New York, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết cho đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương…”

Giữa lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:

- Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Đúng thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo, phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.

Thế nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

- Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Giờ đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự ghen tức.

Thực vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:

Có một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng, cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc.

Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.

Chỉ vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời.

Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng ta ghen tức.

Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những hành động thô bạo của chúng ta.

Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.

Chình vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.

 

37.Tám Mối Phúc

Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược!

Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.

Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn “Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.

Triết gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực sự.

Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!

Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết… cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.

Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an”.

 

38.Phúc Tám Mối

Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.

Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm gì đây? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày nữa”.

Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!” Viên quận trưởng nổi giận và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.

Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ!” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa hằng sống.

Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.

Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên Chúa không?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.

Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả lời đó.

Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.

Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…

Sách Giáo lý Công giáo giải thích rằng: “Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài luôn tỏ mình là “khuôn mẫu của chúng ta”. Ngài là “Con người hoàn hảo” và Ngài mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của Ngài. Ngài đã để lại cho ta một gương để noi theo; bằng lời cầu nguyện của Ngài, Ngài thu hút ta vào việc cầu nguyện; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại”.

Phúc Tám Mối là tất cả những gì Chúa Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều đó trong Ngài, để Ngài sống trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: “Do sự Nhập Thể của Ngài, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người chúng ta”.

 

39.Chú giải của Noel Quession

Thy đám đông, Đức Giêsu lên núi...

Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt... (Mt 4,23). Đức Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương... như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay... tôi nhìn thấy ánh mắt của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền, những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc mọi thành phần, "những người thu thuế và tội lỗi" cả một nhân loại ấy bên bờ tuyệt vọng.

Khi Đức Giêsu nhìn thấy tất cả nhữngđiều đó... Người làm gì? Người nói gì?

Đức Giêsu lên núi. Người ngi xung các môn đệ đến gn bên. Người m ming dy h rng:

Phong cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng theo Tin Mừng của Matthêu cũng là "Đức Chúa Vinh quang", uy nghi như một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là "bài giảng" Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho tất cả những ai đang sống trong nô lệ.

Vâng, bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe! Nếu bạn có cơ may "'hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe... Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng nghe Đức Giêsu.

“Phúc thay... Phúc thay... Phúc thay...

Đó là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong "bài giảng trên núi".

“Phúc thay"!, "makarioi" trong tiếng Hy-lạp.

“Phúc thay”!, "asherei” trong tiếng Do Thái...

Vâng chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một "tin mừng tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản, thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn... Đức Giêsu nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?

Nhưng vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó...

Phúc thay ai hin lành...

Phúc thay ai su kh...

Phúc thay ai khao khát nên người công chính...

Phúc thay ai xót thương người...

Phúc thay ai có tâm hn trong sch...

Phúc thay ai xây dng hòa bình...

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính...

Hạnh phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không nhắm đến "những"hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mátthêu 11,28-30).

Vâng, Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi "Đấng đã được loan báo", "Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ" Người ta hay quên rằng chữ "Tin Mừng" đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách I-sai-a: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa) tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức..." (I-sai-a 61, 1.6 - Lc 4, 18)

Phúc thay... vì Nước Tri là ca h...

Tám mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây giờ". Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.

Sẽ là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ "thuốc phiện của quần chúng để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó. Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một "thế giới

phải đến", "Nước Thiên Chúa" nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu

Bởi vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa", chính là "Tinh yêu Thiên Chúa" ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa "Nước Thiên Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe dọa... bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ, rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại "hạnh 'phúc”, một cách mầu nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào đã không cảm nghiệm nó.

Vậy bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.

Nếu bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện" của các mối phúc thật, lúc đó bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó, vì Nước Tri là ca h.

Phúc thay ai hin lành vì h s được Đất Ha làm gia nghip.

Cùng một chữ Do Thái "anawim': có thể được dịch là “nghèo khó" hay là "hiền lành". Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ "anawim" gợi lên hình ảnh của một người "bị uốn cong", thái độ của kẻ yếu không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người "hiền lành" chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người "Thầy hiền lành và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích, Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:

Phúc ai su kh, vì h s được Thiên Chúa i an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì h s được Thiên Chúa cho tha lòng.

Phúc thay ai xót thương người vì h s được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hn trong sch, vì h s được nhìn thy Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn "tương ứng" với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ... Tâm hồn Người "thanh khiết" vô song, không chút sai lầm, không chút quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.

Phúc thay ai xây dng ha bình, vì h s được gi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính, vì Nước Tri là ca h.

Đức Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là phục vụ anh em mình. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế gian ban tặng". (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng" hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

 

40.Chú giải của Fiches Dominicales

CÁC MI PHÚC

VÀI ĐIM CHÚ GII:

1. Tin vui

Hai trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng này diễn ra "ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!...Phúc cho ai hiền lành!... không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ: “Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét. (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).

2. ca mt hin ti nhào nn tương lai.

Bốn mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối mọi bạo lực.

+ Phúc cho ai có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không phải là sự khó nghèo về vật chất; nhưng là thái độ tinh thần của một người nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centuion. 1994, tr. 146-147).

+ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”.

J. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147) + Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách. (Sách đã dẫn).

+ Phúc thay ai khát khao nên người công chmh, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại (Sách đã dẫn).

Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.

+ Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.

Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. “Lng nghe li Đức Giêsu trong tương quan sng động vi con người ca Ngài”.

(Đức Cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).

Mấy lời dẫn nhập và "diễn từ" của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài “diễn từ”: "Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng". Ta đừng khinh thường bỏ qua những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: "Khi Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ." (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.

Chúng ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói. Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng... để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta... chứ không phải vào điều mà những lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này. Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.

2. “Các mi phúc: li ha và món quà hnh phúc”.

(J. Guillet, trong ‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr. 96-97).

“Khi mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa: một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.

Tin Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói: anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội nguồn hạnh phúc. Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là Đấng hiền lành; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì; chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”

 

home Mục lục Lưu trữ