Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 67
Tổng truy cập: 1362203
XIN MỞ MẮT TÂM HỒN CON
XIN MỞ MẮT TÂM HỒN CON
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Quí ông bà, cô bác và anh chị em thân mến!
Có lẽ chúng ta không còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách thật là hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta. Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng trong vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên, có lẽ vì hai lý do sau đây:
Trước hết là sự tế nhị không muốn nêu danh tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng của mình.
Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải lịch sử cuộc đời của một người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường đức tin của mỗi người chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta không cần biết danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng ta, chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối nghịch sang thái độ kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như thế nào.
Trước hết, dung mạo tinh thần của người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên, đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang dòng máu Adam. Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được trở về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống với những người ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó những người Samari này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.
Đây là những người bị người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân lập gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa, Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với một người không phải là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.
Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà vẫn còn có một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: "Chúng tôi phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự". Đó là khao khát từ trong thâm tâm của bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người bà còn có một điều tốt là can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.
Chúa Giêsu đã hành động như thế nào đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người Do Thái, tức là kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối với bà, người Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những người Do Thái mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.
Một vị thầy của người Do Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin nước uống: "Xin bà cho tôi nước uống". Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà: "Sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari?" Hành động và những lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô từ việc ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây biến thành: "Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống". Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh nước uống để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.
Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi của chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không phải là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin của chúng ta.
31.Trống vắng
Một du khách từ thánh địa trở về kể lại rằng:
Ngày nọ lúc ông đang ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập, vai mang một cái thùng, tay cầm một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi kéo lên và đổ nước vào thùng. Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở về nhà.
Lúc sau, một người đàn ông xuất hiện. Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống đất, liếm những giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra.
Câu chuyện đơn giản trên sẽ giúp chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Chị ta nói với Chúa Giêsu:
- Thưa ông, ông không có gàu để múc, mà giếng thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.
Và Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chị ta hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu đi cơn khát thông thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm linh. Ngài nói:
- Ai uống nước này vẫn còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.
Như thế Chúa muốn nói: Về mặt thể xác, tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất cả chúng ta cũng bị khát như vậy.
Tuy nhiên, sự khát tâm linh này là gì? Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm…
Các tác giả Cựu Ước đã nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì nói:
- Như nai khát mong tìm suối mát, hồn con cũng mong đợi Ngài như thế.
Tiên tri Isaia thuật lại lời Chúa:
- Tất cả mọi kẻ khát hãy đến cùng ta.
Còn tiên tri Giêrêmia thì sánh ví Chúa như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy là cơn khát Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm nghiệm được như lời thánh Augustinô:
- Tâm hồn chúng con được tạo nên cho Chúa và nó sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
Thế nhưng, nhiều người thời nay đang cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ khác không phải là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành động như cho đứa bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho hay dùng vật chất để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng muối để giải tỏa cơn khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim mỗi người đều ẩn dấu một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi, một nỗi khắc khoải mà không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự trống rỗng mà không của cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng ta tới kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay:
Chỉ có Chúa mới thỏa mãn được cơn khát trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống nước Ta ban thì sẽ chẳng khát bao giờ.
32.Thờ lạy trong tinh thần và chân lý – André Sève
Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”
Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.
Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?
Cách duy nhất để có thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm kiếm”.
Người tôn thờ sao? Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?
Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.
Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.
Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.
Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.
Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.
33.Đấng xin nước là Nguồn Nước Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.
Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của cuộc sống kitô: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Đấng đã cho Đức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).
Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh bí tích Rửa Tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.
Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Đức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Đức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là nước hằng sống, Ngài làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới “nước hằng sống” biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin và khát sự sống đời đời. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Ngài xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Đức Kitô khát nước?
Vâng, Ngài khát, nhưng Ngài không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Ngài còn khẳng định rằng, Ngài có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài?
Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, nên Ngài khát đức tin của người đàn này. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (...) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả: “Lạy Chúa là Cha chí thánh... Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân tòng
Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.”, từ nay bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết: kể từ Origène, người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”
Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, để nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, tại căn phòng của chính chúng ta, tại một ngôi thánh đường, hay tại một nơi nào đó trong ngôi nhà của chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe âm vang lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban... ”
Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Maria, xin giúp chúng con để chúng con không đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
34.Cuộc gặp gỡ lịch sử
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin Mừng đề cập đến rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ, bên ngoài xem ra rất thường tình, song lại là những cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử. Điển hình là những cuộc gặp gỡ: giữa Chúa Giêsu và Giakêu, Chúa Giêsu và Lêvi, Chúa Giêsu và Simon Phêrô, Chúa Giêsu và người đàn bà ngoại tình, và hôm nay một cuộc gặp gỡ khác, cuộc gặp gỡ rất đặc biệt giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari. Dưới ngòi bút linh động của thánh sử Gioan, thì đây là cuộc gặp gỡ làm nên cuộc “cách mạng” lớn, cuộc “cách mạng” trên 3 bình diện: chủng tộc, giới tính và tôn giáo.
1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào phân biệt về chủng tộc.
Chúng ta biết rằng mối bất hòa giữa dân Do Thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720 TCN, người Assiri xâm chiếm và thống trị vương quốc Samaria ở phía bắc. Người Samari bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Người Do Thái coi đó là trọng tội, không thể tha thứ. Vì họ đã làm mất thuần chủng Do Thái. Cho đến nay, trong gia đình Do Thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy, vì bị xem như đã chết rồi. Như vậy, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc thống trị họ. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm công dân Dothái.
Về sau, vương quốc miền Nam, là Giuđêa cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do Thái ngoan cố. Sau thời lưu đày trở về, công việc đầu tiên của họ là tu sửa lại Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, vì muốn được cùng làm công việc thánh thiêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Nhục vì bị từ khước, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt dân Giuđêa.
Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do Thái phản đạo là Manasê tìm cách xây một đền thờ đối lập trên núi Garizim, nằm trung tâm xứ Samaria mà người phụ nữ đã đề cập đến. Về sau, năm 129 TCN, quân Do Thái mở cuộc tấn công người Samaria và hủy diệt ngôi Đền thờ tại Garizim. Người Do Thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc, Do Thái và Samaria, đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn gay gắt vào thời Chúa Giêsu. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại bắt chuyện với mình, một người Samari. (x. Bài giảng của tác giả NT). Đó là bình diện thứ nhất mà cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đã phá đổ, bình diện phân biệt chủng tộc.
2. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào kỳ thị về giới tính.
Người Samaria mà Chúa Giêsu gặp gỡ hôm nay lại là một phụ nữ. Trong khi luật cấm nam nhân chào hỏi phụ nữ giữa những nơi công cộng, cấm ngay cả với vợ, con gái hay chị em của mình nữa. Một số người Biệt phái còn nhắm nghiền mắt lại khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò chuyện với một người, chẳng những là phụ nữ, mà còn là một phụ nữ xấu nết, chồng con lăng nhăng, 5-6 lần rối. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, hay ngôn sứ, chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta. Vậy mà điều đó lại xảy ra với Chúa Giêsu (x. Bài giảng của tác giả NT). Bởi thế khi các môn đệ trở về, trông thấy sự việc, họ cho là Thầy mình đã gây ra một xì-căng-đan, có nguy cơ “mất phần linh hồn”.
3. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào độc quyền về tôn giáo.
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Còn những người Dothái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion, tức Giêrusalem. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Chúa Giêsu khẳng định: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!” Cách nói thân tình của Người diễn tả một mạc khải quan trọng: thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát: "Đã đến lúc những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Ngài chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Ngài là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, sẽ có được sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực. Tôn giáo nào đưa con người gặp gỡ được với Thiên Chúa trong Thánh Thần, trong Chân Lý, là tôn giáo được đón nhận. Đây hẳn là một cái nhìn mang tính cách mạng, cách mạng về nơi thờ phượng tôn giáo.
Nói khác đi, qua cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các lề thói chính thống của Do Thái giáo. Tại đây, Ngài đã thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người khỏi ý thức hệ, vốn trói buộc con người hàng chục thế kỷ. Tại đây, tính cách phổ quát của Tin mừng là khởi điểm. Tại đây, Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động, hành động đem lại ơn cứu độ. Dĩ nhiên, chỉ có Đấng là Mêsia, là Thiên Sai mới làm nên điều kỳ diệu đó. Ngài chính là Đấng mà Cựu Ước đã loan báo, Đấng Cứu Độ mà muôn dân đang trông đợi, Đấng đem lại Nước Hằng Sống cho con người. Amen.
35.Chúa Giêsu- Nguồn nước hằng sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ)
Lời Chúa trong Chúa nhật I Mùa Chay cho ta thấy rằng giữa muôn ngàn cám dỗ và đầy quyến rũ hiện nay chúng ta được mời gọi tỉnh táo để chọn theo Chúa. Hành trình theo Chúa dù là con đường thập giá với muôn vàn thử thách, nhưng không phải là con đường cụt dẫn đến diệt vong, mà là con đường đưa tới vinh quang như khung cảnh biến hình trên núi Tabor báo trước (Chúa Nhật II). Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Chay hôm nay giúp ta xác tín rằng theo Chúa sẽ tới được nguồn nước hằng sống. Hơn nữa theo Chúa sẽ tới được ánh sáng (Chúa Giêsu cho người mù bẩm sinh được thấy, Chúa Nhật IV) và sẽ tới được sự sống (Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại, Chúa Nhật V mùa chay).
Theo Chúa để tới được nguồn sống hằng sống là một hành trình tiệm tiến của đức tin. Đó cũng là một hành trình phải vượt qua những trở ngại của khác biệt tôn giáo, văn hóa, giới tính, quan điểm, không gian địa lý, những nhu cầu tự nhiên và nhất là cái tôi của mình… để có thể đạt tới sự “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý”.
1. Hành trình tiệm tiến của đức tin
Trong bài đọc I, trích sách Xuất hành, thuật lại việc dân chúng phải khổ cực và thiếu ăn khát uống trong hành trình qua sa mạc. Họ chán nản kêu trách Chúa và đòi ném đá Môsê. Họ nhớ dòng nước sông Nin mang lại phù sa màu mỡ, nhớ nồi thịt, nhớ củ hành củ tỏi. Họ đòi trở lại Ai cập dù cho phải chịu cảnh nô lệ. Thiên Chúa kiên nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu nước ấy để hướng dẫn họ hiểu biết đâu là điều thiết yếu trong cuộc sống: Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở phía trước là Đất hứa còn phía sau là ách nô lệ Ai cập. Do đó họ phải tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước dù hiện tại toàn khổ cực thiếu thốn.
Thiên Chúa bảo Môsê lấy gậy đập vào tảng đá để Nước chảy ra cho Dân uống để cứu dân khỏi chết khát. Việc này của Môsê trong hành trình sa mạc được coi như là hình ảnh báo trước cho Đức Kitô là Môsê mới và là nguồn mạch Nước hằng sống tuôn ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Đó cũng chính là điều mà Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta qua cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari.
Trong cuộc gặp gỡ đó, Chúa Giêsu đã khéo léo dẫn đưa người phụ nữ từng bước tới đức tin. Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ đi từ bất ngờ nầy đến bất ngờ khác, đi từ nhu cầu thể lý để đi tới sự khao khát thiêng liêng; đi từ chỗ nhận ra nơi Đức Giêsu chỉ là một khách bộ hành mệt mỏi khát nước, xin nước uống đến chỗ nhìn nhận Ngài là nguồn mạch và xin Ngài ban nước hằng sống.
Thật vậy, chúng ta thấy, người phụ nữ đi từ cái nhìn nơi Chúa Giêsu chỉ là người lữ khách khát nước, một người đối nghịch (người Do Thái vốn không ưa người Samari), đến cái nhìn bắt đầu từ chỗ nửa tin nửa ngờ rằng Đức Giêsu vượt lên cả hàng tổ phụ của cả hai dân tộc; rồi sau đó nhìn nhận “Thưa ông, ông thật là một ngôn sứ”; rồi sau nữa tin nhận Ngài là Đấng Mêssia đến dạy dỗ loài người mọi sự và cuối cùng bà với dân thành Samari tuyên xưng “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
2. Vượt những cản trở để có thể đến được mạch nước hằng sống
Đó là một lộ trình đức tin và đón nhận mạc khải mà Chúa Giêsu dẫn dắt và mời gọi người phụ nữ, dân chúng Samari và các môn đệ. Ở đây không có sự áp đặt nào. Trong lộ trình đó chúng ta thấy để có thể đến tận nguồn mạch nước hằng sống là chính Đức Kitô, người ta phải vượt qua khá nhiều rào cản.
Người phụ nữ, qua giọng nói của Chúa Giêsu, nhận ra ngay ngài không phải là dân địa phương, nhưng bà vẫn tiếp nhận cuộc đối thoại. Hơn thế nữa, không chỉ vượt lên khác biệt địa lý, người phụ nữ cũng vượt qua rào cản tập tục và tôn giáo, vì theo tập tục người đàn ông không được nói chuyện với một người đàn bà lạ mặt mà lại là người Samari. Chính các môn đệ cũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy thầy nói chuyện với bà.
Trong cuộc đối thoại, có những khoảnh khắc tưởng chừng như sẽ đi vào bế tắc: chẳng hạn như khi người phụ nữ hỏi: Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ, samari, cho ông nước uống sao? (Ga 4,9); hay khi bà nói: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này?”. Nhưng tất cả đều vượt qua những cản trở đó. Ngay cả khi Chúa Giêsu chuyển hướng cuộc đối thoại về cuộc sống riêng tư và quá khứ của người phụ nữ (mà có người cho là Chúa Giêsu thiếu tế nhị và lịch sự), nhưng bà lại nhận ra đó là tư cách của một ngôn sứ có khả năng đọc được trong tim của người đối thoại với mình… Từ đó Chúa Giêsu chuyển sang bình diện tôn giáo khi nói về việc “thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” để khai mở đức tin cho bà. Và sau đó bà lại là người đi báo tin cho dân chúng trong thành. “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39).
3. Chúa Giêsu, mãi mãi là nguồn nước hằng sống cho nhân loại
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari cho ta thêm xác tín hơn nữa rằng: chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng làm thỏa mãn mọi cơn khát của nhân loại. Ngài giúp chúng ta biết đâu là sự khát khao đích thực và ý nghĩa của nó trong thế giới hôm nay. Dường như nhu cầu vật chất và tinh thần của con người tăng lên theo cấp số nhân trong khi các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của con người chỉ tăng theo cấp số cộng. Người ta không bao giờ đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu thực sự của mình hoặc nếu có chỉ là bề ngoài và bị các phương tiện khoa học kỹ thuật ngày nay đánh lừa. Là người tín hữu chúng ta xác tín chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là mạch nước trường sinh làm thỏa mãn mọi sự khát khao đích thực của con người từ trong tận thâm sâu của tâm hồn.
Đến lượt mình, chúng ta dù vô tình hay cố ý, đừng che lấp bịt lối không để người khác đến với nguồn nước hằng sống đó. Như Chúa Giêsu và người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy biết vượt mọi chướng ngại để có thể góp phần khai thông mạch nước ân sủng đến mọi dân, mọi nước, mọi thời đại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với chúng ta rằng: “chúng ta nên sợ bị giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, những qui tắc biến chúng ta thành những quan tòa tàn nhẫn, với những thói quen làm cho chúng ta cảm thấy an thân” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 49).
Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ: “Chúng ta nhiều khi hành động như người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội thánh không phải là trạm thu phí; Hội Thánh là nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 47). Chúng ta cũng như bao nhiêu người khác đều có vấn đề của mình. Chúng ta hãy khiêm nhường, dẹp bỏ cản trở lớn nhất, vấn đề lớn nhất là cái tôi của mình để đến với Chúa Giêsu, là nguồn mạch nước hằng sống sẽ làm thỏa mãn mọi con khát đích thực của chúng ta.
36.Nước
Ai cũng cần nước. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Ai cũng biết thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là vì nước quá nhiều. Sử dụng ở đâu và lúc nào cũng có.
Chỉ khi nào hạn hán mọi sông và giếng đều cạn, mọi suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết đến giá trị của một giọt nước. Chúng ta thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh hướng phung phí và coi thường cái có nhiều.
Đối với Ả Rập hay Tây tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, với chúng ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí nước cũng không hết. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.
Nhưng có bao giờ chúng ta uống nước nhớ nguồn. Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại được dư giật nước như thế. Tại sao nước chúng ta dùng lại là nước ngọt, trong khi ở biển nước lại mặn đắng.
Kinh Thánh trả lời nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu diệt cả một thế hệ vô luân ngoại trừ Noe là người công chính. Nước ở biển đỏ đã cứu thoát dân Do Thái và vùi dập đoàn quân của Pharaon. Qua những sự kiện ấy, chúng ta thấy được giá trị của nước.
Trước hết, nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta những đổi mới cho đời sống thiêng liêng.
Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Còn gì sạch bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ đặt ra những luật lệ trong việc sử dụng nước: phải rửa tay trước khi ăn uống, phải tắm gội trước khi dâng của lễ, phải rửa chân khi đi đường xa mà trở về nhà.
Nước còn được dùng để trừ bệnh phong cùi, tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi.
Nếu như nước thường do bàn tay Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria:
Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nước sông Babylon đã chứng kiến nỗi lòng thống hối của một dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần chữa lành Naaman, đã được diễm phúc đón nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng sống vọt ra từ cạnh sườn Chúa đã tha tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho toàn thể nhân loại.
Điều quan trọng là chúng ta có đến để kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng bao giờ quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng nước ít người biết đến nhưng lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.
Điều cần thiết đó là: Hãy hiệp thông với dòng sông ấy để lãnh nhận những ân sủng của Chúa, nếu chúng ta không muốn là những kẻ bị chết khát.
37.Đổi thay
Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
1. Một sự thay đổi:
Cũng giống như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ”.
2. Một sự hiểu biết:
Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
3. Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.
4. Một chứng nhân:
Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.
Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam