Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 43
Tổng truy cập: 1360449
Ý NGHĨA BA CHỮ HẾT
Ý NGHĨA BA CHỮ HẾT
Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!
Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …
Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.
Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.
Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).
Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).
Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?
Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).
Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm
Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động
Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí.
Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.
Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:
Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.
Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.
Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:
Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.
Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.
Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.
Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:
“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).
Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.
Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).
Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.
Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.
Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.
16.Chúa Nhật 30 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
YÊU THƯƠNG - CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG
Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
17.Vị thế tối thượng của tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn.... Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con."
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối... chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
18.Tình yêu là lẽ sống
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.
19.Thiên Chúa bảo vệ người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.
1. Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa
Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.
Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.
2. Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo
Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.
3. Yêu Chúa yêu người
Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.
Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.
Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.
2. Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?
3. Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?
20.Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).
1. Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi
Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?"
Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!
Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.
Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.
2. Yêu anh em như chính mình
Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: "anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em" (Ga.13, 34).
Từ "yêu người như yêu chính mình" (Lv.19, 18) đến "yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta" (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.
Yêu như Chúa yêu!
3. Yêu nhau như thế nào?
Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh... (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!
Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?
Yêu là muốn điều tốt cho người khác!
Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!
Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
4. Truyền giáo
Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.
Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.
Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!
Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.
21.Điều răn quan trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam