Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1362115

Ý NGHĨA ĐỜI SỐNG TA LÀ GÌ?

Ý NGHĨA ĐỜI SỐNG TA LÀ GÌ?

 

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.

Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.

1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.

Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.

2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.

 

46.Dõi theo bước Chúa – R. Veritas

(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

 

47.Nghe Lời Người – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

 

48.Chúa tỏ hiện vinh quang

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)

Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản, người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: “Thầy Lazarô Phiền”. Đây là chuyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyễn trọng Quảng sáng tác vào năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mở đầu câu chuyện tác giả nhắn nhủ như sau:

Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.

Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.

Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.

Câu chuyện trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.

“Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúa Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục cho đến chết.

Chúa Giêsu đã vạch ra cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.

Kinh nghiệm hàng ngày không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú, không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.

Mùa Chay, chúng ta được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không? Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng định cho những câu hỏi nền tảng ấy.

 

49.Biến hình – Richard Gutzwiller.

(Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’)

Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:

PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.

Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.

Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.

Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.

Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.

PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.

Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.

Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.

 

50.Biến hình trên núi Tabor

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo...

Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến 70 năm.

Nhưng nếu muốn sống thọ như vậy, chúng buộc phải có một chọn lựa quan trọng và rất khó khăn ở tuổi 40.

Khi sống đến 40 tuổi, móng vuốt của chim ưng bắt đầu lão hóa, không thể túm chặt được con mồi nữa.

Mỏ của nó trở nên vừa dài vừa cong, gần như đụng đến ngực.

Ngoài ra, cánh của nó cũng trở nên vô cùng nặng nề, khiến nó mất rất nhiều sức khi bay lượn.

Lúc này, nó chỉ có hai lựa chọn: một là đợi chết, hai là trải qua quá trình lột xác và tái sinh vô cùng đau đớn.

Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo.

Việc đầu tiên mà nó cần làm ở đó là mổ liên tục vào vách đá cho đến khi cái mỏ cũ của nó hoàn toàn tróc đi.

Sau đó, nó phải nằm chờ đến khi cái mỏ mới được mọc lại.

Tiếp theo, nó phải trải qua một quá trình đau đớn hơn - dùng cái mỏ mới nhổ từng cái móng cũ ra và chờ móng mới mọc lại.

Cuối cùng, nó phải nhổ đi từng chiếc lông vũ và tiếp tục chờ đợi để đám lông vũ mới mọc ra.

Đến lúc này, diều hâu mới có thể bay lượn lại và sống thêm ba mươi năm nữa.

(First News, Điều bình dị thông thái p.57-58)

Hôm nay ngày lễ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.

Chúng ta sẽ chẳng hiểu được dụng ý của Chúa Giêsu khi hiển dung trên núi Tabor, nếu chúng ta không đặt trong bối cảnh của sự kiện.

Sau khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: vậy các con bảo Thầy là ai?

Simon Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.

Tiếp đó, Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Người:

Thầy phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21).

Nghe thế Phêrô đã can ngăn Chúa.

Cho tới lúc này các môn đệ vẫn chưa hiểu sứ vụ Messia của Chúa Giêsu.

Các ông theo Chúa và các ông vẫn thầm mong rằng khi Nước Chúa hiển trị các ông cũng sẽ được chia chác quyền lợi cũng như địa vị trong vương quốc của Chúa.

Chính vì vậy sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao.

Chúa đã tỏ vinh quang của Người trước mặt các ông.

Và Phêrô đã thốt lên: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy cho phép, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.

Chính ở đây Phêrô hiểu ra rằng để được tham dự vào vinh quang của Chúa Phêrô phải chấp nhận con đường khổ giá mà Chúa Giêsu nói đến cách đây sáu ngày.

Để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor, chắc chắn chúng ta cũng phải qua con đường thập của Chúa Giêsu.

Chính con đường thập gía, chúng ta sẽ được biến đổi, biến đổi để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor.

Nhưng phải biến đổi như thế nào?

Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói với tín hữu Êphêsô:

”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.

Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22.24).

Phải  lột bỏ con người cũ như thế nào?

Hình dung lại những giai đoạn lột xác của chú chim ưng chúng ta sẽ thấy:

- Trước hết nó mổ liên tục vào vách đá để cho lớp mỏ già cũ tróc đi.

Quả là một hy sinh đau đớn và tốn nhiều công sức.

- Sau đó lại phải dùng chính cái mỏ mới này để rút những móng vuốt già cũ của đôi chân. Một tác động phải can đảm lắm.

- Sau cùng phải rút tỉa những chiếc lông già cũ.

Công việc này chắc chắn sẽ làm chú chim ưng ê ẩm đau nhức một thời gian khá dài.

Chú chim ưng chỉ muốn kéo dài kiếp sống thêm 30 năm mà còn phải chấp nhận 150 ngày thử thách đau thương, phương chi là con người chúng ta, từ một con người yếu đuối, tội lỗi để đi vào sự chia sẻ thiên tính vinh quang của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn lột xác như con chim ưng.

Lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.

Và để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm hồn chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa lúc Chúa biến hình trên núi Tabor, nhưng chúng con lại muốn dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không muốn trèo lên núi Canvê.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn theo Chúa trên con đường Chúa đã đi, con đường thập giá, con đường dẫn lên Núi Sọ. Amen.

 

51.Con yêu dấu

Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình những hai lần.

Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:

- Này là Con Ta yêu dấu.

Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:

- Này là Con Ta yêu dấu.

Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:

- Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.

Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:

- Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.

Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:

- Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.

Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.

Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:

- Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.

Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.

Muốn được như thế chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.

Bởi đó, để trở thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.

Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:

- Này là Con Ta yêu dấu.

 

52.Khuôn mặt ngời sáng – Thiên Phúc

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông.

Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.

Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.

Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.

Đức Giêsu biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được trước vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.

Người kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức Kitô.

Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.

Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em.

Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.

Người tín hữu thường nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục sinh rạng ngời.

Mùa Chay là mùa sám hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu thương.

Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.

Canh tân là lao mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.

 

53.Vẻ đẹp của phẩm giá con người

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá...

SUY NIỆM

Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt trội, thìon người kỳ vọng về một cuộc sống hạnh phúc hơn, an bình hơn. thế nhưng sự kỳ vọng luôn là một ước mơ xa vời, cho dẫu y khoa có tiến bộ đó, nhưng con người  vẫn luôn đối diện với những căn bệnh ngặt nghèo mà không có một phương thuốc chữa trị được; cho dẫu khoa học kỹ thuật đang nỗ lực tạo ra cho con người những tiện nghi để cuộc sống đỡ vất vả hơn, thế nhưng cuộc sống của con người vẫn luôn đầy dẫy khó khăn; sự văn minh có tiến bộ đó, nhưng đời sống con người luôn ở trong tình trạng bất an. Sự bất an đó không chỉ đến từ mối lo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an ninh xã hội…, nhưng trên hết chính là sự vô cảm ngày càng phát trển nơi cộng đồng xã hội về việc tôn trọng phẩm giá con người.

Con người trong thế kỷ tiến bộ nầy đã biến thành phương thế kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm như nạn bắt cóc trẻ em để buôn bán nội tạng hoặc biến thành nô lệ tình dục cho những người nhiều tiên nhiều bạc nhưng bệnh hoạn, nạn buôn bán phụ nữ cho các quán lầu xanh để phục vụ cho những con người chỉ tìm thoả mãn nhục thú, và nhất là sự sống con người càng ngày càng bị khinh rẻ, cho nên người ta đã không gớm tay khi phá thai, hoặc ra tay giết chết đồng loại. Người thời đại hầu như không còn nhận ra đặc tính thần linh nơi con người, mà hầu như chỉ còn coi sự hiện hữu của con người giống như bao sinh vật khác, và vì thế phẩm giá con người bị chà đạp cách thô bỉ.

Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá. Nhờ phẩm giá đó mà con người được Thiên Chúa yêu thương và được gọi là con. Quả thật, lời Kinh Thánh đã minh xác: Đức Kitô đã mặc lấy thân xác con người như chúng ta, nghĩa là một thân xác được cấu tạo từ bụi đất, mỏng dòn và hư hoại. Nhưng thân xác đó đã được Đức Kitô biến đổi để trở nên chói lọi như mặt trời, có nghĩa là thân xác đó được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Và điều đó thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng về sự vinh quang mà thân xác của chúng ta sẽ được dự phần.

Niềm hy vọng đó không là chuyện hão huyền, bởi Đức Kitô đã trở thành trưởng tử của đàn em đông đúc, cũng có nghĩa là người anh cả không để đàn em hư mất, nhưng trái lại người anh ở đâu thì đàn em cũng ở đấy. Vì thế, cuộc biến hình trên núi của Chúa là lời mời gọi chúng ta bước theo Người để cùng được biến đổi như Người. Con đường theo Chúa, chính là con đường của Thập Giá, con đường của hy sinh, của từ bỏ lối sống hưởng thụ ích kỷ, để yêu thương và biết xót thương.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tôn trọng phẩm giá của chính mình và của ngừoi khác để chúng con luôn biết điểm tô cho phẩm giá bẳng tình yêu thương, và sự dấn thân phục vụ thiện ích cho nhau. Amen.

 

54.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

CHIÊM NGẮM VINH QUANG THẦN TÍNH CHÚA TIỀN PHỤC SINH

Trận siêu động đất và sóng thần hôm 11.3 vừa qua đã làm cho Nhật Bản, một đất nước từng thịnh vượng thứ hai thế giới, phải chao đảo. Nhiều thành phố hoang tàn đổ nát; một số thị trấn bị xoá sổ; nhiều người mất nhà cửa, tài sản, người thân, lang thang trong vô vọng. Chỉ trong phút chốc tất cả đều bị thuỷ thần cuốn phăng ra biển.

Các bản tin liên tục cập nhật con số thương vong theo chiều hướng ngày một tăng làm cho nhiều người choáng váng. Đặc biệt là tin tức dự báo về các dư chấn mạnh sẽ còn xảy ra nhiều trong thời gian sắp tới, cũng như tin về mức độ phát tán chất phóng xạ nguy hiểm trong không khí từ các lò phản ứng hạt nhân bị nổ hay bị hư hỏng... Tất cả đã tạo ra một bầu khí hoang mang và ảm đạm bao trùm toàn thể nước Nhật, kể cả thủ đô Tokyo, một thành phố hiện đại bậc nhất của xứ sở Hoa Anh Đào. Đối diện với hiểm nguy rình rập từ các vụ dư chấn, nhất là phóng xạ hạt nhân, các du học sinh sinh viên và kiều bào nước ngoài sinh sống tại Nhật đã phải tìm cách tháo chạy khỏi nước Nhật càng sớm càng tốt. Còn người dân bản xứ cảm thấy hoang mang và lo sợ não nề.

Trước lời loan báo về viễn tượng đen tối của cuộc thương khó Chúa Giêsu, tâm trạng của các môn đệ có lẽ cũng hoang mang và lo sợ não nề không kém người dân Nhật hiện nay. Lo sợ vì khi Chúa Giêsu cho biết Ngài sẽ phải đương đầu với sự bắt bớ, bách hại, các ông không còn nhìn thấy được đâu là đấng cứu tinh mà muôn dân đang trông đợi. Hoang mang vì khi sắp sửa phải đối mặt với thập giá Chúa Giêsu, các ông chẳng còn nhận ra được đâu là thần tính của đấng mà các ông nhiều lần gọi là Chúa. Não nề vì khi chạm trán với viễn tượng chết chóc, các ông chẳng còn hình dung được đâu là sự sống đời đời mà Thầy mình đã từng cao rao.

Hiểu rõ nỗi lòng của các môn sinh, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa họ lên núi để họ được chiêm ngưỡng một biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, biến cố mở ra cho họ một viễn tượng mới tràn đầy hy vọng: Biến Cố Hiển Dung.

1. Hiển dung, biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.

Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng các ông cứ tin tưởng có thế giới bên kia, nơi mà hai vị đại ngôn sứ đang sống hạnh phúc ngập tràn. Và rằng các ông cứ an tâm Thầy của họ có chết thì cũng sẽ phục sinh vinh quang.

2. Hiển dung, biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.

Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu, ẩn dấu trong một thân xác nghèo hèn dân dã.

Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: "Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như tuyết". Rạng ngời đến nỗi các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: "Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều". Trong một bài suy niệm của mình, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng đã viết: "Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che dấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tâm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang".

3. Hiển dung, biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Thầy mình.

Chúng ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt, ít là có hai trong ba môn đệ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của ba môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài". "Lời Ngài" mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.

ĐTC Bênêdictô XVI, trong Sứ điệp Mùa Chay 2011, đã nói: "Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt chúng ta vinh quang của Chúa Kitô, báo trước cuộc phục sinh và loan báo sự thần hóa con người Kitô hữu. Ngài mời gọi chúng ta hãy ý thức mình cũng được dẫn lên núi cao như các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, để tái đón nhận món quà Ân Sủng của Thiên Chúa là Chúa Kitô" (số 2). Trong ý nghĩa đó, một khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, chúng ta được mời gọi hãy chiêm ngắm biến cố Hiển Dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau, cuộc sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin vào Người. Hơn nữa, chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua được những thử thách đau thương ấy trong đời. Amen.

 

55.Núi vinh quang

Trong mùa Chay, mùa dẫn đưa chúng ta tiến về cuộc Khổ nạn, phụng vụ mang lại cho chúng ta một giây phút an ủi mà Thiên Chúa muốn đưa đến cho các tông đồ đang trong cơn rối loạn. Vào giai đoạn này của cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu cảm thấy nổi lên quanh Ngài sự thù địch của những người lãnh đạo tôn giáo và sự thất vọng của dân chúng đang chờ đợi một vị Vua Cứu Thế. Từ nay Ngài sẽ dành thì giờ cho việc đào tạo các môn đệ của Ngài, nhưng chính các ngài cũng mất phương hướng. Các tông đồ nói với Ngài: “Thầy là Đấng Cứu thế!” và Ngài trả lời: “Phải, nhưng Thầy sẽ phải chịu đau khổ”. Các tông đồ thắc mắc về con người kỳ lạ này, một con người dường như nhiều quyền năng như thế mà lại nói đến việc phải chịu đau khổ.

Chính Thiên Chúa sẽ nói với các tông đồ của mình đang đứng trên bờ hoài nghi: “Con người đang hiển dung này là Con Ta!”

Việc hiển dung là một ân sủng của mạc khải. Bằng tất cả các phương tiện, văn phong hùng tráng, cái nhìn, tiếng nói, biểu tượng, tác giả Tin Mừng muốn làm cho chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Giêsu: Ngài “là thân phận Thiên Chúa” (Pl 2,6), như thánh Phaolô đã nói. Đám mây chính là dấu hiệu của Thiên Chúa, y phục trắng và khuôn mặt chói sáng như mặt trời cũng thế. Núi, cùng với Môisê và Êlia, nhắc lại sự mạc khải trên núi Si-nai. Đấng sẽ phải chịu đau khổ đúng là một con người như chúng ta, nhưng được biến đổi do mầu nhiệm ở trong. Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha. Một chốc lát được vén mở: vinh quang của Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài đến từ trời, Ngài là Đấng Cứu thế duy nhất, Ngài sẽ tái lâm trong vinh quang này và làm cho chúng ta thành những người được biến đổi.

Đôi khi chúng ta cần phải lên đường với Phêrô, Giacôbê và Gioan hướng tới núi vinh quang. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, sẽ luôn luôn vượt khỏi trí khôn chúng ta, nhưng lời ánh sáng này “Đây là Con Ta yêu dấu” làm cho chúng ta ngẵm nghĩ về điều cốt lõi này là chúng ta được yêu thương. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3,16). Và đây tình yêu đã làm điều này: Người Con duy nhất không những đến cư ngụ ở trên trái đất mà còn cư ngụ trong cuộc đời của chúng ta nữa. Điều đó làm cho thân phận làm người sáng giá biết bao! Chắc chắn những hình ảnh nặng nề, trống rỗng, đau khổ và thất vọng nhanh chóng hiện ra khi chúng ta nói: “Đời là thế!”. Chúng ta tìm gặp lại các hình ảnh đó khi chúng ta nói lại về việc hiển dung được Matcô và Luca chứng kiến: chúng ta bất cần Vinh quang, kẻ được biến đổi sớm muộn gì rôì cũng bị biến dạng.

Nhưng Chúa Cha long trọng tuyên bố rằng người này là Con của Ngài để chúng ta biết rằng dầu sao tất cả những gì có thể đến với Ngài và đến với chúng ta, Ngài vẫn là Mặt trời của thế giới ngay từ bây giờ, và Ngài sẽ là Mặt trời của thế giới trong tương lai. Chúa Hiển dung, bằng một tia chớp ngắn ngủi, đưa chúng ta ra khỏi những mặt trái thô ráp của cái mà chúng ta đang sống: “Hãy nhìn vinh quang của bạn trong vinh quang của Ngài”.

 

56.Mặt Người chiếu sáng như mặt trời

(Suy niệm của Lm Paul - Maurice Lâm Thái Sơn)

Cách chung, người Việt Nam chúng ta rất sùng đạo, vì thế mỗi khi nghe có một phép lạ xảy ra hoặc được biết Đức Mẹ (hay một Đấng Thánh) hiện ra tại nơi nào đó thì lập tức từng đoàn người ùn ùn kéo đến để cầu nguyện để xin ơn. Tại sao? Tại vì rất phù hợp với mộng ước sâu xa của bao người tín hữu, đó là "gặp được Thiên Chúa" (Thiên Chúa, Đức Mẹ, hay một đấng Thánh nào đó) và được nói chuyện... hoặc ít ra cũng được chứng kiến cuộc độc thoại, như chuyện ông Stêphanô ở nhà thờ Bình Triệu trong những năm 75-78 tại Sài Gòn.

Tuy nhiên, sau những lần như vậy thì phần đông hoặc thất vọng hoặc hoang mang, để rồi những câu hỏi được đặt ra: tại sao Thiên Chúa phải trốn tránh chúng ta? Tại sao Đức Mẹ không hiện ra cho chúng ta được thấy để thêm lòng tin nhiều hơn?

Các môn đệ đã từng sống và nghe Chúa Giêsu giảng dạy, đã bao lần các ông cùng đi với Ngài trên khắp các thôn làng xứ Giuđêa, các ông tưởng rằng đã biết rõ Đức Thầy của mình... nhưng rồi một ngày kia, điều mà Phêrô, Giacôbê và Gioan khám phá trên một núi cao đó là một hiện tượng lạ lùng: các ông được chứng kiến Thiên Chúa đang gần gũi các ông qua sự biến hình của Đức Giêsu, "mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như tuyết, có Maisen và Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài".

Mặc dù Thiên Chúa vô hình, nhưng đôi khi Ngài cũng tỏ hiện qua những dấu chỉ bên ngoài, qua những hiện tượng vũ trụ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng. Theo như Cựu Ước: một bụi cây cháy bừng nhưng không bị thiêu rụi, mạc khải cho Maisen biết rằng Thiên Chúa là Thanh Khiết và Chí Thánh; cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm dẫn đường cho dân Hy Bá Lai trốn khỏi xứ Ai Cập biểu lộ Thiên Chúa là Ánh Sáng và Hiện Hữu; còn Vinh Quang và Quyền Năng Thiên Chúa cũng được bày tỏ qua sức mạnh của lửa và sấm sét trên đỉnh núi Sinai khi Ngài lập Giao Ước với dân Ít Diên. Và trong Tân Ước: sự tỏ hiện quan trọng nhứt chính là sự Biến Hình của Đức Giêsu trước mặt 3 môn đệ. Theo như Kinh Thánh, núi cao là nơi đặc ưu giữa đất trời liên hệ với nhau, nơi mà loài người cảm thấy sự nhỏ bé của mình trước tầm vóc vĩ đại của vũ trụ. Qua gương mặt rực rỡ và tà áo chói loà, Đức Giêsu tỏ hiện trong hai bản tính vừa là Thiên Chúa và cũng vừa là con người. Sự hiện diện của Ngài giữa Maisen (biểu tượng cho Lề Luật được ban trên núi Sinai) và Êlia (tượng trưng các tiên tri loan báo Đấng Thiên sai) nói lên sự gặp gỡ giữa Cựu Ứơc và Tân Ước, cả hai ông là chứng tá cho quá khứ tán dương Đức Giêsu Kitô vinh hiển mai sau.

Sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu mang ý nghĩa là cuộc sống hạnh phúc có thể có ngay từ trần gian này. Sự biến hình đó có thể biến đổi chúng ta, và từ đó ta có thể biến đổi kẻ khác: khi mà chúng ta biết biến đổi trong cuộc sống thường nhật bằng cách nhìn hoặc cách cư xử của chúng ta, từ ánh mắt tràn đầy thù hận ta biến đổi thành đôi mắt thương yêu trìu mến, từ lòng tham ích kỷ ta đối xử trong tin yêu chia sẻ, để ánh sáng trong ta và kẻ khác, đang bị chôn vùi trong hận thù và bạo lực giữa lòng đau khổ tuyệt vọng, được vùng lên sáng tỏa giúp tất cả luôn vui sống vương mắt mong đợi một Hạnh Phúc tỏa sáng không bao giờ tàn suy.

Nhưng tại sao "Chúa Giêsu ra lệnh cho 3 môn đệ không được nói với ai về việc đã thấy cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại"? Vì một trong những câu giải đáp là một khi Ngài tiết lộ căn tính Ngài là Con Thiên Chúa thì chính là lúc mà Ngài sẽ tự ký tên vào bản kết án chính mình. Nên nhớ lại lúc Ngài bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thượng tế hỏi: "Ngươi có phải là Đức Kitô, Con Thiên Chúa không?" và câu trả lời xác nhận "đúng như các ông nói" sẽ làlý do kết án Ngài (Lc 23:66-71). Vì thế, trong 3 năm rao giảng Tin Mừng, có biết bao lần Ngài được những đám đông ca tụng và muốn đưa Ngài lên làm vua, sau những khi Ngài chữa lành các bệnh nhân hoặc hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng vạn người, nhưng Đức Giêsu đã từ chối quyền uy và sức mạnh, Ngài quyết định thực hiện sứ mệnh thiên sai theo cách thế Thiên Chúa trong tinh thần khó nghèo và khiêm nhu. Vì vậy, Ngài rất dè dặt trong công trình, và căn tính của Ngài chỉ được tiết lộ vào cuối cuộc đời, trong giờ chiến đấu quyết liệt, lúc mà tính cách chân chính của sứ mệnh không còn phải che dấu mập mờ nhưng ngược lại cần bộc lộ minh bạch căn tính Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống, khi Ngài chiến thắng sự chết.

Ta đừng nên lẫn lộn Phúc Âm, sứ điệp của Đức Giêsu, với những chuyện phiêu lưu kỳ diệu mang tính cách thiên anh hùng ca. Có thể hầu hết chúng ta chưa bao giờ được diễm phúc chứng kiến những phép lạ, nhưng không vì thế mà chúng ta đành loại bỏ tất cả những gì được viết trong Kinh Thánh và cho đó là những chuyện được sáng tác theo nhu cầu và hoàn cảnh sống, cũng như đừng cho rằng Tôn Giáo chỉ là những điều tuyệt vời, những phép lạ phi phàm với những sự hiện ra hoặc những biến đổi hình dạng không liên can gì đến cuộc sống thường nhật. Chúa Giêsu không thể là kẻ pha trò hay nhà ảo thuật đối với chúng ta. Sự biến hình của Ngài mạc khải rằng con đường Ngài đi trên trần thế này phải vượt qua sự cô độc của thập giá trước khi đạt đến Vinh Quang.

Trong Mùa Chay, kinh nguyện, ăn chay và bố thí là những phương thế giúp chúng ta sống gần gũi Thiên Chúa. Những lần tham dự Thánh Lễ và lắng nghe Lời Chúa là những lần chúng ta sống biến hình kết hợp với Thiên Chúa và hiệp thông với các tín hữu của Giáo Hội hoàn vũ. Ước gì từ nay cuộc sống chúng ta được biến đổi để luôn phản chiếu ánh sáng của Đức Kitô cho mọi người khác.

 

home Mục lục Lưu trữ