Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1360774
Y PHỤC TIỆC CƯỚI
Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới… dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng” xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 – 61,10 – 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 – 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 – 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 – 21,2-9′ – 22,17; Khải Huyền 20,9 – 21,2-9 v.v…). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một “Giao ước” một “Lễ cưới”. Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là “một câu chuyện tình yêu?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới…
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự “vương giả”… một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. “Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? “. Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ… Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”.
Như trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một “thẻ” vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Như trong “mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người… trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi… chính thế giới hiện nay…đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người “thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi… 2. và đến những người.”phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa… “Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật… Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi…”. Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những ‘lời’ kêu gọi của Người. “Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?”. Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa” (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp “vâng” với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các “ông lớn” không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: “Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời… “.
Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của “tôn giáo bình dân sao?”.
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải “mặc lấy con người mới” (Ga-‘lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?”
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của “Y phục lễ cưới”, của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném “ra ngoài”. Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”. Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TIỆC THỜI CÁNH CHUNG (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Qua hình ảnh bàn tiệc, các ngôn sứ đã thử mô tả niềm vui tương lai của những người công chính trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, đồng thời ơn cứu độ và muôn vàn thiên ân đa dạng vào thời Thiên Sai. Bàn tiệc thời Cánh Chung hay bàn tiệc thời Thiên Sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn được trích dẫn là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.
Viễn cảnh thời Cánh Chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc đãi muôn dân một bữa tiệc” (Is 25: 6a)
“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5).
Cũng chính vị ngôn sứ này nhắc lại:“Vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (Is 24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem” (Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.
Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6b).
Cho đến lúc đó, trong các hy lễ, “thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn bởi vì:
“Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy” (Is 25: 7-8)
Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)
Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độ” (25: 9a) và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ:“Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (25: 9b).
Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).
Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: thánh nhân múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.
Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: vì bất trung với sứ mạng của mình, dân được tuyển chọn sẽ được thay thế bởi lương dân. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: Dụ ngôn “tiệc cưới” nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và sát hại các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.
“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.
Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Như vậy, toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.
Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)
Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).
Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam