Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1355456

YÊU MẾN VÀ PHỤNG THỜ THIÊN CHÚA

YÊU MẾN VÀ PHỤNG THỜ THIÊN CHÚA

Giuse Hoàng Thanh Phong

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như nhắc nhớ mỗi người chúng ta về đời sống phụng thờ Thiên Chúa của mình. Lòng yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa là cách diễn tả rõ nét nhất lòng tin của mỗi người chúng ta.

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”

Đoạn trích trong sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta nghe trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chứa đựng kho tàng quan trọng bậc nhất, mà bất cứ người tin theo đạo Do-thái nào, cũng không bao giờ được quên: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.  (Đnl 6,4-5). Thật vậy, chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’ là nền tảng căn cốt nhất của đạo Do-thái. Lời nhắn nhủ này được gọi là Shema, là lời kinh mà tất cả những ai theo đạo Do-thái phải thuộc nằm lòng ngay từ thuở nhỏ. Họ thường lập lại lời kinh này nhiều lần trong ngày để nhắc nhớ bản thân về chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’, cũng như bổn phận phải yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.

Để trả lời cho một người trong nhóm kinh sư về câu hỏi ‘điều răn nào quan trọng nhất’, Chúa Giê-su cũng đã dùng chính lời Kinh Thánh trên để trả lời. Thế nên, lời nhắc nhớ về ‘Thiên Chúa duy nhất’ không chỉ dành cho người theo đạo Do-thái, nhưng còn dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Điều này làm cho chúng ta xác tín rằng, không phải ai khác, hay thần nào khác, nhưng chính Thiên Chúa duy nhất đã vì yêu thương mà đã tác sinh muôn vật muôn loài. Cũng chính Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta biết về kế hoạch cứu độ, hầu mang lại niềm hy vọng cho chúng ta được tham dự vào đời sống vĩnh cửu. Cũng chính vì lòng yêu thương quảng đại của vị Thiên Chúa duy nhất ấy, mà chúng ta vẫn được sống, được hoạt động, được hạnh phúc trong cuộc sống này.

Lời nhắc nhớ chúng ta về ‘Thiên Chúa duy nhất’ đồng thời khơi dậy trong tâm hồn chúng ta tâm tình yêu mến Người: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Cần biết rằng, Thiên Chúa là Đấng toàn hảo tự tại, nên lòng yêu mến của chúng ta sẽ chẳng khiến cho Thiên Chúa thêm hoàn hảo thêm chút nào. Đúng hơn, chúng ta tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa trước hết vì những điều thiện hảo mà Thiên Chúa vẫn hằng ban cho chúng ta. Chúng ta diễn tả lòng yêu mến Thiên Chúa với hết cả tâm hồn vì tình yêu vô điều kiện mà Người đã tặng ban cho mỗi người trong chúng ta. Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu mến Thiên Chúa không phải vì bản thân Người, nhưng vì chính mỗi người chúng ta. Đúng hơn, chúng ta sẽ chỉ được sống và hạnh phúc khi chúng ta ở với Thiên Chúa mà thôi, vì duy chỉ có Người là nguồn sống duy nhất cho muôn vật muôn loài.

Trong Linh Thao, Thánh Inhaxio Loyola đã cụ thể hóa lời nhắn nhủ này trong ‘Nguyên Lý Và Nền Tảng’:“Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở….” (Linh Thao, số 23)

Nguyên lý và Nền Tảng trên đây giúp cho chúng ta thấy mục đích của đời sống con người là để “ngợi khen, tôn kính, và phụng sự Thiên Chúa”. Thế nên, việc sắp đặt trật tự trong đời sống chúng ta thật quan trọng biết bao: Thiên Chúa phải là trước hết và trên hết mọi loài thụ tạo. Khi chúng ta đảo lộn trật tự này, chẳng hạn khi đặt bản thân mình hay các thụ tạo khác lên hàng đầu, chúng ta đang đặt lòng tin của mình ở sai chỗ.

Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ chúng ta ít đề cập đến các ngoại thần cho bằng những ‘vị thần’ do chính chúng ta tạo ra. Mỗi người trong chúng ta thử dành ra ít giây phút tĩnh lặng để xem Thiên Chúa đang có vị trí nào trong cuộc đời của mình. Thiên Chúa có phải là quan trọng nhất đối với tôi lúc này hay chăng? Nếu Thiên Chúa không còn ở vị trí số một trong tâm hồn tôi thì ‘vị thần’ nào đã được đặt vào vị trí ấy của Thiên Chúa?

Cần biết rằng, dù chúng ta đang chẳng ưu tiên vị trí quan trọng nhất cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Thiên Chúa vẫn mong ước chúng ta biết sắp đặt lại trật tự cuộc sống của mình, chẳng phải vì ích lợi gì cho Ngài, cho bằng vì phần rỗi của chính chúng ta. Đúng hơn, chỉ nơi Thiên Chúa duy nhất, chúng ta mới được hiện hữu và hạnh phúc viên mãn mà thôi.

Yêu mến và phụng  thờ Thiên Chúa

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất có thể được diễn tả bằng nhiều cách thế khác nhau, nhưng sống động nhất vẫn là trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri cho chúng ta biết về vai trò duy nhất của vị tư tế hằng hữu là Đức Kitô, trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Vị thượng tế hằng hữu có vai trò chuyển cầu cho chúng ta tới Thiên Chúa, vì tự bản thân mỗi người chúng ta chẳng thể trực tiếp đến với Người (Hr 7,25). Vì vậy, Đức Giêsu Kitô vẫn hằng hiện diện cách sống động trong mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng thì chúng ta thực sự đang lắng nghe Lời của Chúa Giêsu đang nói với chúng ta. Khi vị linh mục truyền phép thì bánh và rượu nhờ quyền năng của Chúa Thần, đã trở nên Mình và Máu thánh Đức Giêsu Kitô, trở nên thần lương nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đức Giêsu cũng chính là người sai chúng ta ra đi loan báo Tin mừng khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.

Thế nên, việc tham dự vào đời sống phụng vụ của Giáo Hội, đòi hỏi chúng ta tham dự với lòng sốt sáng kính tin của mình. Qua đời sống phụng vụ, chúng ta đang diễn tả đức tin của mình nơi Thiên Chúa, cụ thể qua việc: xám hối lỗi lầm, ca tụng Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin, lãnh nhận ơn lành… Thế nên, chúng ta không phải đến ‘xem thánh lễ’ cho xong bổn phận mà Giáo Hội đòi buộc. Đúng hơn, chúng ta được mời gọi để tham dự thánh lễ và cùng hiệp dâng của lễ là đời sống của mình, kết hiệp với của lễ duy nhất của Đức Giêsu xưa kia trên thập giá, mà dâng lên Thiên Chúa Cha (Hr 7,27).

Thực ra, khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đồng thời cũng đã được lãnh nhận chức vụ tư tế phổ quát. Điều này có nghĩa, cuộc đời mỗi người chúng ta đã được thánh hiến để trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Thế nên, chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng của lễ sống động là đời sống của mỗi người. Qua vị tư tế hằng hữu là Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn của cuộc sống này. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương chúng ta vô điều kiện chắc chắn sẽ nhậm lời nguyện xin, cũng như đón nhận của lễ mà chúng ta dâng tiến lên Người. Ngoài việc yêu mến phụng thờ Thiên Chúa duy nhất, Chúa Giêsu đưa ra một điều răn khác không thể tách rời, đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng việc chúng ta yêu mến và hiến dâng đời sống của mình cho Thiên Chúa và mở lòng đón nhận tha nhân.

Thế nên, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể được hiểu như một cử hành phụng vụ hay một thánh lễ kéo dài. Cuộc đời chúng ta vì vậy là một chuỗi những diễn tả lòng tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất. Lòng tin ấy được diễn tả cách cụ thể bằng cả đời sống của mình, như của lễ toàn thiêu, được hiệp với lễ hy sinh của Đức Giêsu mà dâng lên Thiên Chúa. Amen!

Về mục lục

HẾT CẢ TRÍ KHÔN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi “xưng tội rước lễ lần đầu” đến các cụ già mà chưa lẩn trí thì đều nằm lòng câu kết trong kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời: “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy – Amen”. Là người con cái Chúa trong Giáo Hội Công Giáo, có thể khẳng định rằng, hiếm có ai tự nhận mình không yêu mến Thiên Chúa. Dù minh nhiên hay mặc nhiên, chúng ta đều xác nhận rằng mình phải yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên mức độ của lòng yêu mến ấy đến đâu cũng như cái cách thức yêu mến ấy có đúng hay không thì cần phải xem xét.

Trước câu hỏi của vị luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã lấy lại đoạn sách Đệ Nhị Luật đồng thời có thêm một chút để trả lời: “Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất! Người phải yêu mến Đức Chúa, Chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi…” (x.Mc 12,28-34; x.Đnl 6,2-6). Xin mạn bàn về yếu tố Chúa Giêsu thêm đó là “hết trí khôn”, cụm từ không có trong sách Đệ Nhị Luật.

Trí khôn là một trong hai cơ năng của linh hồn mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài thụ tạo hữu hình. Đã là người thì ai cũng chân nhận rằng nhờ trí khôn mà con người trỗi vượt các loài vật bậc thấp. Chuyện tích về bác nông phu mưu trí đánh thắng con hỗ là một ví dụ. Cũng là làm việc nhưng nhờ trí khôn, con người ý thức mình làm việc gì với động cơ và mục đích gì. Chính vì thế cung cách làm việc của con người mỗi ngày mỗi mới, phát triển và hoàn thiện không ngừng. Trong khi đó loài vật vì thiếu khả năng này nên cách hoạt động của chúng hầu như không đổi thay mà nếu có thì cũng rất nhỏ và qua một thời gian rất dài chịu điều kiện hóa bởi các yếu tố của giới tự nhiên mà thôi.

Khi thêm vào yếu tố “trí khôn” chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ đề cập đến một nét cao quý của con người mà còn lưu ý đến cung cách “giữ đạo”, “sống đức tin” của dân Chúa xưa và chúng ta mọi thời, mọi nơi. Chúa Giêsu đã từng nhiều lần hữu ý vi phạm luật sạch nhơ và luật ngày hưu lễ của Do Thái giáo thời bấy giờ. Người cố tình làm như vậy, vì người ta đã giữ luật cách máy móc, vụ hình thức mà quên mất mục đích và ý nghĩa của luật. Chẳng hạn luật sạch nhơ có ra là để dân Chúa biết giữ gìn tâm hồn trong sáng và làm thanh sạch cõi lòng khỏi các vết nhơ của tội lỗi, khỏi những tham lam và đam mê bất chính. Do đó cách thế giữ luật phải chú trọng đến tâm hồn hơn là quá tỉ mỉ, chi li với những nghi thức bên ngoài như rửa chén bát, rửa chân tay… Muốn tâm hồn được thanh sạch là phải loại khỏi tâm trí những ý định bất chính, xấu xa và Người đan cử một số điều như: “Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21). Bên cạnh đó để làm cho tâm hồn mình trinh trong thì Người dạy phải sống đức ái qua việc liên đới chia sẻ với tha nhân: “Hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho các ngươi (Lc 11,41).

Với trí khôn thì khi thực hiện các hành vi đạo đức của tôn giáo, chúng ta phải biết rõ hành vi ấy là gì (What?) Vì sao phải thực hiện điều ấy là làm việc ấy để nhằm mục đích gì (Why?). Và rồi chúng ta sẽ biết làm việc ấy như thế nào (How?), ở đâu và trong hoàn cảnh nào (Where? When?). Khi một số biệt phái trách cứ rằng các môn đệ mình không ăn chay thì Chúa Giêsu nhân đó đã dạy họ phải sống đạo với cả trí khôn. Trước hết hãy ý thức ăn chay nghĩa là gì và vì sao ăn chay để rồi biết cách ăn chay đúng đẹp thánh ý Thiên Chúa. Ăn chay là một hình thức sám hối, thú nhận tội lỗi, nhất là tội nghiêm trọng.

Xưa vua quan dân thành Ninivê đã dùng sự ăn chay để bày tỏ sự ăn năn sám hối về tội lỗi tày trời họ đã phạm khiến Chúa đe phạt hủy diệt cả thành. Trong khi đó nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời Chúa Giêsu không chỉ lầm mà còn giảng dạy sai lạc. Họ lầm tường rằng ăn chay là một trong những cách thế thu tích công đức trước mặt thiên hạ và cả trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện có người biệt phái vào đền thờ ngửa mặt kể lễ công trạng ăn chay với cả Thiên Chúa. Để khẳng định điều này thì Người nói rõ: “Không lẽ thực khách hay các phù rể có thể ăn chay khi tân lang đang còn ở với họ. Khi nào tân lang bị đem đì thì bấy giờ họ mới ăn chay” (x.Lc 5,33-39). Khi đang còn ở với Thầy Giêsu thì cách nào đó các tông đồ đang còn ở trong ân sủng. Khi phạm trọng tội là lúc chúng ta xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình và lúc đó mới thực sự cần phải ăn chay.

Không dám hồ đồ nhưng có vẻ đến hôm nay còn không ít Kitô hữu từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ vẫn sống đạo một cách máy móc, nếu không muốn nói là thiếu ý thức đúng và đủ những gì mình thực hành. Vừa qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ra lệnh Kitô Hữu Công Giáo ăn chay một ngày (22/10) và mời gọi đoàn tính hữu sống mùa dịch bệnh trong tinh thần chay tịnh. Nếu không được hướng dẫn thì đoàn tín hữu dễ lầm tưởng rằng vì nhân loại tội lỗi nên bị dịch bệnh, khiến cho một số người hiểu lầm như nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu. Và cũng có thể có nhiều người nghĩ rằng ăn chay hãm mình hy sinh như lễ vật dâng lên Thiên Chúa hầu mong Người đoái thương khử trừ dịch bệnh. Thế mà đã gần hai năm nay biết bao lễ vật hy sinh trên khắp thế giới cùng với lời cầu nguyện dâng lên mà như chưa thấu đến Đấng Toàn Năng. Tình cảnh này có thể làm cớ cho nhiều người hoài nghi và than thở như cố nhạc sĩ họ Trịnh là “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người…”.

Chuyện chay tịnh, hãm mình, hy sinh thì ai ai cũng mến phục. Tuy nhiên việc sống khắc khổ, kiêng khem trong tình cảnh mà người dân, nhất là người nghèo, người đang thiếu thốn lương thực cần phải có đủ sức đề kháng để chống dịch thì xem ra cần được giải thích và hướng dẫn cho thấu tình đạt lý dưới ánh sáng đức tin. Truyền thống là tốt. Thế nhưng nhiều khi nó cũng có thể kìm giữ chúng ta trong lối mòn của thứ rượu cũ. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới, nhưng người ta lại thích rượu cũ và giữ mãi cái bầu cũ hơn. Đức Phanxicô đã từng cảnh giác về kiểu biện bạch để khỏi canh tân, đổi mới đó là: “xưa đã là như vậy rồi”. Với cả trí khôn thì việc sống đức tin đòi hỏi chúng ta phải trưởng thành mỗi ngày. Chắc hẳn có đó nhiều cơ chế, luật lệ và hình thức sống đạo trong Giáo hội cần đổi thay khi đoàn con cái Chúa biết sử dụng trí năng để sống đức tin cách ý thức trong tình liên đới và tinh thần trách nhiệm.

home Mục lục Lưu trữ