Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 108

Tổng truy cập: 1350295

YÊU NGƯỜI

YÊU NGƯỜI

 

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Trong Chúa Nhật tuần này, Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Mica (5: 1-4) nói rõ về việc một Trinh Nữ sẽ sinh con là Đấng đã có từ nguyên thủy, từ muôn đời, và nơi Ngài sinh ra chính là thành phố nhỏ bé Bêlem (miền Nam nước Israel, cách thủ đô Giêrusalem 8 cây số về phía đông nam). Bài Đọc II trích trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Do Thái (10: 5-10) nói đến việc Chúa Giêsu đã đến trần gian, mặc thân  xác loài người, để “thi hành thánh ý Chúa, hiến dâng mình làm của lễ cứu độ trần gian. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 39-45) ghi lại biến cố trọng đại “Trinh Nữ Maria vội vã đi lên miền núi, đến một thành thuộc chi tộc Giuđa để thăm viếng bà chị họ Elisabeth đã thụ thai một con trai trong tuổi già và nay đã đựợc 6 tháng.”

Chúng ta đang tiến gần ngày mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Giáo Hội muốn hướng lòng chúng ta về Mẹ Maria, đặc biệt biến cố “Truyền Tin” và cuộc “Thăm Viếng” bà chị họ Elizabeth.

Trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm B, Giáo Hội hướng lòng chúng ta về bién cố “Truyền Tin” qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 26-38). Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm C, Giáo Hội dẫn chúng ta nhớ về biến cố “Thăm Viếng” bà Thánh Elizabeth, bà chị họ của Đức Mẹ, qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 38-45).

Trong mầu nhiệm Mân Côi “Năm Sự Vui”, điều thứ nhất chúng ta suy gẫm: “Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được lòng khiêm nhường”; điều thứ hai, chúng ta suy gẫm: “Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave (Elizabeth), ta hãy xin cho được lòng yêu người.”

Ngay sau khi được  diễm phúc “chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần để sẽ hạ sinh Đấng mà muôn dân đang trông đợi,” và được Thiên Thần cho biết “bà chị họ của Trinh Nữ là Elizabeth cũng đã thụ thai trong tuổi già, tới nay đã được 6 tháng,” Đức Maria đã vội vã lên đường đi lên miền núi  để thăm viếng bà chị họ Elizabeth và ở lại giúp bà 3 tháng trong lúc chuẩn bị sinh con trong tuổi già.”

Lòng “yêu người” của mẹ Maria đã thúc đẩy Mẹ. Mẹ quên đi ngay diễm phúc thật cao cả “được làm Mẹ Chúa Cứu Thế” để lo cho người chị họ đã lớn tuổi và sắp đến ngày sinh con cần một người thân thuộc để giúp đỡ. Vì thế, Mẹ đã quên mình, không quản ngại đường bộ xa xôi, núi đồi hiểm trở. Theo địa danh thì Mẹ phải đi từ làng Nagiaret miền Galilêa ở phía Bắc đến tận miền Giuđêa ở phía Nam, đường dài cả hàng trăm cây số. Chắc chắn Mẹ đã phải đi bộ một mình, vì Mẹ đâu có phương tiện nào khác, nhất là vào thời buổi bấy giờ. Đến nơi, Mẹ khổng phải chỉ thăm qua loa rồi đi về, nhưng Mẹ đã ở lại cả 3 tháng trường để giúp bao công việc cho bà chị họ trong lúc chuẩn bị sinh con. Hơn nữa, trong dịp này, Mẹ cũng đem đến một hồng phúc thật lới lao cho gia đình bà chị họ, đến nỗi bà đã phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi! Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi trong lòng tôi đã nhảy mừng…”

Tại Hoa Kỳ, ngay sau ngày Lễ “Tạ Ơn” (Thanksgiving Day), rất nhiều gia đình đã chăng đèn và trưng bày cảnh Giáng Sinh ở trong nhà cũng như trước nhà rất huy hoàng, lộng lẫy. Tại các Thánh đường, quang cảnh càng huy hoàng, trịnh trọng hơn. Mỗi năm, vào mùa này tại Hoa Kỳ, hàng tỉ cây thông Giáng Sinh đã được bán ra cho dân chúng đem về nhà và các nơi để trang trí. Các phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, báo chí, đạo cũng như đời thường đưa các bản tin về Đại Lễ Giáng Sinh và truyền đi những bản Thánh ca Giáng Sinh rất hay.  Khi gặp gỡ, người ta thường chào nhau bằng  câu “Chúc Mừng Giáng Sinh!” (Merry Christmas!)

Tuy nhiên, Mùa Giáng Sinh cũng là mùa chia sẻ (sharing season) tình thương với nhau, đặc biệt đối với những người nghèo khổ, đau yếu, cô đơn. Các tín hữu năm nào cũng rộng rãi đóng góp tiền bạc, quà, thực phẩm để giúp đỡ những người kém may mắn tại Hoa Kỳ cũng như khắp nơi trên thế giới. Điều này nhắc nhở chúng ta noi gương lòng thương người của Mẹ Maria, để chúng ta cũng nhớ chia sẻ hạnh phúc, và niềm vui Giáng Sinh với những người chung quanh. Cũng như Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Hài Nhi phải sống trong cảnh khó nghèo, không nhà cửa chính trong đêm Chúa giáng sinh, ngày nay vẫn có biết bao người nghèo khổ, đói khát, không nhà cửa, không đủ quần áo mặc ấm trong mùa đông lạnh giá, đang trông mong sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.

Chúng ta phải làm những gì để chuẩn bị mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới? Chúng ta phải làm gì khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Giuse trong cảnh nghèo khó tại hang Bêlem?

Trong Mùa Vọng, đa số chúng ta đã đi dự các buổi tĩnh tâm, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chúng ta còn có bổn phận đem Chúa đến với những người chung quanh, có khi ngay trong gia đình chúng ta, ngay trong khu xóm chúng ta đang ở, và giúp đỡ những người đang cần sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.

 Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện chung, xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để đón Chúa giáng sinh vào lòng chúng ta, vào gia đình chúng ta, và noi gương thương  người của Mẹ Maria, chúng ta cũng “vội và lên đường” đem Chúa đến cho những người chung quanh chúng ta, đặc biệt cho những người nghèo khó, qua món quà tình thương trong mùa Giáng sinh này.

 

57.Lý do nào để nhảy mừng?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi - Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.

Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự - thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?

Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!

Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu - tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ - Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.

Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!

Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.

 

58.Mong đợi trong vui mừng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang thai, đó là ân huệ Chúa thương ban để bà cất đi nỗi nhục cả đời mình “Chúa đã làm cho tôi như thế đó khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Thời gian dài đợi chờ rất dài, nay đã thành hiện thực và bà lại bắt đầu một thời gian trông đợi khác. Bà ẩn dật, cầu nguyện, nghỉ ngơi và chuẩn bị. Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đức Maria xin vâng với lòng tin và đợi chờ trong niềm vui.

Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria có thai và đã lên đường đi thăm người chị họ. Khi gặp nhau, hai người mẹ thông tin cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình. Đó là thời gian hai người mẹ mang thai chia sẻ sự mong đợi trong vui mừng. Cả hai đều là nữ tỳ khiêm tốn được Thiên Chúa mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Cả hai cùng hân hoan vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ và cả hai cùng cảm nhận niềm hạnh phúc dâng trào vì đã tin.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Hài nhi Gioan vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung làm cho cuộc gặp gỡ trở thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Suối nguồn của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.

1. Cuộc viếng thăm lịch sử

 Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.

– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.

– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

2. Cuộc viếng thăm tình yêu

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

3. Niềm vui thăm viếng

Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi  Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Người cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người. Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ