Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1362363

YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN

YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN

 

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?

a. Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?

b. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các "lời khuyên" thuộc phần nào trong Tin Mừng?

c. Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.

Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?

2. Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:

a. Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?

b. Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?

c. Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?

3. Tìm ý nghĩa của câu: "Hãy nên trọn lành như..." (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự "trọn lành" và "đức công chính dư dật" (5, 20) có tương quan gì?

***

1. Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách "mới" của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.

2. Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).

3. Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.

Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.

Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v... Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: "Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?" (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.

Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.

Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Mắt thế mắt, răng đền răng": Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).

"Đừng cự lại người ác": Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.

“Đi một dặm": Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.

"Ai xin... ai muốn vay": Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. "Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện", Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các "anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.

“Hãy ghét địch thù": Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với "con cái tối tăm"; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v...); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4). Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.

"Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành": Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. "Câu nói" (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh" và từ Đnl 18, 3: "Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề "trọn lành", trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính": người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.

KẾT LUẬN

Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.

Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG

1. Trong một thế giới bị chi phối bởi luật "do út des" (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.

2. Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?

3. Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.

4. Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 25, 34).

 

50.Có phải không thể yêu kẻ thù?

(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần đình Nhi)

Yêu thương kẻ thù chắc chắn phải là một vấn đề vô cùng độc đáo trong giáo lý của Chúa Giê-su và của đạo Công giáo. Đó cũng là điều nói thì dễ, nhưng thực hành thì hết sức khó, hoặc có thể nói đó là điều không thể thực hiện theo sức riêng của con người.

Trước khi quảng diễn lời dạy "hãy yêu kẻ thù", Chúa Giê-su nêu lên lẽ công bằng của sự thù nghịch theo Lề Luật Mô-sê. Luật công bằng của người xưa là: mắt đền mắt, răng đền răng. Cho nên ý niệm truyền thống về bạn hay thù được xây dựng trên căn bản lẽ công bằng. Người ta bị ràng buộc trong giới hạn của lẽ công bằng, do đó không thể chấp nhận việc yêu kẻ thù vì làm như thế người ta sẽ không duy trì được sự công bằng nữa. Nhưng Chúa Giê-su không lấy lẽ công bằng của Luật Mô-sê để dạy chúng ta về việc yêu kẻ thù, mà Người lấy tình yêu của Thiên Chúa Cha làm nền móng cho việc yêu kẻ thù. Kẻ xấu và tội lỗi đều là "kẻ thù" của Thiên Chúa. Vậy mà Cha trên trời vẫn "cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính". Cha nào con nấy. Nếu Cha trên trời yêu kẻ thù của Người thì chúng ta là con, cũng phải yêu kẻ thù của Người và của chúng ta. Quả thực Chúa Giê-su đã "kiện toàn" Lề Luật khi Người mở ra một con đường mới cho một vấn đề bế tắc là hãy yêu kẻ thù. Vậy theo Chúa Giê-su, thế nào là "yêu kẻ thù"?

Yêu kẻ thù là dám vượt lên trên lẽ công bằng để thực hiện một việc làm tích cực. Dĩ nhiên những thí dụ Chúa Giê-su đưa ra, như vả cả hai má, lấy cả áo trong lẫn áo ngoài, hoặc đi thêm dặm đường nữa với kẻ thù, tất cả chỉ là những hình ảnh mô tả thái độ tích cực là động lực của tình yêu. Chỉ có động lực tình yêu này mới có thể giúp chúng ta vượt trên lẽ công bằng để đến với kẻ thù và yêu thương họ, vì tình yêu bao giờ cũng tích cực.

Yêu kẻ thù còn là điều kiện để "được trở nên con cái của Cha trên trời" và là dấu chỉ chúng ta khác biệt với những người không phải là con cái Chúa. Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giê-su, Trưởng Tử của nhân loại mới, đã đối xử thế nào với kẻ thù. Không kể bao lần "đụng độ" với kẻ thù mà Người vẫn hòa nhã yêu thương, trên thập giá và trước khi nhắm mắt, Người đã xin Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Người Con Yêu Dấu ấy của Thiên Chúa đã dạy các em Người hãy yêu kẻ thù để xứng đáng làm con cái Thiên Chúa.

Sau hết, yêu kẻ thù là phương thế nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu kẻ thù (tức là những kẻ tội lỗi) là đặc điểm hoàn thiện của Thiên Chúa. Phải chăng Chúa muốn chúng ta lấy việc yêu kẻ thù làm phương thế tốt nhất để nên hoàn thiện giống như Chúa, nên Người mới để chúng ta có nhiều "kẻ thù" hơn là bạn hữu?

Sống sứ điệp Tin Mừng

Thực tế cho thấy yêu kẻ thù là điều không thể thực hiện. Nhưng chẳng lẽ Chúa Giê-su dạy chúng ta làm một điều vượt ngoài khả năng con người? Đối với chúng ta, đó là điều không thể, nhưng "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lu-ca 1:37). Chính vì thế Chúa Giê-su mới "kéo" Cha trên trời xuống với chúng ta, để chúng ta ý thức mình là con cái Chúa và chính Người nêu gương yêu kẻ thù, chúng ta mới hoàn toàn có thể yêu kẻ thù.

Chúa Giê-su đưa ra một thí dụ rất cụ thể để chúng ta thực hành việc yêu kẻ thù, đó là "chào hỏi" kẻ thù. Trong đời sống hằng ngày, biết bao lần chúng ta không muốn "chào hỏi" nhiều người. Có thể đấy là người vợ, người chồng hoặc con cái. Có thể là người làm cùng sở. Cũng có thể là một người đã gây cho chúng ta một thiệt hại không thể đền bù hay sửa chữa. Vậy chúng ta phải làm thế nào để xóa đi hàng rào ngăn cản là lẽ công bằng, là niềm tự ái có lý của chúng ta? Bạn và tôi hãy nhìn lên Cha trên trời, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta là kẻ tội lỗi và kẻ thù của Người, đến nỗi sai Con Một Người xuống trần để chết cho chúng ta (Gio-an 3:16). Nhờ Chúa Cha là Tình yêu, Chúa Con là sự Tha thứ và Chúa Thánh Thần là Sức mạnh hiệp nhất, nhất định chúng ta có thể yêu kẻ thù được!

 

51.Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ!

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.

1. Luật yêu thương trong Cựu Ước

Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.

Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.

Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?

2. Luật yêu thương thời Tân Ước

Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người.  Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống [...]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.

Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.

“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: "Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó" (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: "Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con" (Mt 5, 23-24).

Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì "tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau... Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).

Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội,  phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi.  Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.

3. Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: "Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương..."

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.

Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ" là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.

4. Sống sứ điệp Lời Chúa

Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…

Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.

Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.

Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.

Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.

Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.

Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.

 

52.Làm thánh sống - Trầm Thiên Thu

Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”. Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.

Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005). Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!

Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.

Tuy nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),... và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!

Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.

Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được.

Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi.

Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế, chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4).

Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13). Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét (x. Mt 12:20).

Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!

Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!

Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!

Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!

Luật Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!

Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này!

Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).

Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ