Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1362741

YÊU THƯƠNG VÀ TÔN TRỌNG NHAU

YÊU THƯƠNG VÀ TÔN TRỌNG NHAU

 

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do và Ngài luôn tôn trọng tự do của con người để con người dùng tự do định đoạt số phận của đời mình. Chẳng hạn, Sách Sáng Thế kể khi Thiên Chúa dựng nên Adam và Eva, Ngài đã đặt ông bà nguyên tổ vào vườn Eden và cho tự do hưởng dùng tất cả nhưng chỉ một cây biết lành biết dữ là không được dùng. Nhưng, ông bà đã nghe lời cám dỗ của quỷ dữ nên dùng tự do của mình mà phạm tội không vâng lời Thiên Chúa và dẫn đến cái kết đau khổ đắng cay. Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống bình an  và hạnh phúc viên mãn nên Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn ca dạy: “Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Hc 15, 19-20).

Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống. Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương và tôn trọng nhau”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10)

Cho nên, Chúa Giêsu kiện toàn Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người” ở chỗ rằng giết người là có tội trọng dĩ nhiên. Giết người thì không còn tính người và tình người, giết người là luật rừng vì thế Luật của Chúa Giêsu thì không được giết người là điều phải giữ mà còn chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật trọng rồi và dẫn đến cái kết đáng sợ. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23). Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi nên Chúa Giêsu đã từng dạy rằng đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý: yêu thương và tôn trọng phải đi đôi với nhau. Vì nếu, con người giữ được lòng yêu thương và tôn trọng với nhau trong cuộc sống thì chắc chắn không giận ghét, không mắng chửi, căm thù… từ đó sẽ không có nguyên nhân dẫn đến việc đỗ vỡ tình người hay giết người. Nói đây xa, ngay trong gia đình hay giáo xứ chúng ta nếu mỗi người hiểu biết và giữ luật yêu thương tôn trọng của Chúa Giêsu dạy, gia đình và giáo xứ sẽ hòa thuận, yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời khi thịnh vượng cũng lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc ôm đau bệnh dịch này, lúc thất bại cũng như khi thành công, lúc tội lỗi cũng như thánh thiện… nhờ đó mà biết đùm bọc nhau thay cho kỳ thị, nói lời an ủi thay cho la lối thóa mạ thô tục, lấy lời lành mà dạy cho nhau thay cho đấm đá bạo lực,  chăm sóc nhau thay cho loại bỏ giết sạch và hy sinh phục vụ cho nhau thay cho bỏ cho chúng chết mặc kệ…

Nhìn thực tế cuộc sống Đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng nhau một cách nghiêm túc và chân tình. Chúng ta vẫn còn trách mắng nhau, chửi bới nhau, giận ghét nhau, kỳ thị nhau, còn vô cảm với nhau thậm chí từ nhau ngay từ gia đình ra gia tộc… Nhưng, dựa vào Lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta phải có sự yêu thương và tôn trọng nhau trong cuộc này, chúng ta nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu và tha nhân một cách nhẹ nhàng và bình an vì chưng với đức tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh chị em với nhau, chúng ta không được phép loại bỏ nhau, sát phạt hay giết nhau dù dưới bất cứ hình thức nào, đồng thời cần giúp nhau, nâng đỡ, sẻ chia, bao dung và hy sinh cho nhau theo thánh ý Thiên Chúa để tạo hạnh phúc, bình an và niềm an ủi đích thực  trong cuộc sống đồng thời giúp nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày.

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, không đố kỵ nhau hay kỳ thị người đau yếu khổ đau nhưng biết giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí là sự quảng đại bao dung thương xót nhau hầu tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa mọi đường lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.

 

29.Sống tình yêu hôn nhân gia đình

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Ý hướng sống năm nay theo tinh thần thư chung của các Đức giám mục Việt Nam là gia đình sống tình yêu hôn nhân gia đình. Giờ đây thử nhìn lại, chúng ta đã sống tình yêu hôn nhân trong gia đình mình, và tình yêu hôn nhân của các bạn một cách trọn vẹn đúng như Lời Chúa chưa? Nếu đúng thì ở mức độ nào? Sống hết mình cho Lời Chúa đòi hỏi không? Hay chỉ là sống theo cảm tính: thương thì chín bỏ làm mười, mà ghét nhau nắng dãi mưa dầm mặc nhau. Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá chửi đổng nhau ra. Tết năm nay tôi đến tới đâu, nhà nào… hay nhiều người gọi điện nói với tôi rằng Cha ơi, năm nay nhà con bóc Lời Chúa đầu năm đúng ngay tim đen, hay lắm. Tôi mới nói lại họ rằng anh chị nhớ sống Lời Chúa dạy đó hằng ngày trong cuộc sống nghe, Lời Chúa thì lúc nào không hay, không đúng nếu mình sống hay, sống đúng với Lời Chúa mới đem lại phúc lộc cho gia đình anh chị không chỉ năm nay mà cả đời sau nữa đó.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống đời sống tình yêu hôn nhân ngay trong gia đình tương lai hay hiện tại: tình yêu không giận hờn ghen ghét vì đó là cớ dẫn đến tội: ngoại tình, ly dị, bạo lực gia đình nên Chúa Giêsu răn dạy tiếp:  chớ ngoại tình, đừng ly dị, đừng thề thốt và chớ trả thù. Vì vậy, trước hết, trong tình yêu hôn nhân chớ có giận hờn ghen ghét vì chúng ta biết giận là một trong thất tình của con người, tức bảy tình cảm của con người Chúa phú bẩm cho: hỷ (vui), nộ (giận), ái (thương), ố (ghét), ai (buồn), ô (sướng, khoái), dục (muốn). Giận là tức. Khi giận thường mất khôn và nói quá lời, cho nên ông bà nói: “giận mất khôn”. Tức ai thì nói cho đã tức nhưng sau đó lại hối hận, nhưng muộn rồi. Làm sao để chừa hay từ bỏ tính nóng giận của mình không? Từ bỏ hẳn thì không, vì nó thuộc bản năng con người, nhưng làm chủ được nó thì có thể vì chúng ta có trí khôn. Một người biết mình nóng tính, nên thường ngày tập sống tha thứ, tập sống dịu dàng, vui vẻ với mọi người; từ từ người đó sẽ làm chủ được những cơn nóng giận của mình tránh khỏi tai hại kinh khủng trong hôn nhân gia đình. Còn ghen ghét là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người phản ánh những suy nghĩ mang tính tiêu cực được biểu hiện bằng cảm giác bất an, sợ hãi, bực tức, ích kỷ, cảm thấy mình thua kém và lo lắng về một sự mất mát.

Sau khi con người bỏ Thiên Chúa, thì lòng yêu mến nhau đã bị thương tổn nặng nề (Rm 3: 10tt), và sự ganh ghét xâm nhập vào thế gian. Khởi đầu là việc ghen ghét của Cain với em mình là Abel nên anh giết em, cả hai là con trai của tổ tông Adam. Rồi đến vụ bà Sara vợ của tổ phụ Abraham, Sara đã ghen tức với Hagar vì người nữ tỳ có con với ông Abraham đàng khi mình vợ chính lại không có con. Trong Tân Ước, khi Gioan và Giacôbê được mẹ dẫn đến gặp Đức Giêsu để xin địa vị cho hai con mình, một ngồi bên tả một ngồi bên hữu Đức Giêsu trong vinh quang Nước của Ngài, các tông đồ khác nghe được thì ghen tức với hai ông kia (Mt 20: 24). Còn trong lịch sử loài người, việc ghen ghét giữa vợ chồng, con cái anh em trong nhà xảy ra tràn lan khắp đó đây như cơm bữa.

Cuộc sống gia đình có những lúc êm ấm hạnh phúc, nhưng cũng có những lúc bất hoà, cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Dù vợ chồng có yêu nhau thắm thiết, nhiều lúc vẫn xảy ra những bất hoà. Những bất hoà đó có thể làm cho tình yêu bị sói mòn và có thể đưa đến những đổ vỡ tai hại dẫn đến chia tay, ly thân, ly dị, ngoại tình... Tuy nhiên, nếu biết cách giải quyết, chúng sẽ là cơ hội giúp đội bạn hay vợ chồng hiểu nhau hơn và tình yêu mỗi ngày một thêm triển nở và hạnh phúc dài lâu và đương nhiên sẽ không có chuyện: “Em ơi! hết rồi hết rồi. Chẳng còn chi nữa đâu em. Yêu thương như nước trôi qua cầu Như đàn trỗi cung sầu. Còn gì nữa đâu? Tôi thề tôi chẳng yêu ai. Vì người ta cứ phụ tôi hoài. Bây giờ tôi chẳng còn tin. Trong nhân gian có kẻ chung tình. Tôi giận tôi đã ngây thơ. Đem tình yêu hiến dâng cho người hết. Nên giờ tôi chẳng còn chi. Khi người ngoảnh mặt mà đi”.

Thế nhưng, làm sao để tình yêu dành cho nhau mỗi ngày một thêm triển nở không có chuyện trái ngang, ghen ghét, ly thân hay ly dị? Làm sao để sống lời cam kết ngày thành hôn được thêm sâu xa hơn, để tình nghĩa vợ chồng ngày càng thêm đậm đà và bền chặt? Lời Chúa trong bài đọc 1 nói: Thiên Chúa không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội nên đôi bạn hay vợ chồng cần phải: (1) Tôn trọng nhau vì chưng trong ngày thành hôn, anh chị cầm tay nhau cam kết sẽ yêu thương và tôn trọng nhau không chỉ một năm, hai năm, năm năm, mà là “mọi ngày suốt đời”. Vợ kính trọng chồng, chồng tôn trọng vợ qua việc nhìn nhận và đón nhận nhau. Vợ không phải là người hầu hoặc nô lệ của chồng, mà là người bạn đời. Nam và nữ khác biệt nhau, nhưng bình đẳng với nhau vì cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa, được tạo dựng để trở thành trợ tá của nhau, bổ túc cho nhau và hiệp thông với nhau đồng thời đón nhận những ưu điểm, những khuyết điểm, những khác biệt về cách suy nghĩ, cảm nhận... qua việc trao đổi, lắng nghe, để hiểu biết con người của nhau hơn, nhờ đó giúp nhau mỗi ngày một nên hoàn thiện. (2) Hy sinh cho nhau vì hạnh phúc của vợ, của chồng, của con. Hạnh phúc gia đình được xây dựng bằng những điều nhỏ mọn, bằng những hy sinh liên lỉ hằng ngày của cả đôi bên, chẳng hạn như trong việc sử dụng tiền bạc, thời giờ, mua sắm, giải trí... Sự hy sinh còn được biểu lộ qua việc quan tâm đến nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau, không quản ngại vất vả, gian khổ vì nhau, nhất là khi người bạn đời gặp thử thách, bệnh tật, khó khăn. (3) Đối thoại với nhau vì chưng đối thoại là yếu tố quan trọng giúp duy trì và củng cố hạnh phúc trong gia đình. Nhờ đối thoại, vợ chồng, cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, giảm bớt những bất đồng. Những chuyện quan trọng trong gia đình vợ chồng cần phải chia sẻ, bàn bạc cùng nhau. (4) Làm tròn bổn phận vợ chồng vì chưng, Thánh Phaolô khuyên các cặp vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy” (1 Cr 7,3-5). Và cuối cùng, cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau vì chưng Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài luôn muốn đồng hành với hai vợ chồng để giúp họ yêu thương nhau và xây dựng cuộc sống hôn nhân và gia đình hạnh phúc như Ngài mời gọi họ. Vì thế, phải thường xuyên cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau. Hạnh phúc của gia đình là có Chúa hiện diện trong nhà, chia sẻ mọi biến cố vui buồn. Ngài ở giữa như nút dây nối kết hai vợ chồng, giúp họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, thuỷ chung với nhau và cùng nhau tiến bước, vượt qua mọi gian nan thử thách của cuộc sống.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta quyết tâm sống Tâm Thư  của HĐGM VN mời gọi: các Gia đình công giáo hãy yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình công giáo phải loại bỏ mọi thứ ghen ghét, bạo hành, hội chứng ly thân hay ly dị nhưng “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl  3,12-13) nhờ đó hạnh phúc và tình yêu hôn nhân gia đình mỗi ngay triển nở và dài lâu. Amen.

 

30.Chọn lựa – Lm Vũ Đình Tường

Chọn lựa là chọn cái vừa ý, điều hài lòng, lựa cái ưa thích. Không phải bất cứ điều gì mình ưa thích đều tốt cả và điều mình ưng ý người khác cũng đồng thuận.

Có điều tôi thích; người ghét.

Có tội tôi quên; người nhớ.

Có phim tôi sợ; người mê.

Món ăn tôi ưa; người chán.

Có sách tôi đọc; người chê.

Chuyện tôi chê; người chuộng.

Có điều tôi tươi; người héo.

Có điều tôi than; người thích.

Câu tôi hài lòng; người đau.

Điều tôi tin; người ngờ....

Muốn chọn đúng cần có kinh nghiệm, nếu không sẽ chọn lầm, lựa sai. Không tin cứ hỏi những người ham của rẻ, mua đồ chợ trời thì rõ. Sớm muộn gì cũng có lần mua lầm, chọn sai. Mình tinh mắt, kẻ chuyên bán đồ giả ranh hơn một bậc.

Sơ hở

Chọn lựa có hai thái cực trái ngược. Có chọn tất có loại. Có lựa tất có so sánh lấy, bỏ. Lựa theo sở thích không phải luôn chọn điều tốt vì sở thích thì khác nhau. Người thích điều tốt lành. Kẻ ham ăn chơi. Kẻ kín miệng; người khoe khoang. Tự do chọn lựa kèm theo trách nhiệm. Hậu quả chọn lựa ảnh hưởng lâu dài. Đôi khi kéo dài tới đời con cháu. Thí dụ gia đình công khai phê bình, chỉ trích Giáo Hội, con cái mất lòng mộ mến. Đến đời cháu rất có thể mất niềm tin.

Khôn ngoan

Cần ơn khôn ngoan để chọn đúng. Thiếu ơn khôn ngoan sẽ chọn sai. Có hai loại khôn. Khôn trần thế và khôn nước trời. Cả hai đều do Chúa ban. Khôn nước trời mặc khải Chúa hằng hữu. Khôn trần thế giúp nhận ra khôn nước trời để học hỏi, hiểu biết thêm về Chúa. Tài cao học rộng, kiến thức siêu phàm chưa chắc đã khôn. Sống đời bình dị, chân lấm tay bùn, nghèo kiến thức nhưng lại khôn. Sai lầm lớn nhất của giới trí thức là đồng hoá kiến thức với khôn ngoan. Có người nghĩ mình khôn, dựa vào kiến thức học được, chối bỏ Chúa. Quả là dại. Đức tin, không phải do kiến thức, mà nhờ mặc khải, ơn Chúa ban. Mặc khải không phải là kiến thức mà là ơn khôn ngoan. Từ chối ơn khôn ngoan không nhận biết Chúa. Họ sẽ tin vào kiến thức khoa học thực nghiệm, tin vào suy nghĩ của trí óc.

Dùng kiến thức, hiểu biết sáng tạo niềm tin mới hay chối bỏ Chúa là làm sai chức năng của kiến thức. Chúa ban cho con người tài trí, hiểu biết, để học hỏi củng cố, đào sâu niềm tin. Con người nhận những ơn đó, đã không tạ ơn, còn vô ơn, chối bỏ Chúa. Kinh nghiệm có thay đổi. Nhận định lúc tỏ, lúc mờ. Lí luận kĩ mấy cũng có sơ hở. Khó tránh khỏi thiên kiến, chủ quan khi nhận định. Ơn khôn ngoan vững bền vì đến từ Chúa.

Khôn trong Chúa

Niềm tin vô hình nên cần sức mạnh vô hình hỗ trợ. Sức mạnh đó là ân sủng Chúa giúp phán đoán, nhận định. Lời Chúa đóng vai chủ động hướng dẫn niềm tin. Yếu kém Lời Chúa niềm tin u mê, mù mờ. Tin Chúa mà không để Chúa làm việc là mâu thuẫn từ trong tâm hồn. Từ bỏ ý mình, sống theo ý Chúa là hợp lí, là khôn ngoan vì Lời Chúa là đèn soi tâm hồn, chiếu dọi miền u tối, toả sáng giúp nhận biết đúng sai.

Người môn đệ khôn ngoan là người biết lắng nghe Lời Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trog cuộc sống. Họ là muối, là men, là ánh sáng đem Đức Kitô cho thế giới. Muối và ánh sáng của họ khác muối và ánh sáng gian trần vì đến từ Chúa.

Vì thế Đức Kitô xác quyết với thế gian là môn đệ trung tín của Ngài ăn ở công chính hơn hẳn các người khác. Công chính hơn cả các bậc thầy, người lãnh đạo trong dân, hơn cả Kinh Sư và người Pharisiêu. Vì sao vì họ là những người có ơn Chúa. Ơn khôn ngoan thể hiện qua niềm tin vào Đức Kitô và thực hành niềm tin đó bằng cách bảo vệ, nâng cao, tôn trọng sự sống dù ở bất cứ đâu, lứa tuổi nào, giai cấp nào. Sự sống con người cần được bảo vệ. Bảo vệ sự sống bằng yêu thương và tha thứ. Bảo vệ sự sống bằng cách bảo vệ thiên nhiên, rừng sâu, núi cao, biển rộng, sông dài, hầm mỏ và mọi sinh vật sống nhờ chúng. Bảo vệ sự sống bằng lối sống yêu thương tha thứ để được sống bình an. Cảm nhận được những ơn trên nên họ không ngớt lời cảm tạ Chúa. Họ biết ơn và thi ơn cũng như chân thành trong lời nói và hành động

Khuôn vàng, thước ngọc họ theo đuổi là

Yêu người như yêu mình

Không làm cho người điều gì mình không muốn người làm cho mình

Đây là những hướng dẫn mới mẻ Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu thực hành trong cuộc sống. Mt 7,12. Thánh Phaolô diễn tả cách sống này trong thư Roma 13,8 như sau

Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.

Đức ái

Giáo lý của Ngài tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Đức ái là giới răn quan trọng nhất trong cuộc sống người Kitô hữu. VìYêu, Chúa gọi ta vào đời. Ta sa ngã Chúa cứu chuộc. Ta mất ơn nghĩa tử Chúa cho làm kẻ thừa tự. Ta chết trong tội Chúa ban sự sống đời đời. Nhận biết những điều trên để dâng lời tạ ơn là sống khôn ngoan. Kitô hữu có bổn phận học và thực hành, yêu người khác như Chúa yêu ta. Giữ trọn lề luật mà thiếu yêu thương là phạm luật. Luật đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Bỏ luật con tim là bỏ luật Chúa. Thờ phượng Chúa mà thiếu thực hành đức ái đến từ đức tin nông cạn.

 

31.Bỏ qua – Lm Vũ Đình Tường

Bỏ qua để vui sống là điều cần trong cuộc sống và đây cũng là cái khôn của người xưa. Người xưa dậy mắt đền mắt, răng đền răng và không được phép làm hơn thế. Mục đích là ngăn cấm hành động trả đũa quá đáng. Hành động trả đũa thường bắt đầu bằng cá nhân, cá nhân lôi bè, kéo cánh trả đũa sự việc trở nên khủng khiếp hơn. Lúc đó sẽ không còn cảnh răng đền răng mà răng đền mạng. Giới hạn trả đũa, ngăn ngừa nội chiến trong tộc.

Để hiểu hơn điều Đức Kitô dậy chúng ta cần lần mò một chút văn hoá người xưa. Ai vả má phải hãy đưa má trái cho họ. Vả má người đối diện bẳng lòng bàn tay vì thuận tay nhưng khi không thuận tay nên phải vả má kia bằng lưng bàn tay. Phong tục lúc đó ai vả má người khác bằng lưng bàn tay là hành động của người mất trí. Hành động thiếu tự chủ đáng khinh bỉ. Nạn nhân trở thành người được xã hội bênh dỡ, thông cảm, còn kẻ vả má người bằng lưng bàn tay bị kết án. Việc vả má biểu lộ nội tâm của người đó. Họ là người hành động khôn ngoan, chừng mực hay thô lỗ, tục tằn.

Người xưa đo đường bằng bước chân vì thế quân đội Rôma có thể bắt dân khuôn vác dùm trong vòng một ngàn bước. Nếu muốn phải nhờ người khác. Để cho vác đi hơn một ngàn bước người lính mắc lỗi. Mục đích của luật là ngăn cấm lạm dụng quyền hành.

Hãy cho vay và đừng mong trả. Hiểu theo mạch văn này thì sẽ không ai cho vay. Luật lúc đó cho biết hạn trả nợ là bảy năm. Sau bảy năm mà không trả nổi thì coi như xoá bỏ. Vì thế đến năm thứ năm hay thứ sáu chủ nợ làm dữ trước hạn bảy năm. Sáu năm trả lời đã quá mức mượn ban đầu nếu tiếp tục, mượn một trả thành ba hay bốn. Người xưa không mượn tiền mua nhà, đất mà mua thực phẩm nuôi gia đình. Mượn thức ăn nuôi thân mà bảy năm trời không trả nổi quả đáng thương. Chủ nợ đòi riết quả là nghèo lòng xót thương, đói bác ái. Vay thì phải trả nhưng vay thực phẩm, trả không nổi, còn gì để bắt, ngoài bắt người trừ nợ.

Ba ví dụ trên cho thấy Đức Kitô dậy con người sống yêu thương, thông cảm hoàn cảnh khó khăn của anh chị em khác. Đó chính là luật yêu thương Ngài công bố cho toàn dân: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau (Ga 13,34)

Luật yêu thương tóm gọn luật của tổ phụ Môsê dậy trong Mười Điều Răn nhận từ núi thánh. Luật yêu thương mở ra chân trời mới, đưa ra cái nhìn mới hướng dẫn lương tâm con người sống thứ tha, thông cảm và biết thương đến anh em đồng loại, thông cảm với kẻ khốn cùng, tha thứ cho kẻ làm lỗi, kẻ đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc. Luật yêu thương đặt căn bản trên con tim. Người biết tha thứ là người mạnh. Có thể không mạnh thể lực mà mạnh về tâm linh, mạnh về lí trí. Sức mạnh nội tâm giúp vượt thắng cám dỗ trả đũa. Sức mạnh này giúp ta tự làm hoà với ta trước sau đó dẫn đến hành làm hoà cùng anh em. Sức mạnh nội tâm giúp ta nhìn rõ sự việc, cân nhắc phải trái khi chọn lựa. Chọn tha thứ là khôn ngoan hơn cả. Chọn bỏ qua để vui sống. Chọn tha thứ là chọn vứt bỏ gánh bực dọc để vui sống. Quảng gắng xong người thấy nhẹ nhõm, tinh thần bình an, lòng thoải mái.

Sống yêu thương giúp ta trở thành người biết thương người. Chỉ chủ nợ mới có thể tha, con nợ không thể tha. Trong yêu thương cũng thế biết thứ tha là biết làm chủ đời mình; không thể bực dọc gây đau khổ, vật vã, bực tức trong lòng, làm khổ mình. Không tha thứ là trói buộc. Tha thứ là giải thoát vì lòng họ thảnh thơi, an bình. Thiếu tha thứ sống đau khổ, tự trói buộc là làn mô lệ cho cái tôi. Không phải ai cũng có thể tha thứ mà chỉ những ai hiểu rõ luật yêu thương mới có thể tha thứ. Luật yêu thương bắt nguồn từ Đức Kitô, giáo huấn chính của Ngài. Để tha thứ cần ơn Chúa. Kết hợp với Chúa dễ tha thứ hơn sống theo thói tục.

Tha thứ không dễ vì phải thắng cái tôi, cái tôi càng lớn chiến đấu càng mãnh liệt, chiến đấu mãnh liệt sẽ có nhiều đau khổ nhưng đau khổ đó êm dịu vì cậy nhờ ơn Chúa. Một khi đau khổ qua đi tâm hồn thảnh thơi, lòng người thoải mái. Chiều theo cái tôi, trói buộc đau khổ kéo dài, cần nhiều thời gian để nguôi ngoai. Càng kéo dài đau khổ càng tăng, như thế trong hai cái đau chọn cái đau ngắn hạn tốt hơn, dại gì chọn đau dài hạn.

Tha thứ nối kết tình bạn, làm cho tình bạn nồng thắm hơn và tạo tin tưởng mãnh liệt hơn. Như thế tha thứ gắn liền với kết hợp với tình yêu Chúa.

 

32.Tự do tuân giữ lề luật - Lm. GB. Trần Văn Hào

Tinh thần tự do và việc tuân giữ lề luật.

Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn nhắc đi nhắc lại khẩu hiệu ‘Không có gì quý hơn độc lập và tự do’. Tự do và tuân thủ pháp luật là cặp phạm trù luôn đi song đôi mà trong bất cứ tổ chức nào, người ta vẫn thường hay nhắc tới. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh về 2 điều này. Ngài khẳng quyết: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn. Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật sẽ không qua đi”(Mt 5, 18). Nhưng Đức Giêsu đã mặc cho lề luật cũ một tinh thần mới, đó là chiều kích nội tâm với sự tự do đích thực. Tuân thủ lề luật một cách cứng ngắc và vụ hình thức sẽ giết chết chúng ta, nhưng trong tự do của Thần Khí, chúng ta sẽ đi vào cốt lõi của lề luật như lời giải thích của Chúa Giêsu hôm nay.

Luật trong Cựu ước.

Trong trình thuật Tin Mừng, Chúa Giêsu đã 4 lần nhắc đi nhắc lại: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng...” Ngài nêu ra 4 ví dụ tiêu biểu về luật cũ, và giải thích theo tinh thần mới.Luật cũ mà người Do Thái vẫn tuân giữ rất cặn kẽ được viết lại trong sách Torah. Bộ sách gồm 5 quyển, chứa 613 điều khoản, gồm 365 khoản cấm và 248 khoản buộc. Ngoài 613 điều khoản này, Do Thái giáo theo dòng thời gian còn qui định thêm những tập tục khác và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Các tập tục đó được tóm lược trong bộ sách Talmud. Có nhiều tập tục đã quá lỗi thời và lạc điệu ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ví dụ việc giữ ngày Sa- bát 1 cách rất chi tiết và nặng hình thức. Cụ thể như trong ngày Sa-bát, người Do thái không được đi xa hơn 1000 bước chân, không được tắm rửa, không được soi gương, không được mang răng giả v.v..Có lần các môn đệ Chúa Giêsu đã bứt lúa để ăn trong ngày Sa-bát vì đói và đã bị những người Pharisiêu khiển trách (Mc 2, 24). Những lề luật và những tập tục cũ đã trở nên như một gánh nặng cho dân chúng (Mt 11,28), và Đức Giêsu đã đến để ‘giải phóng’, giúp trút bỏ những gánh nặng cồng kềnh ấy để con người chúng ta được tự do hoàn toàn.

Luật trong Tân ước.

Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập một giao ước mới. Trong giao ước đó, Ngài chỉ nêu ra 1 khoản luật duy nhất, đó là luật của tình yêu. “Thầy để lại cho anh em 1 điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34a). Mô thức của lề luật mới mà Chúa đã thiết định chính là cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì thế, chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu mới có thể nói cho các học trò của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34b). Chúa Giêsu không phải là một nhà mô phạm lý thuyết. Ngài quảng diễn bài học yêu thương qua chính hình ảnh cụ thể nơi Ngài. Chúng ta hãy đọc lại thư Rôma, trong đó Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất sâu sắc về khoản luật mới này. Ngài viết: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật” (Rm2,29b). “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới chứ không phải theo văn bản cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh Tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức đơn giản và viết cách vắn gọn: “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,16). Từ chương 5 đến chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa thế nào là việc thực hành lề luật mới, bằng cách sống theo Thần khí. ‘Spiritus’ có nghĩa là ‘Thần Khí’ và spiritus cũng có nghĩa là tinh thần (của lề luật). Thánh nhân đã tóm kết: “Lề luật (cứng ngắc) thì giết chết, nhưng tinh thần của lề luật, tức sống theo Thần Khí mới làm cho chúng ta sống (Lex occidit, Spiritus vivificat).

Người biệt phái ngày xưa giữ luật rất nghiêm túc và tỉ mỉ. Xét bề ngoài, họ là những con người rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ vạch trần thái độ cao ngạo trịnh thượng và sự rỗng tếch nơi họ. Họ đến trình diện trước Chúa chỉ để khoe khoang những thành tích đạo đức giả tạo nơi mình. “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng 1 phần 10 huê lợi của con cho Chúa” (Lc 18, 12). Chúa Giêsu đã nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Nhiều khi, chúng ta cũng giữ đạo một cách máy móc và giả hình giống như thế.

Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”(trích trong sách Tự thuật). Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người chúng ta. Một nhà tu đức đã nói: “Khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa không thích chúng ta trưng ra những bằng khen hay những giấy khen. Chúa cũng chẳng ưa ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để phô diễn những kỳ tích đạo đức của mình. Điều Chúa thích nhất, là Ngài cứ mân mê sờ nắn những vết sẹo hằn sâu nơi tâm hồn con người. Những vết sẹo đó là dấu tích tội lỗi chúng ta đã phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành”.

Kết luận

Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già với áo quần cũ kỹ, nhầu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn tôi nhìn khuôn mặt đức vua trông giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?” Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”. Nói xong, vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.

Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một vị thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong Giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm nơi chính mình để tìm ra câu trả lời.

 

33.Kiện toàn lề luật.

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong nước trời.

Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt. 7, 28; Mc. 1, 22; Lc. 4, 31).

Kiện toàn luật Môsê và các tiên tri là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

1- Thẩm quyền đó là thẩm quyền nào? “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy”. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã hỏi Người như thế (Mc. 11, 28).

Để thấy rõ thẩm quyền của Đức Giêsu, ta cần xét đến lời tuyên bố và nội dung kiện toàn lề luật của Ngài.

Trước hết, lời tuyên bố. Xưa, chính Môisê không dám tự mình tuyên bố ban lề luật, dầu ông là vị lãnh đạo vĩ đại nhất lịch sử dân Do Thái. Ông luôn luôn nói: “Này điều Thiên Chúa truyền dạy...”, chỉ khi chính Giavê Thiên Chúa ban bố lề luật, Thánh Kinh mới viết: “Thiên Chúa phán với Môisê rằng:...”, như trường hợp tuyên bố Thập giới ở núi Sinai (Xh. 19, 9-10; 21, 2-22)

Kiểu nói đó bộc lộ chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền ban bố lề luật mà thôi. Cùng một kiểu nói như thế, Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ và dân chúng rằng: “Thầy bảo anh em biết...”. Mỗi lần kiện toàn một điều luật, Ngài lại nói: “Thầy bảo anh em biết...”, chứng tỏ thẩm quyền của Ngài là thẩm quyền Thiên Chúa.

Thứ đến, xét về nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay:

Người Do Thái cũng như chư dân chỉ nhằm cấm những hành vi phạm pháp cụ thể bên ngoài như giết người, ngoại tình, bội thề, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta không thể biết được những tội phạm thầm kín trong lòng người, cho nên không có quyền xét xử tội về tư tưởng con người, chỉ có Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo bí ẩn mới đủ thẩm quyền xét xử.

Đức Giêsu cũng cho ta thấy Ngài có quyền xét xử các hành vi tội phạm bên ngoài cũng như bên trong, nên Ngài truyền dạy phải trừ khử những thèm muốn, giận hờn, ghen ghét ngay từ trong lòng người, là nguồn gốc phát sinh những hành vi tội ác bên trong. Ngài đã gọi đám đông đến mà bảo: “Xin mọi người nghe Tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì bên ngoài vào làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm ô uế con người. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu...” (Mt. 7, 14-15. 21). Cho nên, muốn kiện toàn lề luật, muốn con người sống hoàn hảo, phải thanh tẩy nội tâm con người. Cái tâm chân chính sẽ hướng dẫn con người sống chân chính. Nguyễn Du, một thi sĩ bậc nhất Việt Nam, đã thấy rõ điều đó: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Khổng Tử đã huấn luyện các môn đệ trở thành người quân tử đã lấy chính tâm, thành ý làm nền tảng, vì “tâm quảng, thể bàn”, tâm quảng đại làm cho thể xác vững mạnh như bàn thạch (Đại học, chương IV).

Phương ngôn Tây Âu cũng nói: Tâm trí lành mạnh làm cho thân thể cường tráng - “mens sana in corpore sano”.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết mà Thiên Chúa muốn là lề luật, không phải để ngăn cấm, răn đe những điều tiêu cực, những diều xấu như luật loài người; luật Thiên Chúa chính là thực thi những điều tích cực, những điều tốt, tạo niềm tin vào Thiên Chúa tốt lành vô cùng để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa. Đó là mục đích kiện toàn giới luật: Đấng ban bố lề luật thiện hảo.

2- Ngài kiện toàn giới luật thứ V bằng cổ võ lối sống hòa thuận, hòa bình, hòa hợp, yêu thương, hy sinh giúp đỡ nhau. Có hợp nhất với nhau mới xứng đáng được tham dự vào lễ hy sinh của Ngài, vì Thánh lễ là sự hiến mình, chết cho người Ngài yêu. Cho nên ai xây dựng hòa bình như Ngài mới được phúc làm con Thiên Chúa.

Ngài kiện toàn giới luật VI và IX để mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

Xưa Thầy Khổng Tử cũng dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8).

Để vẽ một bức họa thật sắc nét, làm nổi bật những hình ảnh thật sống động và tươi thắm, họa sĩ phải bắt đầu từ nền trắng.

Để hình ảnh Thiên Chúa nổi rõ trên mỗi người, chúng ta phải có lòng trong trắng, vì ai có tâm hồn trong sạch mới được phúc chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa.

Ngài kiện toàn giới luật II và VIII: “Đừng thề chi cả”, “có nói có, không nói không”. Thề mà không có lòng chân thành thì cũng vô ích, còn giảm giá trị làm người, là kẻ không đáng tin. Nếu phải nhờ đến một thế lực thứ ba, một thế lực của những hạng thấp hèn hơn con người: trời, đất, quỷ thần, cô hồn, máu huyết làm chứng cho mình thì thật tồi tệ! Thành tín tin tưởng nhau chứng tỏ tôn trọng, mến phục nhau, tỏ ra có tình có nghĩa, có lòng bao dung, độ lượng. Tình yêu khoan dung sẽ sẵn sàng chấp nhận sự thiệt thòi và phản bội. Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu: yêu cả kẻ thù, kẻ phản bội. Sống chân chính như thế, mới mong “nên trọn hảo như Cha chúng ta ở trên trời”. Lý tưởng của Nho giáo không gì hơn là sống chí thành mới giống thần thánh: “Chí thành như thần” (Trung Dung 24 và 26).

Lạy Chúa toàn năng, toàn thiện, Chúa đã dựng nên muôn loài tốt đẹp, Chúa còn dựng nên con người tốt đẹp muôn vàn hơn nữa và luôn luôn chăm lo săn sóc cho nó trở nên kiện toàn để biểu lộ sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết khôn ngoan chọn con đường sống theo Đức Giêsu để thực hiện mầu nhiệm tình yêu vô cùng khôn ngoan của Ngài. Amen.

 

34.Cuốn sách hai chữ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Mt 5: 17-37: Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”...

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy "chớ giết người". Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: "Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

2. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: "Chớ dâm dục", và điều răn thứ 9 dạy: "chớ ngoại tình". Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội "dâm dục" hay "ngoại tình", nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

3. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra" (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.

4. Cuốn sách hai chữ: Yêu Thương.

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.

Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: "Yêu thương là chu toàn lề luật" (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

 

35.Giữ luật với tinh thần nào?

Nghe bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có cảm tưởng đầu tiên như là Chúa chống lại Lề Luật Mô-sê. Không phải vậy. Trái lại Chúa rất tôn trọng Lề Luật, vì Người cùng với Thánh Gia luôn trung thành và nghiêm túc giữ Luật, thí dụ việc cắt bì hoặc hằng năm lên Đền Thờ dự lễ. Hơn nữa, Chúa Giêsu đến và làm mọi sự là để "ứng nghiệm" lời Chúa phán xưa hoặc lời ngôn sứ... Cho nên Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn" (Mát-thêu 5:17). Thực vậy, Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật. Điều này được hiểu theo hai cách: Chúa Giêsu giúp người ta nhận ra ý nghĩa đích thực và hoàn hảo của Lề Luật; hoặc Người thực hiện những lời các ngôn sứ tiên báo về thời đại cứu độ và cánh chung. Cách thứ nhất có thể thích hợp với chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

Trước hết Chúa Giêsu đưa ra một khẳng định hết sức quan trọng: "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời". Tại sao lại có sự so sánh này? Sự công chính của các kinh sư và người Pha-ri-sêu chưa đủ để vào Nước Trời hay sao? Thưa chưa đủ, bởi vì tuy họ là những người giải thích Luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật, nhưng đáng tiếc, họ "nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào", và nhất là "họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy" (Mát-thêu 23:3-5). Tóm lại, họ chưa đủ tiêu chuẩn công chính để được vào Nước Trời, vì họ đã nhắm sai mục đích của việc giữ Luật, thay vì giữ Luật để được nên công chính thì họ giữ Luật để được người ta thấy và kính trọng họ.

Để trình bày điểm cốt yếu mà người ta thiếu sót khi giữ Luật, Chúa Giêsu lập lại cùng một cách nói: "Luật dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết". Một bên là "Luật dạy", một bên là "Thầy bảo". Như thế có gì là mâu thuẫn giữa những điều Luật dạy và những điều Chúa Giêsu dạy không? Dĩ nhiên là không, vì Luật dạy những điều giúp con người nên hoàn thiện, còn Chúa Giêsu dạy chúng ta phải giữ Luật cách nào để được nên hoàn thiện. Những điều Luật dạy không thay đổi, nhưng các kinh sư và Pha-ri-sêu dạy người ta cách giữ Luật để được khen ngợi chứ không phải để được nên hoàn thiện. Chúa Giêsu đã nói rõ về điểm này: "Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm hãy giữ; còn những việc họ làm thì đừng có làm theo". Mà đã giữ Luật chỉ để được khen ngợi chứ không để được nên hoàn thiện thì làm sao có thể vào Nước Trời. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta: "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời".

Những lời Chúa Giêsu dạy về việc giữ Lề Luật đòi hỏi chúng ta phải xét lại cách tuân giữ Luật Chúa và luật Giáo Hội. Có lẽ chúng ta cũng hãnh diện giống như các kinh sư và Pha-ri-sêu ngày xưa, rằng chúng ta không khi nào bỏ lễ Chúa Nhật, sáng tối đều đọc kinh cầu nguyện, góp công góp của cho giáo xứ hoặc những sinh hoạt tông đồ. Chúng ta có thể lây "bệnh Pha-ri-sêu", là giữ luật để tỏ ra mình là người tốt, chứ không phải để xứng đáng làm con Chúa. Thiếu gì những thí dụ cụ thể nói lên điều ấy! Sau khi "xem lễ" Chúa Nhật, chúng ta thấy mình thanh thản vì đã "giữ ngày Chúa Nhật". Một năm chỉ có hai ngày "ăn chay kiêng thịt", vậy mà đồng hồ vừa điểm 12g đêm là báo hiệu chấm dứt và mình có quyền ăn nhậu! Tôi đóng góp cho việc xây dựng thánh đường, nhưng cha xứ chưa kịp cảm tạ trên tờ thông tin giáo xứ thì tôi đã cảm thấy "bực bội".

Giữ luật là để biểu lộ tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng muốn cho chúng ta cũng được trở nên hoàn thiện như chính Người. Do đó, giữ luật là sống mối quan hệ yêu thương, chứ không phải là việc làm vì ép buộc. Tình yêu đích thực không bao giờ áp đặt cả! Hôm nay, Chúa muốn chúng ta hãy thành thực xét lại vấn đề!

 

36.Thầy bảo cho anh em

(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

Tin Mừng hôm nay xoay quanh một ý tưởng duy nhất là “kiện toàn Lề Luật”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Kiện toàn phải hiểu như thế nào? Tại sao Luật Chúa phải được kiện toàn?

Thiên Chúa muốn dẫn đưa con người sa ngã trong tội, chịu ảnh hưởng của tội nguyên tổ, về với Ngài để cùng được hạnh phúc với Ngài. Ngài muốn con người chia sẻ hạnh phúc của Ngài sau khi đã phản bội. Ngài giáo dục họ tuần tự, tùy theo mức độ tiến hóa của họ. Vì thế Ngài đi từ việc dễ đến việc khó. Ngài tỏ ý muốn của Ngài tuần tự theo thời gian chứ không đốt giai đoạn. Chính Chúa Giêsu cũng nói với các môn đệ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng anh em sẽ không chịu nổi. Thánh Thần sẽ đến sẽ nhắc anh em nhớ những gì Thầy dạy và sẽ dạy anh em hiểu tất cả”. Vì thế, kiện toàn là giai đoạn cuối của một tiến trình lâu dài được kết thúc nơi Ngài. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Ngài mặc xác phàm, nhận lấy thân phận con người như chúng ta, sống như mọi người trừ tội lỗi, sống trong Lề Luật để cứu vớt những người sống dưới Lề Luật. Ngài kiện toàn Lề Luật vì sự yếu đuối của con người. Ngài phải tùy theo khả năng của con người để  dẫn họ đến toàn thiện.

Kiện toàn là đề nghị một lối sống mới, một cách giữ Luật, không bằng những việc làm chiếu lệ, mà giữ Luật bằng con tim. Đối với Ngài, Lề Luật không là những chữ viết trên giấy hay khắc trên bia đá, mà khắc trong con tim, là ý muốn của Chúa Cha. Giữ Luật tức là vâng lời trong tình con thảo. Chúa Giêsu đã vâng phục Chúa Cha đến nỗi Ngài có thể nói: “Thầy làm mọi sự theo ý Đấng đã sai Thầy”. “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy”. Sự vâng phục tuyệt đối đó được thể hiện trên thập giá: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.

Kiện toàn chính là nội tâm hóa cách giữ Luật. Chúa Giêsu nói đến người Pharisêu: “Nếu anh em không công chính hơn nhưng người Pharisêu thì sẽ chẳng vào được Nước Trời”. Vì sao thế? Vì theo đa số người Pharisêu, giữ Luật là làm đúng như Luật dạy mà không cần chú ý đến tinh thần. Ăn chay, bố thí… chỉ cần làm như Luật dạy là đã giữ Luật rồi, nghĩa là ăn chay thì không cần phải đạo đức; bố thí thì cứ bỏ tiền vào thùng mà không nghĩ đến việc mình làm. Như thế là công chính rồi. Vì thế Chúa Giêsu không thể chấp nhận cách giữ Luật hình thức như thế. Trong dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên Đền thờ cầu nguyện, người Pharisêu kể ra những việc đạo đức mình làm và tự thỏa mãn vì đã làm đúng Luật, tự cho mình là đạo đức. Thực ra họ không phạm tội gì, nhưng không phải vì thế mà có thể cho mình là công chính.

Chúng ta có hơn người Pharisêu không? Cũng cần nhìn lại cách thế chúng ta giữ luật. Chúng ta dự lễ, xưng tội, cầu nguyện như thế nào? Chúng ta làm lấy lệ, lấy có mà tâm hồn không liên hệ gì đến Chúa. Chúa Giêsu đã từng nói: “Không phải chỉ nói lạy Chúa! lạy Chúa! mà được vào Nước Trời đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy… mới được vào mà thôi”. Nước Trời không dành cho những người chỉ nói bằng miệng mà không thi hành một cách hoàn hảo những ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng chính nếp sống của Ngài, bằng sự vâng phục triệt để ý muốn của Chúa Cha. Ngài nhận lấy thân phận con người như chúng ta để chúng ta có thể nhìn nơi Ngài mẫu gương tuyệt hảo của vâng phục. Ngài sống như chúng ta, cũng lệ thuộc vào những điều kiện vật chất như chúng ta. Ngài cũng phải lao động kiếm sống, vất vả từng ngày như chúng ta, nhưng luôn làm đẹp ý Cha trên trời.

Ngài kiện toàn Lề Luật khi giúp những người yếu đuối trở về con đường vâng phục. Giakêu, Matthêu, Mađalêna, người nữ Samari… Những người đó là những người đã theo Ngài, chuyển hóa đời sống mình theo mẫu gương của Ngài. Và trở nên những con người thành toàn.

Chính Ngài trở nên Luật cho chúng ta. Ngài chính là người Con mà Chúa Cha đã chấp nhận: “Con là Con Yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con”. Ngài muốn chúng ta cũng trở thành con thảo của Chúa Cha như Ngài.

Hơn nữa, Ngài ban một luật mới, đó là luật tình yêu. Tình yêu chính là lề luật duy nhất, tất cả đều quy hướng về tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài muốn chúng ta sống trong tình yêu của Ngài và sống với mọi người anh em trong tình yêu đó. Đó chính là chóp đỉnh của Lề Luật. Thánh Phaolô cũng đi theo đường lối đó: “Tình yêu kiện toàn mọi Lề Luật”. Và đúng thế. Mười điều răn Chúa chỉ quy tụ chung quanh tình yêu. Ba điều răn đầu là yêu mến Chúa, bảy điều răn sau quy hướng về con người và đòi hỏi yêu thương mọi người. Mười điều răn đều tóm vào hai điều là mến Chúa và yêu người.

Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách nêu lên cho mọi người thấy phải giữ Luật Chúa như thế nào. Chính Ngài tuyên bố: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ giết người, còn Thầy… Thầy bảo…”. Điều này cho chúng ta thấy quyền tuyệt đối của Chúa Giêsu. Ngài chính là Đấng ra luật. Chúng ta không mấy khi để ý đến cách nói như thế. Ngài nói một cách mạnh mẽ, quyết liệt: “Còn Thầy, thầy bảo anh em…” Ngài chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa ngay từ khi mới khởi đầu rao giảng. Chính Ngài ra luật chứ không mượn một uy quyền nào khác. Ngài có quyền ra luật.

Ngài kiện toàn Lề Luật khi dạy cho người ta giữ luật đến mức trọn lành. Luật cũ dạy: “Chớ giết người”. Giết người mới là tội đáng chết. Ngài bảo: chỉ cần xem anh em là ngu ngốc thì cũng đáng bị lên án rồi. Chỉ cần một tư tưởng thôi cũng đủ bị lên án.

Chớ ngoại tình. “Thầy dạy anh em: bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Sự trong sạch phải đạt đến mức tế nhị tối đa. Phải trong sạch cả trong ý muốn. Và những lề luật khác cũng vậy. Phải đạt đến mức vẹn toàn chứ không chỉ căn cứ vào hành động.

Và điều Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thi hành triệt để là “phải trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Đó là đỉnh trọn lành phải đạt đến. Chúng ta nghĩ sao? Nhiều người bảo rằng, tôi không có tội gì nặng, nhưng trong lòng vẫn còn những tư tưởng xấu, còn hận thù, còn tham lam ganh ghét… Một nhà đạo đức nói: “Nếu bạn không làm như bạn nghĩ, thì bạn sẽ nghĩ như bạn làm”. Chúng ta bằng lòng với sự ươn lười của chúng ta, không cần cố gắng. Chúng ta không còn tâm thức về tội. Phạm tội mà không bao giờ biết mình đã làm sai. Tự tha thứ cho mình. Chúng ta thuộc hạng người chỉ nói: “lạy Chúa! Lạy Chúa”. Nước Trời không rẻ tiền như chúng ta tưởng: “Chỉ có những người dũng cảm mới được vào” Chúa nói như thế. Thánh Phaolô cũng không nhân nhượng đối với những người giữ đạo lấy có lấy rồi. Phải vác thập giá, phải bỏ mình. Những lời ấy không chỉ là những lời nói suông. Chúng ta cần chỉnh lại cuộc sống. Can đảm rủ bỏ những gì là tội lỗi và “mặc lấy khí giới của ánh sáng”.

Chúa Giêsu là lề luật sống của chúng ta. Nhìn Ngài để theo gương Ngài. Ăn lấy Ngài để sống với Ngài trong một mối tình không sứt mẻ, để “vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”. Chóp đỉnh của đời sống và hạnh phúc là có thể nói như Chúa Giêsu vào giây phút cuối cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”.

 

home Mục lục Lưu trữ