Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1364310

HẠNH PHÚC HAY ĐAU KHỔ TÙY TA SỐNG

HẠNH PHÚC HAY ĐAU KHỔ TÙY TA SỐNG

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Cuộc đời thật công bằng. Mình làm mình hưởng. Hạnh phúc hay khổ đau cũng tuỳ vào việc mình làm hôm qua và hôm nay mình nhận lại. Tuy nhiên, khi nhìn vào dòng đời ta thấy sao có vẻ quá bất công! Tại sao những kẻ gian xảo, bất lương, chối bỏ Chúa lại là những kẻ thịnh vượng hơn cả, còn người hiền thì cứ liên tiếp gặp đủ tai này vạ kia? Tại sao những kẻ lừa dối xảo ngôn thì được ca tụng như vĩ nhân, còn kẻ ăn nói chân thành lại bị kết án xem thường?

Nhưng thực ra cuộc đời không bất công đâu, ai gieo gì sẽ gặt nấy. Hoạ- may cũng do chính mình làm nên.

Có chuyện kể rằng:

Vợ chồng An có một cửa hàng bán thực phẩm. Một hôm, An đi chơi về hỏi vợ:

- Này em, khúc giò thiu đâu rồi?

- Nhà đối diện mua rồi.

- Thế cân xúc xích bị chuột gặm?

- Nhà ấy cũng mua rồi.

- Còn hộp bơ cũ năm ngoài đã quá hạn?

- Nhà ấy cũng vét nốt!

An lấy hai tay ôm đầu:

- Thôi rồi! Anh vừa được nhà ấy mời ăn cơm!

Thực ra cuộc đời rất công bằng. Mỗi người đều có niềm vui và nỗi buồn khác nhau. Có điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Có người nhiều tiền nhưng lại thiếu sức khoẻ. Có người sự nghiệp, thành tích không cao nhưng sức khoẻ lại tốt. Hạnh phúc hay đau khổ cũng tuỳ vào cách nhìn của mỗi người. Một người nghèo sẽ tìm được niềm vui chỉ với vài trăm ngàn, nhưng khi có nhiều rồi, anh ta sẽ phải tiêu gấp nhiều lần mới thấy hạnh phúc thật sự. Thực ra nếu chúng ta có cả thế giới này thì chúng ta cũng vẫn chỉ ăn ngày 3 bữa, ngủ trên một chiếc giường mà thôi.

Hôm nay Chúa Giê-su bảo cuộc đời con người có hạnh phúc đời này và đời sau hay không cũng tuỳ chúng ta có làm hết trách nhiệm của mình không? Chúa nhắc chúng ta phải làm việc hết trách nhiệm như một quản gia trung tín. Dẫu phải hy sinh từ bỏ vẫn sẵn sàng như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn ở tư thế làm việc như tôi tớ, như osin, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!

Nếu những ai trung tín trong trách nhiệm như vậy thì chắc chắn họ sẽ có một cuộc sống dư giả, thịnh vượng và hạnh phúc. Nhất là còn được Chúa Cha ân thưởng như lời Chúa Giê-su nói: “Cha của anh em đã vui lòng ban Nước Trời cho anh em”.

Cuộc đời ai cũng mong hạnh phúc thì hãy sống có trách nhiệm khi chu toàn bổn phận của mình với Chúa và tha nhân. Với Chúa luôn dành thời giờ tôn thờ Chúa qua việc đọc kinh dâng lễ, với tha nhân chính là biết sống phục vụ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm và đầy yêu thương. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ bị người thân xa lánh và họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc trường sinh mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.

 

22.Hãy tỉnh thức

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)

“Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3, 3)

Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Nước Trời:" Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là có phúc cho họ." Tỉnh Thức có nghĩa là nhận biết chính mình, không mê muội, ảo tưởng về bản thân và các giá trị cuộc đời. Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng giữa thực tại và mộng tưởng mơ hồ, nhưng là người nhận biết bản thân mình và sống thực với mọi hoàn cảnh. Người sống tỉnh thức là người sống có lý tưởng và hành động trong sự khôn ngoan. Sách Khôn Ngoan có viết:

“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan.

Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan,

vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi,

và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất...”

Thật vậy, người sống tỉnh thức là người sống khôn ngoan dưới ánh sáng Lời Chúa. Họ sẵn sàng tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục và của cải thế gian. Họ là người có phúc vì họ đã sống tỉnh thức. Khi ta nhận thức được điều này, thì lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ càng có ý cho mỗi người chúng ta hôm nay, Ngài nói: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó."

Cũng như người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, và hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Ngài đưa ra một quy luật quá khó khăn đối với anh ta. Nghe thấy thế, anh ta buồn rầu và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.

Nếu ngày hôm nay Chúa bảo chúng ta làm như anh nhà giàu này, thì chúng ta cũng bỏ đi ngay. Bằng chứng là có nhiều người ngày nay, họ bỏ Chúa, xa lìa Giáo Hội để chạy theo của cải thế gian hơn là đi tìm chân lý và tích lũy kho tàng trên trời. Sự thực, chúng ta cũng không hơn gì anh nhà giàu trong Tin Mừng. Anh ta là kiểu mẫu cho nhân loại thời nay. Lòng người thì hẹp và ngắn hơn tình thương và ân phúc Chúa ban tặng cho chúng ta mỗi ngày.

Với hình thức giữ đạo thì rất tốt, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu tinh thần sống đạo và chia sẻ cho nhau theo giá trị Tin Mừng, đó cũng là lý do tại sao Chúa Giê-su nói: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Người nghèo thì chết đói kẻ giàu thì phình da. Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ sững sờ, ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay, họ sẽ nghĩ gì?. Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền của để được vinh thăng cuộc đời.

Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!”. Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ, như thánh Phêrô nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa.? Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta mang được gì ra khỏi thế gian này!. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, đi nhiều nơi, nhưng chỉ có một con đường mà tất cả chúng ta đều phải đi chung, đó là con đường sự chết, đi vào nấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có tiền tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm được gì, chẳng mang theo được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay và lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái và yêu thương đọng lại trong những người thân yêu, và những người yêu thương chúng ta. Tất cả là của Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa rất nhiều thứ, nhưng khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta không có quyền để chọn lựa cho số phận của mình. Chính Thiên Chúa quyết định số phận cho chúng ta.

Có thể, Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng đây chính là chân lý mà Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài và tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. "Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ thì Con Người sẽ đến." Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo khó theo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói các con cứ sống nghèo túng, đau khổ khi chết thì ta sẽ được cứu độ và lên thiên đàng. Nhưng, Chúa Giêsu nói: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ." Cái nghèo ở đây chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và sống khó nghèo. Cái nghèo nơi mẹ Teresa Calcutta là hy sinh, phục vụ cho những mãnh đời bất hạnh, họ cần được tình thương, quan tâm và chăm sóc của chúng ta khi họ lìa đời. Đó là sống giá trị tinh thần nghèo khó theo Phúc Âm. Sự quan tâm yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ tha nhân là giới răn: “Kính Chúa yêu người”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức để chon lựa đúng giá trị cuộc sống hiện tại, và xin cho chúng con biết khôn ngoan sáng suốt để nhận thức chân lý của Chúa. Nhờ đó, chúng con có thể dùng của cải thế gian này để mua lấy Nước Trời mai sau. Amen.

 

23.Đừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé! – Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

Qua suốt cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã theo hình thức thăm hỏi của người Do Thái mà thói quen thời đó vẫn dùng: “Bình an cho các con”, đó là một cách để nói: “Chào anh, anh có khỏe không?”. Sau cái chết và sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã chuyển đạt lời chào này thành một đặc ân an toàn giữa những bấp bênh của đời sống này. Khi Chúa Giêsu chào đón các môn đệ của Ngài sau cái chết và sự Phục Sinh, Ngài nói: “Bình an cho các con”, những lời của Ngài đã trở thành sự bảo đảm cho mọi sự nên tốt. Chúa Giêsu đã hiến tặng sự bình an bởi vì Ngài đã chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta đó là tội lỗi và sự chết.

Chúa Giêsu đã hiến tặng cho chúng ta cùng một sự bảo đảm như cho các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm ngày hôm nay: “Hỡi đàn chiên nhỏ, đừng sống trong sợ hãi”. Sợ hãi là một phần của đời sống. Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong bài diễn văn của mình vào ngày 4-3-1933 đã nói với dân chúng Mỹ rằng: “… điều duy nhất chúng ta phải sợ hãi chính là cơn sợ. Nước Mỹ thời gian đó đang chìm trong khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà chúng ta chưa hề thấy trước đó bao giờ, những doanh nhân giàu có đã đi bán những đồng xu bên đường phố, những người đàn bà đã phải đi tìm chỗ ở bởi vì không có chỗ để sống. Một hệ thống kinh tế điên rồ trong quá khứ đã đem lại một hiện tại khủng khiếp và hứa hẹn một tương lai bấp bênh. Mặc dù có sự bảo đảm của tổng thống, nhiều người Mỹ vẫn sợ hãi.

Còn đối với chúng ta thì sao? Đức tin của chúng ta vào lời của Chúa Giêsu có làm cho những cơn sợ hãi của chúng ta nên bình an, không phải về kinh tế nhưng là nguồn mạch lớn lao về sự sống và sự chết không? Thư Do Thái trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hôm nay đã nói với chúng ta rằng;”Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng là bằng chứng cho những gì chúng ta không thấy”. Đức tin của chúng ta trong tương lai đặt nền tảng trên những điều gì? Và nguồn mạch bằng chứng của chúng ta là gì? Đó là quá khứ.

Vào năm 1933, quá khứ đã phát sinh sợ hãi trong lòng người dân Mỹ. Đối với chúng ta quá khứ sẽ làm mạnh cho đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Hãy suy nghĩ về những tổ phụ lớn lao của đức tin như: Abraham và Sara, Isaac và Giacop và tất cả những người sốt sắng trong Cựu Ước. Họ đã đi tìm quê hương của mình. Họ đã tìm thấy nó không phải trên mặt đất này nhưng là trên thiên đàng. Cuối cùng họ khám phá ra rằng không có gì phải sợ hãi. Số phận của họ sẽ làm cho tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng.

Khi chúng ta nhìn về kỷ nguyên mà Chúa Giêsu đang còn trên mặt đất này, chúng ta sẽ thấy gì? Bằng cái chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại của Ngài, Ngài đã phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy bởi thánh giá và sự Phục Sinh Ngài đã giải thoát chúng ta, Ngài là Đấng cứu độ thế giới.

Sau “kinh Lạy Cha”, chúng ta cầu xin ơn bình an: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban bình an cho ngày sống của chúng con”. Và trước khi hiệp lễ, vì linh mục cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, xin đừng nhìn tội lỗi chúng con nhưng hãy nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an và hiệp nhất của Nước Chúa”. Khi chúng ta đã chúc bình an cho nhau, chúng ta thông dự vào việc hiến tặng bình an mà Đức Kitô đã ban cho các môn đệ của Ngài.

Đức tin của chúng ta được đặt nền tảng trên thực tại của tất cả những gì Thiên Chúa đã làm, đầu tiên là những biến cố trong Cựu Ước và đặc biệt là trong sự chết và sự Phục Sinh của Con Người. Điều độc nhất mà chúng ta phải sợ hãi, không phải là chính cái sợ nhưng là sự thiếu đức tin.

 

24.Thức tỉnh – Như Hạ, OP

Làm sao con người có thể tránh hấp lực vật chất? Của cải đã chi phối sâu xa cuộc sống con người. Không tiền bạc không thể làm được việc gì có giá trị. Vật chất đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá mọi thực tại và tương quan. Bởi thế, làm sao người ta có thể tưởng tượng có một thứ tiêu chuẩn nào khác ngoài vật chất? Thế nhưng, Ðức Giêsu muốn đưa ra một thực tại siêu việt, ngược với vật chất. Thực tại đó là Nước Trời, một thách đố lớn lao đối với những ai chỉ tin vào vật chất.

TIN ÐỨC KITÔ: MỘT LỰA CHỌN

Trước thực tại siêu nhiên, của cải vật chất vẫn có một chỗ đứng. Ðức Giêsu không hề phủ nhận những giá trị vật chất. Nhưng Người đã vạch ra một chiều hướng lớn lao cho những thực tại trần thế. Quả thực, Ðức Giêsu gọi người phú hộ là "đồ ngốc" vì chỉ "biết thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa." (Lc 12:21) Khác với người phú hộ chỉ lo "tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình," (Lc 12:18) người môn đệ Chúa Kitô phải "bán tài sản của mình đi mà bố thí" và "sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời." (Lc 12:33) Bỏ qua những thực tại trần thế để đuổi theo những thực tại "trên trời", phải chăng đó là thái độ khôn ngoan?

Chúa Giêsu quả quyết đó là thái độ khôn ngoan. Tại sao? Cái nhìn của Chúa về của cải rất chính xác. Người không bi quan về của cải. Nhưng Người đề nghị cách dùng của cải sao cho ích lợi nhất. Muốn thế, phải tìm được một hướng đi và ý thức rõ ràng về vị trí của mình trên những thực tại trần gian. Con người có thể tạo ra của cải. Của cải tạo ra cảm tưởng an toàn cho con người. Nhưng thực tế, của cải bị đủ thứ đe dọa: cũ rách, hao hụt trộm cướp, mối mọt, bão lụt, chiến tranh v.v. Con người cứ tưởng mình có thể làm chủ tất cả những gì mình có và làm tất cả những gì mình muốn. Nhưng của cải trần thế không đủ sức giúp con người làm chủ thời gian. Chính thời gian sẽ là câu trả lời cho con người biết vị trị của mình trước những thực tại trần thế đó. Khi người phú hộ tưởng có thể ăn chơi "nhiều năm", thì Thiên Chúa lại cảnh cáo: "Nội đêm nay." (Lc 12:19.20) Chính thời gian sẽ bắt buộc con người phải buông tất cả. Hơn nữa, có ai biết được giờ phút từ giã cuộc đời. Bởi vậy, Ðức Giêsu cảnh giác: "Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến." (Lc 12: 40) Cuộc đời rất vắn vỏi và kết thúc bất ngờ. Vì không thể làm chủ thời gian, vai trò làm chủ của cải của con người trở thành tương đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ tuyệt đối trên mọi tài sản. Sống trên trần gian, con người giống như người đầy tớ "đợi chủ đi ăn cưới về." (Lc 12:35) Hay như người quản gia, con người phải khéo léo vận dụng tất cả tài năng quản trị và phải báo cáo với chủ về tất cả những tài sản và công việc mình làm.

Nếu thế, vấn đề không phải là có bao nhiêu tài sản, nhưng là làm cách nào quản trị những tài sản đó. Người quản gia phải hai thái độ: chuẩn bị sẵn sàng và làm theo ý chủ. Thái độ sẵn sàng đòi hỏi người đầy tớ hay quản gia phải "tỉnh thức" (Lc 12:37) Nếu không, họ sẽ đánh mất phần thưởng dễ dàng. Phần thưởng chắc chắn sẽ có, nhưng chẳng biết bao nhiêu. Ông chủ chắc chắn sẽ trở về, nhưng không biết lúc nào. Bổn phận người quản gia là "cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc" (Lc 12:42) đúng người và đúng nơi. Nếu phung phí tiền của vào những nơi đàng điếm, "chè chén say sưa" (Lc 12:45) người quản gia sẽ "phải chung số phận với những tên thất tín." (Lc 12:46) Ðó là thái độ của một quản gia vô ý thức, cứ tưởng "còn lâu chủ ta mới về." (Lc 12:45) Chính sự lầm tưởng ấy đã dẫn anh đến thái độ hống hách, "đánh đập tôi trai tớ gái" (Lc 12:45) y như một ông chủ hách dịch.

Nếu lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi chủ về, các người đầy tớ sẽ chứng kiến một cảnh ngược đời. "Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ." (Lc 12:37) Chưa thấy một ông chủ nào lạ lùng như vậy! Ông đã quên hẳn địa vị để phục vụ người đầy tớ. Ðó phải chăng là cách diễn tả "vai trò phục vụ của Ðức Giêsu, xuyên suốt trong toàn thể sứ vụ và giáo huấn của Người, giờ đây được trình bày trong một khung cảnh cánh chung." (Fahey 1994:535) Chính Ðức Giêsu đã hé mở thái độ như thế khi sống giữa các môn đệ: "Thày sống giữa anh em như một người phục vụ." (Lc 22:27) Thật là một vinh dự và phần thưởng lớn lao! Chẳng cần đợi tới ngày cánh chung, nhưng ngay khi sống giữa các môn đệ, Ðức Giêsu đã cho các ngài nếm trước tình yêu êm dịu nơi thái độ phục vụ đó. Bởi vậy, các môn đệ là những người có phúc và được khen tặng là những "người quản gia trung tín, khôn ngoan," (Lc 12:42) bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin và hi vọng nơi Ðức Giêsu. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều hệ tại thái độ chờ "đợi chủ đi ăn cưới về." (Lc 12:36)

Niềm hi vọng đó cũng là nét đặc trưng của toàn thể dân Chúa thời xa xưa. "Dân Chúa đã trông đợi đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù," (Kn 18:7) sau bao nhiêu thế hệ mong Chúa thực hiện lời hứa. Vì "Chúa là niềm hi vọng của con." (Tv 71:5) Nhưng làm sao hi vọng được, nếu không tin? Quả thực "đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy." (Dt 11:1) Chính "những điều không thấy" có giá trị gấp ngàn lần "những điều trông thấy mà đau đớn lòng." (Truyện Kiều) " Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12:15) Càng nhiều của cải vật chất càng đâm lo. Bao nhiêu đe dọa và hiểm nguy vây bọc chung quanh. Có thể tiêu tan và mất mát bất cứ lúc nào. Giữa những hoang mang lo lắng đó, Ðức Giêsu khích lệ các môn đệ: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em." (Lc 12:32) Nước Người tràn ngập bình an.

Chỉ có Nước Chúa mới là nơi an toàn tuyệt đối. Vào được Nước Trời sẽ thấy Chúa khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn và chăm sóc tận tình. Con người sẽ hoàn toàn hạnh phúc, vì "Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Ðức Kitô Giêsu." (Pl 4:19) Ðó là lý do tại sao nhiều người "bán tài sản của mình đi mà bố thí." (Lc 12:33) Không những bán tài sản, nhưng họ còn liều mạng vì Nước Chúa nữa. Chính tổ phụ Abraham đã đi tiên phong trong niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa. "Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Ðất Hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng," (Dt 11:8.9.10) tức là Nước Chúa, nơi tràn ngập "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần," (Rm 14:17) vì Ðức Giêsu Phục sinh sẽ là "Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh," (Kh 7:27) chan hòa niềm vui.

Niềm vui ấy chính ông Abraham đã nếm trước. Quả thực, "dù đã nhận lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một" (Dt 11:17) là Isaac. Vì "ông Abraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng" (Dt 11:19) cho Ðức Giêsu Phục Sinh. Sau khi phục sinh, Ðức Giêsu đã trở thành "Chúa các chúa, Vua các vua." (Kh 17:14) Người đích thực là ông chủ sẽ trở về vào lúc bất ngờ để đem lại niềm vui bùng vỡ cho các đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Niềm vui lớn nhất là họ sẽ được Chúa "đặt lên coi sóc tất cả tài sản của mình." (Lc 12:44) Làm sao những tài sản trần gian có thể so sánh với tài sản muôn đời đó? Cuộc trao đổi thật lạ lùng! Cho đi cái tương đối để lấy cái tuyệt đối. Hi sinh cái hữu hạn để đổi lấy cái vô hạn. Làm sao hi sinh nếu không tin? Nhưng nếu Ðức Giêsu không phục sinh, làm sao củng cố niềm tin đó? Ðức tin sẽ cho ta thấy phải làm gì "để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay." (Lc 12:36) Chính đức tin sẽ giúp ta tỉnh thức. Nhưng "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết."(Gc 2:17)

Chỉ có "bố thí" mới đánh thức nổi đức tin. Vì chính khi giúp đỡ những anh em nghèo khó, chúng ta sống hết lòng với Chúa, như Chúa đã nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." (Mt 25:40) Thực tế, càng bố thí càng thanh thoát, vì "kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó," (Lc 12:34) vì chính Ðức Giêsu đã giải thoát nhân loại khỏi mọi nô lệ và tội lỗi. Ðức Giêsu chính là kho tàng Thiên Chúa đặt giữa trần gian. Người đã tự đồng hóa với người nghèo. Bởi vậy, người nghèo chính là kho tàng cho mọi người ký thác tài sản.

TỈNH THỨC TRONG ÐỜI SỐNG HÔM NAY.

Nhờ đức tin, nhiều người khôn ngoan đã ký thác tiền của vào những kho tàng đó. Họ có thể là tỷ phú hay triệu phú một mình xây dựng học đường, bệnh viện, viện dưỡng lão, cô nhi, phong cùi v.v. Họ cũng có thể là nhiều công nhân hay nông dân nghèo phải gom tiền mới tài trợ nổi những người di cư và các nạn nhân chiến tranh, bão lụt v.v. Họ hành động như một thái độ tỉnh thức mong chờ Chúa đến. Họ không giống người phú hộ ngốc nghếch, chỉ biết thu tích của cải cho mình. Họ là những "quản gia trung tín, khôn ngoan" biết chia sẻ với những người nghèo và bất hạnh.

Trong khi đó, biết bao người đầy quyền lực, tiền của và tri thức đang lâm vào tình trạng u mê của tên phú hộ ngốc nghếch. Làm cách nào chống lại những người đang nhân danh quyền làm người để giết chết con người? Họ đang đổ tiền của vào việc nghiên cứu tế bào gốc để tìm cách chữa trị những bệnh như Parkinson. Dưới cái nhìn của họ, tế bào gốc không phải là bào thai, nên có quyền thí nghiệm hay hủy diệt tự do. Thực tế, "theo tiến sĩ Dianne Irving, hiện là một nhà luân lý sinh học lừng danh thế giới, cái gọi là?tế bào gốc của bào thai? thực sự là chính bào thai." (CWNews 10/8/2001) Như thế, hủy diệt tế bào gốc là giết người. Không luân lý nào cho phép giết người để cứu người cả. Nhiều người còn dùng quyền lực và tiền bạc áp đặt những biện pháp phá thai, tạo sinh vô tính. Chẳng hạn "chính phủ Trung Cộng đã ra lệnh cho một tỉnh nghèo nàn và hẻo lánh phải thực hiện 20,000 vụ phá thai vào cuối năm sau khi biết chính sách mỗi gia đình một con bị dân chúng coi thường." (CWNews 10/8/2001) Làm sao chống cưỡng được một lệnh giết trẻ em vô tội tàn bạo như thế? Nhiều nhà khoa học đang gầm thét đòi quyền tự do theo đuổi những chủ trương tạo sinh vô tính. Tiến sĩ Severino Antinori chủ trương "quyền làm người cho phép ông nghiên cứu việc tạo sinh vô tính." (CWNews 10/8/2001) "Ông gọi ÐGH Gioan Phaolô II và Tổng thống Mỹ George W. Bush là tội phạm? vì chống lại việc tạo sinh vô tính." (CWNews 10/8/2001)

Tất cả những thái độ chống lại con người như thế phải chăng phát xuất từ những con người đầy ý thức? Ngày nay con người không phải chỉ muốn làm chủ của cải, nhưng cả vận mệnh mình nữa? Thực ra, con người chỉ là đầy tớ hay quản gia trên mặt đất thôi. Muốn đạt tới hạnh phúc đích thực và sâu xa, con người cần phải tìm hiểu cho "biết ý chủ" và "làm theo ý chủ" (Lc 12:47) Người Chủ duy nhất đó chính là Thiên Chúa, Ðấng Tạo thành vũ trụ và là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.

 

25.Sẵn sàng chờ đợi Chúa đến

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền.

Nhà vua gọi anh hề lại và nói:

- “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó”.

Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:

- “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”.

- “Nhà vua đi tận đâu lận?”, anh hề hỏi.

- “Ta chẳng biết nữa”.

- “Nhà vua đi có lâu không?”.

- “Đi hoài và không trở về đây nữa”.

- “Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?”

- “Chưa hề”.

Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:

- “Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi”.

Anh chị em thân mến.

“Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.

Chết là đi về sự sống vĩnh cửu, là về với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Thế mà sao chúng ta vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói rắng chúng ta sợ có thể không gặp được Chúa? Chúa luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta. Phải chăng lo âu sợ hãi là dấu hiệu nói rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng khi Chúa đến, là tâm hồn chúng ta còn ngổn ngang, còn tội lỗi và những đam mê, quyến luyến…

Triết gia Platon nói rất đúng: “Ai không bao giờ nghĩ đến sự chết thì không thể biết cách sống”. Điều nầy càng đúng với đời sống của người Kitô hữu. Làm sao một Kitô hữu có thể sống trong thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nếu những chân lý về đời sống vĩnh cửu, về ngày Chúa trở lại… chỉ là những điều xa xôi, mờ ảo, phi thực trước những cơn sốt của cuộc sống thực tiễn mỗi ngày. Đức tin chỉ cho người tín hữu thấy mình phải đi tới đâu và không cho phép người tín hữu hy sinh vận mạng vĩnh cửu vì những lợi ích ngắn hạn. Người Kitô hữu phải thấy được tất cả chiều dài con đường mình phải đi.

Vì vậy, người Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, “kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp”.

Trông chờ Chúa đến là điều kiện để sống một cuộc đời Kitô hữu đích thực. “Lạy Chúa, xin Chúa mau đến!” đó là lời cầu nguyện khẩn thiết và niềm tin mạnh mẽ của các tín hữu buổi đầu. Chính vì thế mà Giáo Hội sơ khai đã là một Giáo Hội sốt mến, luôn cầu nguyện và bẻ bánh, sống trong tình huynh đệ, để của chung, chia sẻ của cải với anh em nghèo túng.

Còn chúng ta ngày nay thì sao? Thưa anh chị em,

Ưu tư hàng đầu của đông đảo tín hữu hôm nay là gì? Có còn là lòng khao khát Chúa đến nữa không? Chính tâm tình khao khát đợi chờ nầy sẽ chi phối tất cả cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi, thắt lưng, cầm đèn sáng trong tay. Đó là thái độ của người khao khát đợi chờ Chúa đến. Những lời khuyến cáo nầy chẳng những ám chỉ những việc cụ thể người Kitô hữu phải làm để chuẩn bị đón Chúa, mà còn chỉ cho thấy ý nghĩa bao quát, đích thực của đời Kitô hữu. Tất cả đời Kitô hữu là một cuộc chuẩn bị và một sự chờ đợi kiên trì. Nó hướng tới sự hoàn tất cánh chung, tới sự thực hiện chung cuộc các Lời Hứa. Vì thế, tất cả đời Kitô hữu cũng như toàn thể lịch sử loài người là một Mùa Vọng kéo dài, một Mùa Vọng trường kỳ, trong đó tâm tình tiêu biểunhât1 là lòng khao khát Thiên Chúa và niềm hy vọng vui tươi sẽ gặp được Ngài.

Tuy nhiên, niềm hy vọng cánh chung – đợi chờ ngày Chúa đến – không làm giảm giá trị cuộc đời trần thế hiện tại. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn có một cuộc dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, giữa niềm hy vọng cánh chung và việc dấn thân vào đời. Có căng thẳng, dằn co, chứ không có mâu thuẫn. Căng thẳng vì mỗi chiều kích có những đòi hỏi riêng của nó, và người Kitô hữu phải đáp ứng cả hai. Không được chọn bên nầy mà bỏ bên kia: không được dấn thân vào đời mà quên đích điểm là ngày Chúa đến; cũng không vì đợi chờ ngày Chúa đến mà xao lãng bổn phận dấn thân vào đời để xây dựng trần thế nầy. Có dằn có, căng thẳng giữa hai chiều kích, nhưng không mâu thuẫn, vì cả hai đều nhằm thực hiện ơn gọi cuối cùng và toàn diện của con người.

Anh chị em thân mến,

Hy vọng cánh chung chẳng những không miễn trừ các trách nhiệm trần thế mà còn là một động lực thúc đẩy chúng ta chu toàn các trách nhiệm đó một cách tận tụy và chu đáo như người quản gia khôn ngoan và trung tín, biết quản lý và phân phát của cải cho các gia nhân, tôi tớ. “Ai được giao cho nhiều thì phải phân phát nhiều”. “Phúc cho người quản gia nào khi chủ trở về mà gặp thấy đang làm như vậy”. Chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng là một cách tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Vì mọi công trình tốt đẹp thực hiện trong cuộc đời hiện tại sẽ được giữ lại làm chất liệu kiến tạo Nước Trời mai sau.

Mỗi lần cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu – Ngài đã chết và đã sống lại – đồng thời trông đợi Ngài lại đến. Xin cho niềm khát khao Chúa đến sẽ làm chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, nhờ đó ta sẽ đón nhận Chúa cách trọn vẹn trong mọi thời điểm bất ngờ nhất của cuộc đời.

 

home Mục lục Lưu trữ