Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 55
Tổng truy cập: 1364327
HÃY NHÌN KỸ LÒNG MÌNH
HÃY NHÌN KỸ LÒNG MÌNH(*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”
Đức Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng… giữa những người quá giàu, và những người quá nghèo.
Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El’azar có nghĩa là “Thiên Chúa – phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị… chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những tòa nhà bằng bê-tông… Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất… Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn”
Đó đúng là điều Đức Giêsu đã nói:
Những mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?
Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”
Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.
Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.
Ông Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’
Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 – 16,9-11).
Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
- Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
- Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử mình ngay từ trần gian này”.
Hình phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đã trở thành “vực thẳm”.
Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.
Người nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã “mở lòng mình ra cho những người khác”. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này’
Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’
Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’
Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)… sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)…
Nhưng Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ… sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ… bị giam hãm trong của cải của họ… Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.
Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.
Hãy nhìn kỹ lòng mình… Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn có nghèo không?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN – C
GIỮA CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/. Đừng đào thêm vực thẳm.
Trên hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại – Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo” giống như “con cái đời này”: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.
Giờ đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.
Người thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông. Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi – chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức Giêsu – và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ “Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.
Không chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà mình”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ “mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết… ông nhà giàu kia cũng chết”
2/. Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải ở “dưới âm phủ, đang chịu cực hình”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
Muộn quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.
Theo nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy
3/. Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em còn sống trên trần.
Họ có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này”. Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó “từ cõi chết” hiện về với họ, “thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ao tưởng thôi – câu trả lời cho ông – nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe”: Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư’? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh em”. Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)
Bài học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.
BÀI ĐỌC THÊM:
1/. Sức mạnh của Tin Mừng.
“Không mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là… cười nhạo Đức Giêsu”. Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết lòng các ông”. Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó!”. Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.
2/. Trên những nẻo đường của tình liên đới (G. Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).
Nỗi khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu, hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những nhu cầu cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ vận mạng của mình.
Chúng ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi, luật pháp, công ước.
Góp tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới, của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải, chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn…
Phải chăng Thiên Chúa mới đúng là “người từ cõi chết” đến kêu gọi chúng ta như thế?
Các tin khác
.: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam