Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1364312
SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU
Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng đắn.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1)Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
– Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
– lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
– hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
– cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…
Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY- Lm. Thiện Duy
Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong năm 2012, 12 vị thừa sai đã thiệt mạng trên những bước đường truyền giáo. 10 vị là các linh mục, hai vị còn lại là một nữ tu và một giáo dân. Trong 4 năm liên tiếp, Mỹ Châu là vùng đất nơi máu các nhà truyền giáo đổ ra nhiều nhất. Trong năm qua đã có 6 linh mục bị giết tại đây. Tại Phi Châu, 3 linh mục và một nữ tu bị giết. Tại Á Châu, một linh mục và một giáo dân bị giết. Thống kê này không kể đến số các nhà truyền giáo trong đó có cả các Giám Mục bị đánh đập đến mang thương tích, bị giam cầm, khủng bố, hăm dọa, mạ lỵ công khai tại một số quốc gia.
Trong bối cảnh đau thương như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay vang lên như thể củng cố thêm đức tin cho những chiến sĩ đức tin của Chúa, rằng đó là thân phận của những ngôn sứ.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Gr 38, 4-6. 8-10
Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân của mình sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Cám ơn Chúa, còn có những người thấy được tội ác đó nên đã giải cứu cho Giêrêmia.
Đáp ca: Tv. 39
Đây là lời kêu xin rất phù hợp với tâm tình của tiên tri Giêrêmia: “Tôi đã trông cậy ở Chúa, và Ngài đã nghiêng mình về bên tôi”. Chúa nghiêng mình về phía những người cầu khẩn Ngài chi vậy? Thưa để “Kéo tôi ra khỏi hố diệt vong”, giống hoàn cảnh của tiên tri Giêrêmia; và để “làm cho chân tôi vững bước”. Sau khi kéo ra khỏi chỗ chết, Chúa sợ tiên tri của Chúa nản lòng, nên Ngài còn củng cố thêm sức mạnh để họ tiếp tục thực hiện sứ mạng ngôn sứ của mình.
Bài Đọc II: Dt 12, 1-4
Tác giả thư Do Thái mời gọi họ hãy “kiên trì trong đức tin”, vì Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.
Tin Mừng: Lc 12, 49- 53
Đang trên đường lên Giêrusalem, nghĩa là sẽ đi đến cái chết, nên CG đã chia sẻ với các môn đệ về sứ mạng của Ngài và những hệ lụy khi phải chấp nhận sứ mạng đó.
Ngài đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Ngài là Đấng cứu thế. Ngài thực hiện sứ mạng của mình không bằng quyền lực, sức mạnh, nhưng bằng sự yếu nhược và cái chết. Có phải là Ngài thất thế, Ngài đành bó tay trước sức mạnh của kẻ khác không? Thưa không, mà đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì con người chúng ta còn biết rõ một sự thật: “Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tiêu tan”. Thì huống hồ chi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài muốn dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng ta chứ không phải con đường của quyền lực, sức mạnh. Chính vì vậy “phép rửa” mà Ngài muốn nói đến ở đây chính là con đường thập giá mà Ngài sắp bước vào. Đó là sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Tiếp theo, Ngài nói đến những hệ lụy của thân phận ngôn sứ đó. Ngài nói: “Anh em tưởng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Mới nghe điều đó chúng ta giật mình, vì Thiên Chúa mà lại đem đến sự chia rẽ cho người ta sao? Hơn nữa Ngài đã từng chúc phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, chẳng lẽ Ngài lại tự chúc dữ khi là người đem đến sự chia rẽ? Chúng ta phải hiểu Ngài đích thực là Vua Hòa Bình, chính Hòa Bình Ngài đem đến sẽ khiến cho những ai không đón nhận bị chia rẽ. Những ai không đón nhận chân lý của Ngài sẽ tự mình chia rẽ. Hơn thế nữa họ còn quay lại chống đối với những người đón nhận chân lý đó. Thậm chí ngay trong một gia đình, sẽ có người đón nhận và có người từ chối, hậu quả là sự chia rẽ. Đó là hệ lụy của thân phận ngôn sứ, sẽ bị những người từ chối chân lý chống đối, và muốn giết chết.
THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
Tấm gương của Môsê
Trong suốt những tuần qua, các bài đọc ngày thường của năm lẽ kể lại cho chúng ta thân phận ngôn sứ của ông Môsê. Thiên Chúa trao cho ông sứ mạng mà ông không muốn và không có khả năng. Nhưng vì nghe lời Thiên Chúa và thương mến dân tộc của ông mà ông đã chấp nhận thân phận ngôn sứ, chấp nhận lãnh đạo một đoàn dân cứng cổ cứng đầu. Đến nỗi có những lúc ông tuyệt vọng, ông than trách với Chúa: “Chúa coi, con không cưu mang, không sinh ra dân này, mà Chúa bảo con hãy bồng nó vào lòng mà đem đến miền đất ta đã thề hứa với cha ông chúng. Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức với con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn. Tuy nhiên, giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Chính ông là người đã đứng ra van xin Chúa tha thứ cho dân nhiều điều, đã đứng ra nhận lỗi về phần mình, đã xin Chúa có phạt thì phạt ông chứ đừng phạt dân mà tội nghiệp! Và cũng chính vì dân chúng mà Môsê đã không vào được vùng đất Chúa hứa, nhưng phải chết ở bên ngoài vùng đất đó. Đó là tấm gương của một ngôn sứ và những hệ lụy khi chấp nhận thân phận ngôn sứ. Tất cả vì sứ mạng mình đã lãnh nhận, không nghĩ gì đến bản thân mình.
Một lần ý thức
Chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng nhiều khi chúng ta không biết hoặc quên sứ mạng ngôn sứ của mình. Chính vì vậy hôm nay là dịp để một lần chúng ta ý thức mình đã là ngôn sứ, vì vậy phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ và những hệ lụy của thân phận ngôn sứ.
III. CHẤP NHẬN THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
Thân phận ngôn sứ
Thiên Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ta đặt Lời của Ta vào miệng ngươi”. Chính vì vậy ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Thiên Chúa. Các ngôn sứ ý thức nguồn gốc thần linh những sứ điệp của mình, nên họ nói: “Đức Chúa phán”, hoặc “Đó là lời Chúa”, chứ không phải lời của họ.
Kitô hữu là người nói thay lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy họ phải thường xuyên nối kết với Thiên Chúa để có thể biết, hiểu và trình bày lại cho người khác những giáo huấn tinh tuyền của Ngài. Cần phải lưu ý là “những giáo huấn tinh tuyền”. Ngày hôm nay có quá nhiều “sứ điệp từ trời”, “sứ điệp của Đức Maria”, “sứ điệp mang danh của Đức Giáo Hoàng này, Đức Giáo Hoàng nọ”… Kitô hữu cần phải khôn ngoan để phân biệt đâu là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta. Chúng ta đừng tìm đâu xa, sứ điệp đích thực của Thiên Chúa nằm trong Thánh Kinh và Giáo lý cũng như những lời giảng dạy chính thức của Hội Thánh. Họ hãy thông truyền bằng cách sống theo Lời Chúa và Luân Lý của Giáo Hội, cũng như tiếng nói của lương tâm ngay lành.
Mấy ngày nay người ta xôn xao câu chuyện bác sĩ Nguyệt đã làm đơn tố cáo bệnh viện Đa Khoa Hoài Đức ở Hà Nội “nhân bản kết quả xét nghiệm”. Việc này làm cho những bệnh nhân bàng hoàng vì kết quả xét nghiệm của mình được lấy từ những mẫu có sẵn. Việc làm này của chị có thể nói là hành động của một ngôn sứ vì chị đã dám nói lên sự thật, dám nói lên công lý, dù biết mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.
Còn chúng ta, chúng ta đã dám sống theo lời Chúa dạy, đã dám sống theo luân lý Kitô giáo và tiếng nói lương tâm ngay lành chưa?
Hệ lụy của ngôn sứ
Tuy nhiên khi chấp nhận thân phận của một ngôn sứ thì chúng ta cũng phải đón nhận những hệ lụy của nó. Ông Môsê, tiên tri Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các tiên tri đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Chúng ta là những ngôn sứ, cũng phải chấp nhận những chống đối, những hiểu lầm, những ghen ghét, những loại trừ… nói chung là những bách hại để sống sứ mạng của ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính gia đình chúng ta. Chồng kêu vợ đi lễ, cô ta trả lời: “Ông ráng đi đi, mai mốt thành ông cha luôn!” Nếu người chồng không chấp nhận thân phận ngôn sứ sẽ bỏ luôn vai trò ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính khu xóm của chúng ta. Tháng Mân Côi, khu trưởng lại bàn về việc rước Đức Mẹ về nhà đọc kinh, thay vì được nhận lời, còn bị chửi nữa. Nếu không chấp nhận thân phận ngôn sứ chúng ta sẽ dễ chán nản.
Những bách hại đó đôi khi trong chính đoàn thể của chúng ta. Ai làm gì cho mình giận là mình không thèm tham gia nữa, làm như thể mình phục vụ những con người trong hội đoàn đó chứ không phải phục vụ Chúa và Giáo Hội vậy?
Những bách hại đó dành cho mọi ngôn sứ, nhưng thường dành cho những người đứng đầu nhiều hơn.
Khi giết được cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người ta đã thả cho giáo dân của cha về.
Các Linh mục làm việc bác ái, người được thì hớn hở, người không được thì giận hờn, thậm chí bỏ đạo luôn.
Giáo dân trong họ đạo bắt cha sở phải làm theo ý của họ với luận điệu họ đạo này là của chúng con, cha phải làm theo những gì chúng con đề ra…
Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin:“Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến”. Như thế, người tín hữu vẫn luôn phải trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng họ có Chúa nâng đỡ và phù trì. Sự gian nan ấy không làm nghẹt đức tin và lòng trông cậy nơi họ, nhưng trái lại, như lửa thử vàng, gian nan thử thách, chính sự gian nan là bằng chứng cho một tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và phó mình vì tôi”.
Các tin khác
.: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam