Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1364304
TÊN ĐẦY TỚ KHÔN KHÉO
TÊN ĐẦY TỚ KHÔN KHÉO
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện để dẫn vào một bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương. Vì là điều tuỳ, nên thánh Luca đã không quan tâm đến những chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang tiếng là đã phung phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này, anh đã tính toán, giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến họ trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp đỡ anh. Cư xử như vậy là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo hơn con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn, vì hắn là kẻ bất lương, nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy. Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta lại hững hờ và chậm chạp quá vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách. Nhưng nếu muốn mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa muốn gởi đến cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời đầy đủ, vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì nhiều và mỗi lần giảng, Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta hôm nay đó là vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy bắt chước óc sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc Nước Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Hắn đã tìm cách bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái sự sáng, cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì và tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của cho mình một kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp. Ngược lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi chết liệu có mang theo được hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu cho mình một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Vậy chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất chứa cho thật nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan điểm dưới, coi nó chỉ là phương tiện xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi từ bình diện trần gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo của con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ hơn đối với công việc thiêng liêng. Chúa không chấp nhận thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên thần tượng, ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và giúp đỡ kẻ khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn giáo, quan điểm sau nhờ tôn giáo mà chúng ta thấy cần phải chia sẻ mọi sự với mọi người.
8.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Cách quản lý tiền của
"Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16, 13)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong thời đại kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ ngày nay, tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy chúng ta biết sử dụng tiền bạc như thế nào để nó luôn là đầy tớ phục vụ mình, chứ không bao giờ là ông chủ bắt ta nô lệ nó.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con quá mải mê kiếm tiền đến nỗi nhiều khi lơ là bổn phận đối với Chúa.
Chúng con quá coi trọng tiền bạc đến nỗi nhiều lần lỗi công bình và bác ái.
Chúng con chưa yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Am 8, 4-7)
Ngôn sứ Amos mạnh mẽ lên án những tội lỗi của người giàu:
Họ mê kiếm thêm tiền đến nỗi ngay trong những ngày lễ như mồng một và sabát họ chỉ mong cho ngày lễ ấy chóng qua để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm tiền.
Khi làm ăn, họ dùng đủ cách gian lận "làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm".
Đặc biệt họ khai thác và bóc lột những người nghèo.
2. Đáp ca (Tv 112)
Ca ngợi Chúa vì đã cứu giúp và nâng đỡ những người nghèo.
3. Tin Mừng (Lc 16, 1-13)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy môn đệ mình cách xử dụng tiền bạc của cải vật chất. Trước tiên Ngài dùng một dụ ngôn (người quản gia), và sau đó nói về cách xử dụng tiền của.
a. Dụ ngôn người quản gia: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
- Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là "bất lương". Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự "bất lương" này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?... ).
- Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là "con cái thế gian", thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. "Con cái của sự sáng" phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
b. Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
Ngài đánh giá tiền của là "gian dối".
Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau.
Phải coi tiền của là đấy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
4. Bài đọc II (1 Tm 2, 1-8) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu mình đừng ganh tị tranh chấp với nhau:
Nguồn gốc của tranh chấp là lòng tham
Thay vì tranh chấp, hãy tích cực xây dựng hòa bình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Dùng tiền của hiện tại để mua bảo đảm cho tương lai
Dụ ngôn này nói tới một người quản gia kia bị tố cáo là phung phí tài sản của chủ nên bị chủ báo tin là sẽ cho thôi việc. Anh ta lo sợ trước viễn tượng một tương lai bấp bênh nên đã tìm cách xoay sở, để sau này khi anh mất việc thì có nhiều người giúp đỡ anh.
Mấu chốt của câu chuyện là cách xoay sở của anh: anh gọi những người thiếu nợ đến và sửa lại giấy nợ, nghĩa là giảm bớt phần nợ mà họ phải trả. Làm như thế họ sẽ biết ơn anh và sau này sẽ giúp anh để đền ơn.
Thế nhưng cách xoay sở bằng cách sửa lại giấy nợ như thế có lương thiện hay không? Hiện có hai lối giải thích:
- Giải thích thứ nhất cho rằng anh ta không lương thiện: lẽ ra con nợ thứ nhất phải trả cho chủ 100 thùng dầu thì anh bớt đi chỉ còn phải trả 50 thùng thôi; con nợ thứ hai lẽ ra phải trả 1000 thùng lúa thì anh bớt đi chỉ còn 800. Như thế là làm thiệt hại cho chủ. Anh ta lấy một phần tài sản của chủ để mua lấy tình cảm cho bản thân anh. Nói nôm na hơn, anh ta "mượn đầu heo nấu cháo".
- Giải thích thứ hai cho rằng anh lương thiện: Theo tục lệ Do Thái, người quản gia không được trả lương, nhưng bù lại, chủ thường uyển chuyển hoặc làm ngơ để cho người quản gia dùng tài sản của chủ mà kiếm ăn riêng, miễn sao không hại đến tài sản của chủ thôi. Người quản gia này đã lấy 50 thùng dầu của chủ để cho người ta vay nhưng trong giấy nợ anh ghi là 100 thùng, tức là có thêm 50 thùng mà anh ta sẽ hưởng; cũng thế anh lấy 800 thùng lúa của chủ để cho vay nhưng trong giấy nợ lại ghi là 1000 nghĩa là có phần của anh 200 thùng. Đến lúc cần mua lòng người ta, người quản gia này đã hy sinh phần lời mà anh được hưởng, anh dùng phần đó để mua tình cảm của những người thiếu nợ. Nói nôm na, anh này đã "bỏ con tép để bắt con tôm". Như thế, anh xoay sở cách lương thiện.
Hai giải thích trên, giải thích nào cũng có phần đúng. Chúng ta không biết chọn theo giải thích nào. Nhưng điều đáng chúng ta lưu ý, mà cũng là điều chính Chúa Giêsu bảo chúng ta học theo, đó là anh biết dùng của cải vật chất hiện tại để mua sắm những thứ bảo đảm cho tương lai: đối với người quản gia này, để mua lấy bảo đảm cho tương lai, anh không tiếc phải hy sinh tài sản hiện tại. Hiện tại, anh làm ơn cho những người thiếu nợ anh, để sau này những người đó sẽ trả ơn cho anh.
* 2. Những việc nhỏ dẫn đến việc lớn
Người ta không phạm một tội lỗi tày trời ngay trong một sớm một chiều; người ta cũng không làm một việc tốt vĩ đại ngay trong một sớm một chiều. Việc lớn là hậu quả hay kết quả của những việc nho nhỏ mà người ta đã bắt đầu làm từ rất lâu trong quá khứ.
Như người quản gia trong dụ ngôn này, có lẽ khi mới được chủ chọn làm người coi sóc tài sản, anh đã làm rất tốt. Dần dần đồng tiền có sẵn trong tay cám dỗ anh ăn bớt ăn xén, khởi sự là một số tiền nhỏ, dần dần lớn hơn... Rất có thể đôi khi lương tâm anh cũng sống lại, khiến anh biết điều mình làm là sai trái. Nhưng vì đã quen ham tiền và quen kiếm tiền cách bất chính nên anh không dừng lại được, trái lại càng ngày càng lún sâu hơn trong tội lỗi. Cho đến một ngày kia, sự việc đổ bể, chủ gọi anh đến và cất chức anh.
Tục ngữ có câu "Túi tham không đáy". Chúng ta đừng tự lừa dối mình rằng "Chỉ một ít này thôi, chỉ một lần này thôi", bởi vì một khi đã dùng cách bất chính để bỏ vào túi tham của mình một ít tiền thì cái túi ấy chẳng những không đầy, trái lại nó càng sâu thêm, lòng tham của mình đói khát thêm và lại đòi ăn thêm nữa.
Hằng ngày đọc báo, nghe đài và xem truyền hình, chúng ta thấy nhiều người phải ra tòa rồi vào tù vì tội ăn cắp tài sản của người khác hoặc của công. Đáng chú ý là thủ phạm của những vụ ăn cắp lớn không phải là những người nghèo mà là những người giàu. Họ đâu có túng thiếu, họ còn dư thừa nữa là đàng khác. Nhưng căn bệnh nguy hiểm của họ là tiền bạc họ có thay vì thỏa mãn họ thì lại làm cho họ thèm khát hơn.
Cách tốt nhất để không bị đồng tiền làm hại là hãy kiếm tiền cách chân chính và đừng bao giờ bắt đầu một hành vi gian tham dù rất nhỏ nhặt.
* 3. Nhận lãnh để trao ban (Lc 16,1-13)
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, đơ tay, ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang hoạ, liền thuê người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về miếu cũng được.
***
Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu "con cái đời này" biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao "con cái sự sáng" lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù dù, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không "trung tín trong việc nhỏ" là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác giả Augier còn viết: "Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo". Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thựïc sự "làm tôi Thiên Chúa".
***
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen. (Thiên Phúc)
4. Chuyện minh họa
a/ Cửa sổ hoặc tấm gương
Một người Do Thái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói: "Ông hãy nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì. " Không một chút do dự, người giàu có trả lời: "Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại. " Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: "Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương?" - "Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi".
Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học: "Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những người khác. (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Loại tiền cho đi
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
c/ Đạo một mắt
Bác sĩ A. J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: "Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!"
Nhiều người vẫn cầu nguyện: "Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa... " Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!
d/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
5. Mảnh suy tư
a/ Tiền
Người công nhân đồ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó cho vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm để dành nó
Người keo kiệt thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giàu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó (Quote)
b/ Khả năng thật của tiền bạc
Tiền có thể mua được cái vỏ nhưng không mua được cái nhân
Nó có thể mang đến cho bạn thức ăn, nhưng không mang đến khẩu vị
Nó giúp bạn có nhiều người quen, nhưng không giúp bạn có bạn bè
Nó giúp bạn có những đầy tớ, nhưng không giúp bạn có được lòng trung thành của họ.
Nó ban cho bạn những tháng ngày hưởng thụ, nhưng không cho bạn bình an và hạnh phúc (Henrik Ibsen)
c/ Những thứ mà tiền không mua được
Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui lành mạnh.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / biết luôn quan tâm đến việc rao giảng Tin mừng cho mọi nước mọi dân.
2. Hiện nay / vẫn còn có biết bao người không nhà không cửa / nghèo khổ cùng cực / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc xóa đói giảm nghèo / mang lại hiệu quả thiết thực cho những người bất hạnh trong xã hội.
3. Tiền bạc là một người đầy tớ tốt / nhưng luôn luôn là một ông chủ xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sử dụng của cải Chúa ban theo đúng tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
4. Giúp mọi người sống xứng với nhân phẩm của mình / là bổn phận cao quý của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi giúp đỡ những ai thật sự khó nghèo / để họ có thể sống xứng với thân phận con người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Xin cho chúng con chỉ biết tôn thờ một mình Thiên Chúa, và chỉ sử dụng tiền của như một phương tiện Chúa ban để nuôi sống bản thân và gia đình, đóng góp vào việc công ích và chia sẻ cho những người nghèo khổ. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta sắp nói với Chúa Cha rằng "Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày". Lời nguyện này không nhằm xin cho có của ăn cho bằng xin có tinh thần phó thác vào Chúa quan phòng thay vì óc tham lam tích trữ.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt xin cứu chúng con khỏi tính tham lam và sự nô lệ tiền của, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an "
VII. Giải tán
Trước khi ra về, chúng ta hãy ôn lại một lời Chúa nói hôm nay "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được". Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng làm chủ tiền của và làm tôi Thiên Chúa.
9.Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8: 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2: 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16: 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).
1. Ơn gọi:
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
2. Bối cảnh vương quốc miền Bắc:
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng nầy. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bốc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp nầy huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
3. Nhân cách ngôn sứ của A-mốt:
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8: 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8: 7).
Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giêsu. Trong trường hợp Đức Giêsu cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gởi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gởi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gởi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
1. Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
2. Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền:
Thánh nhân đã bày tỏ - và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7).
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Âu-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
3. Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô.
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giêsu Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giêsu vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.
Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giêsu đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giêsu, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giêsu về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
1. Vấn đề:
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giêsu (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giêsu? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giêsu sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giêsu quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến đinh tai nhóc óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giêsu không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
2. Bận lòng đến tương lai trần thế:
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nổ lực này mà Chúa Giêsu muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
3. Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu:
Chúa Giêsu phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
Cuối cùng, Chúa Giêsu cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
10.Sử dụng tiền bạc
Đoạn Tin Mừng sáng này có vẻ khó hiểu, vì thế tôi xin bắt đầu bằng một câu chuyện:
Có một anh lính ba gai, không bao giờ làm hài lòng về cấp chỉ huy của mình là một ông đại tá. Mỗi lần trình diện thì hoặc là giày còn bẩn, súng chưa lau, hay tới chậm mất mấy phút. Hôm đó anh được xả trại và được tự do đi chơi cho tới 8 giờ tối. Vào lúc 7g45 anh vẫn còn lang thang ngoài phố. Bất ngờ anh trông thấy chiếc xe của ông đại tá. Định rẽ vào một con hẻm nhưng không kịp. Ông đại tá dừng xe trước mặt anh và nói:
- Đúng 8g anh phải trình diện tôi tại bộ chỉ huy, bằng không sẽ bị 3 ngày cấm cố.
Anh lính suy nghĩ thật mau. Chỉ còn 15 phút nữa. Đi bộ thì không kịp, đón xe thì không có. Lập tức anh chạy theo chiếc xe của ông đại tá. May thay chiếc cốp phía sau vẫn còn mở. Thế là anh vội nhảy lên và chui tọt vào trong. Ông đại tá cho xe chạy vòng vòng qua mấy ngã đường rồi trở về doanh trại. Nhưng khi xe vừa dừng lại thì anh lính cũng nhảy xuống và trình diện ông đại tá. Ông đại tá bèn khen:
- Anh đã hành động khôn ngoan, tôi tha phạt cho anh, từ nay trong mọi hoàn cảnh, anh cũng hãy hành động khôn ngoan như thế.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đã kể lại một câu chuyện tương tự như thế. Tên quản lý thực là là một kẻ trộm cắp. Chúa Giêsu không ca tụng sự gian tham của hắn, nhưng khen ngợi hắn đã hành động một cách khôn ngoan, và rồi Chúa đi đến kết luận: Không phải chỉ con cái thế gian, mà cả con cái sự sáng cũng phải tỏ ra thận trọng và khôn ngoan như vậy. Rồi Chúa cũng chỉ cho chúng ta cách thức để hành động khôn ngoan, đó là hãy dùng tiền bạc vật chất, hãy dùng tất cả những gì chúng ta có để tạo lấy những bạn hữu sẽ giúp chúng ta vào Nước Trời.
Để hiểu được điều đó, tôi xin kể tiếp một mẩu chuyện nữa: Ông chủ vườn chôm chôm giàu có, sáng nọ thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng nhìn vào một cách thèm thuồng. Ông là người yêu trẻ nên cho gọi hai em đến và bảo:
- Hai em cứ việc vô vườn ăn, nhưng không được đem trái nào ra.
Trước khi các em đi về, ông đã khám túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào cả. Nhưng ông lấy làm lạ vì thấy hai em đi theo bờ dậu, cúi xuống như lượm một cái gì đó. Đoán được mưu của hai em, ông cho gọi lại và hỏi. Hai em bèn phải thú thực rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sẽ lượm về cho em. Ông khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em đem những quả chôm chôm ấy về. Hai em nhỏ là chúng ta. Ông chủ vườn là Thiên Chúa. Thửa vườn là thế gian. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được như tiền bạc, cơm gạo, áo quần... Những sự ấy chúng ta không thể đem theo khi từ giã cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một cách để hành động, chúng ta có thể ném ra ngoài hàng rào những cái chúng ta đang có, nghĩa là chúng ta chia sẻ phần tiền bạc vật chất cho những kẻ nghèo khó. Điều đó Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa. Nếu chúng ta hành động khôn ngoan, chúng ta sẽ trở thành bạn hữu của Chúa và chúng ta sẽ tìm thấy ở trên trời tất cả những gì mà trong cuộc sống trần gian chúng ta đã ném qua hàng rào, bằng cách cho đi để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh.
Để kết luận, chúng ta có thể nhớ lại lời Kinh Hoà bình của thánh Phanxico Assie: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
11.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
12.Sử dụng tiền bạc sao cho đúng – An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 25 Thường Niên C là dụ ngôn về người quản lý bất lương, bị ông chủ đòi tính sổ và không còn được làm quản lý nữa. Nhưng người quản lý này đã khôn ngoan và táo bạo để toan tính cho tương lai sắp tới của mình: gọi các con nợ đến và giảm nợ. Ông chủ đã khen ngợi hành vi đó. Tiếp đến, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên thực tế về việc sử dụng tiền bạc thế nào cho đúng: để mưu cầu hạnh phúc đời đời.
Đức Giêsu luôn gây những điều bất ngờ và nghịch lý. Những dụ ngôn "nghịch lý" như: Vị quan tòa bất chính (Lc 18,1-8), Người phú hộ ngốc nghếch (Lc 12,16-21), Người tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)... đã minh chứng điều này. Dường như Đức Giêsu nhận ra những yếu đuối, thiếu sót và cả những "hào nhoáng" trong những nhân vật được xem là đáng kính trọng? Dường như có một chút hài hước và cay đắng đối với những người được xem là "đạo đức"? Điều này xem ra làm cho những người nghe Người bị sửng sốt. Thực vậy, khi đến trần gian, Đức Giêsu thường "bầu bạn" với những người tội lỗi. Người đến để cứu vớt những người tội lỗi. Như Thiên Chúa đã sáng tạo con người bằng bụi đất, và khi làm như thế Người chẳng sợ "dơ tay", thì Đức Giêsu sẽ tái tạo nên một nhân loại sáng ngời, mới mẻ từ giữa những người tội lỗi. Điều này thể hiện lòng nhân từ của vị Thiên Chúa đến với con người.
Nhưng nhất là trong hoàn cảnh quyết liệt và bi đát, lòng nhân từ này vẫn rộng mở và gây nhiều ngạc nhiên. Dụ ngôn người quản lý bất lương là một tiêu biểu.
Người quản lý trong dụ ngôn này gây ngạc nhiên cho chúng ta, bởi lẽ anh ta bất lương, không trung thực trong việc quản lý của mình. Anh ta đã phải nhận lấy thảm họa cho chính mình. Anh đã biết sử dụng những "mánh khóe" và những quyết định tức thời để toan tính cho tương lai của mình trong một hoàn cảnh bi đát như thế. Điều ngạc nhiên hơn nữa là ông chủ đã khen ngợi cách hành xử của người quản lý này. Ông chủ đã thể hiện lòng nhân từ vượt quá lẽ thường tình. Theo lẽ thường, ông chủ sẽ tức giận, và không đồng ý lối giải quyết của người quản lý bất lương như trong câu chuyện.
Như thế, khi chúng ta phải đương đầu với những hoàn cảnh bi đát, bị loại trừ, chúng ta hãy dám hành xử một cách "táo bạo" và "sáng suốt" để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu cho mình, như người quản lý đã làm.
Lối hành xử táo bạo và sáng suốt này nghĩa là sao? Là dám tin tưởng vào lòng nhân từ vượt quá lẽ bình thường của Thiên Chúa. Là nghĩ đến tương lai và mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chính mình. Là luôn hy vọng và cậy trông dù trong hoàn cảnh bi đát nhất.
Những lời giáo huấn của Đức Giêsu về cách sử dụng tiền bạc: "Tiền bạc là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đày tớ tốt". Tiền bạc được nói ở đây được xem như là đại diện những thực tại trần thế vốn chẳng tốt cũng như chẳng xấu; nó tốt hay xấu là tùy người sử dụng.
Người kitô hữu không "từ chối" tiền bạc nhưng biết cách "từ chối" phục vụ chúng, coi chúng như là một ông chủ. Chỉ có một đời sống nhưng với hai phương diện khác nhau: một là trong tương quan với Thiên Chúa hoặc đời sống tâm linh (cầu nguyện cá nhân, tham dự thánh lễ...), và một là trong tương quan với đời sống thường ngày (công ăn việc làm, nghỉ ngơi, giải trí...). Nhưng hai đời sống này (tâm linh và thường ngày) chỉ là một, chúng tác động lẫn nhau. Điều quan trọng là cách thế hành xử đặt Thiên Chúa lên trên hết, là định đúng bậc thang giá trị của mọi thực tại trần thế.
Như thế người kitô hữu tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời cũng "táo bạo" và "sáng suốt" để đạt cho được hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa nhưng không xao lãng việc xây dựng xã hội trần thế.
Lạy Chúa Giêsu,
Người là Đấng Cứu thế khoan dung và nhân từ.
Là ánh sáng chiếu vào đêm tối chúng con.
Là bạn của con người. Chúa không chê ghét một ai.
Trái tim Người không khép kín
trước những toan tính ích kỷ của con người.
Xin cho chúng con tình yêu,
lòng thương xót và dịu hiền của Chúa.
13.Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 16:1-13: Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Suy niệm:
Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, con người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền, đến nỗi đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ. Thậm chí người ta coi lương tâm không bằng lương tháng, nên để cho đồng tiền lèo lái và quy định cả cách sống. Khi đó, họ xem Thiên Chúa như vắng bóng, nhân cách, lương tâm và liêm sỉ bị gạt sang một bên, con người ta sẵn sàng làm bất cứ việc gì thậm chí trái với luân thường đạo lý, với công bình bác ái. Lòng tham của con người không bao giờ cùng. Chính vì thế, trích sách tiên tri Amos đã phản ánh những kẻ đàn áp người nghèo khó: ngay trong những ngày lễ theo luật định như Mồng Một và Sabáth, những người tham lam chỉ giữ luật hình thức, mong cho ngày lễ ấy qua lẹ mau chóng để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm nhiều tiền. Họ dùng đủ cách gian lận "giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả". Họ còn khai thác và bóc lột những người nghèo. Những việc làm sai trái của họ đã bị Chúa lên án rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”.
Chỉ trong vòng hai tuần đầu tháng 9/2019, đã xảy ra hai vụ thảm sát rất man rợ tại miền Bắc Việt Nam. Nguyên nhân cũng vì tranh chấp đất đai, tiền bạc đã khiến trường hợp thứ nhất là người anh tuổi ngũ tuần sát hại cả nhà đứa em mình; trường hợp thứ hai người anh tuổi lục tuần thảm sát cả nhà em gái. Quả là đồng tiền nó bạc bẽo lắm, và khiến người ta trở nên lạnh như tiền. Mãnh lực đồng tiền đã khiến huynh đệ tương tàn, thủ phạm thậm chí đoạt mạng ngay cả người cùng máu mủ. Đâu rồi “Anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc dỡ hay đỡ đần”, đâu rồi “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”?
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn kể về viên quản lý. Quản lý là người mà chủ rất tin tưởng, giao cho việc thay mặt chủ để thu xếp nhà cửa trong ngoài, ngay cả tài sản của chủ, miễn sao sinh lợi cho chủ là được. Thế rồi có người tố cáo với ông chủ về anh quản lý đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản lý nặn đầu bóp trán tìm cách lo cho cuộc sống tương lai vì anh sắp bị mất chức, nhưng cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Anh nghĩ ra một mánh lới có thể vớt vát để sau khi mất chức quản lý, sẽ có người đối đãi tử tế với anh. “Thế rồi anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ một trăm thùng dầu thì anh bảo người ấy lấy văn tự, ngồi xuống và mau viết lại: năm mươi. Người nợ một trăm giạ lúa miến thì anh bảo người ấy viết lại: tám mươi.”
Chúa Giêsu gọi anh là người quản lý bất lương chính bởi bản chất con người của anh đã phơi bày công khai. Những người mắc nợ chủ phải trả phần vốn và phần lãi là chuyện đương nhiên, nhưng anh lại ăn lời cắt cổ trên xương máu người nghèo lên tới 20% lãi suất; ai mà anh thấy chém đẹp được thì anh tăng lên tới 50%. Anh qua mặt chủ mà tự đặt giá, qui định những tiêu chuẩn, mặc kệ tai tiếng cho chủ bị xem là tay cường hào ác bá, anh thậm chí bán rẻ danh dự ông chủ để mua lấy lợi lộc cho cá nhân và gia đình.
Nhưng Chúa Giêsu cũng phải phục sự suy tính của anh khi Người bảo: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Người quản lý đã khôn lõi theo kiểu thế gian, anh luôn biết đón hướng gió mà nương. Anh vận dụng tất cả sự khôn ngoan và sắc bén trong làm ăn để biến tiền của thành một phương tiện, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp anh về nhà họ, vì anh được tiếng là biết thương người anh em, giảm cho các con nợ tới cả một nửa.
Vậy chúng ta là con cái nước trời, chúng ta dược mời gọi nhận ra những người đói khổ quanh chúng ta là anh chị em mình. Vậy còn chờ chi khi chúng ta chưa dùng tiền của giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, dùng tiền của để sống bác ái, vì khi cho một người nghèo, mình sẽ học được sự quảng đại bằng hành động, tinh thần biết sẻ chia, lấy tiền bạc mua lấy bằng hữu. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tiền của còn có thể giúp chúng ta loan báo Tin Mừng khi người khác tìm thấy Chúa Kitô nơi các Kitô hữu, vì chỉ có Chúa, con người ta mới sống tốt hơn, mới sống xem nhẹ tiền bạc, mới vượt qua những ích kỷ nhỏ nhen trong cuộc sống con người để sẻ chia cho anh chị em ngay cả khi mình chưa có khá giả gì.
Để có thể sống đức Ái cách tốt đẹp, thánh Phaolô còn dạy chúng ta cầu xin cho những người đứng đầu và những nhà lãnh đạo quốc gia luôn đối xử công chính liêm minh để dân chúng được an cư lạc nghiệp, làm ăn lương thiện, khi ngài gởi những dòng sau đây cho môn đệ Timôthê rất chân thành: “Hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.” Vâng, khi một chính quyền biết lo lắng cho quyền lợi của dân chúng một cách đúng mức, người dân sẽ ý thức sống đúng pháp luật, không làm ăn gian dối, không mua gian bán lận, không bất chấp mọi cách để có đồng tiền.
Lạy Chúa, mỗi khi con cầm một đồng tiền trên tay, xin cho con ý thức xem đồng tiền chỉ là một công cụ để con sống xứng danh con Chúa, không quên nâng đỡ hoàn cảnh của anh chị em đang sống quanh con. Amen.
14.Người quản lý trung tín
(Trích dẫn từ Logos)
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường Quân dặn: “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về”.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ tất cả sổ nợ!”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh Thường Quân: “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Họ Phùng đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa” làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc “đầu tư” nghĩa là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta “khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng “cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
- Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà.
- Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
- Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với viên quản lý:
- Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn nhất nước Mỹ!
Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ sộ mới xây và nói:
- Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.
Các tin khác
.: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam