Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1364342
YÊU SẼ LUÔN KIẾM TÌM HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI MÌNH YÊU
YÊU SẼ LUÔN KIẾM TÌM HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI MÌNH YÊU
Báo VnExpress có bài viết: “Người cha 15 lần xuất cảnh để tìm con nơi 'động quỷ' kể rằng ông Thắng đã bỏ ra hơn 400 ngày, đi dọc 30.000km đường bộ ở Trung Quốc mới tìm thấy con gái mình. Vì sao con ông sang tới đó? Ông nói: “Năm 2007, như nhiều đứa trẻ mới lớn, Lương - cô con gái thứ ba của ông Thắng đòi bố mua cho chiếc điện thoại di động để tiện cho việc học. Từ những tin nhắn vu vơ của người lạ, cô bé 16 tuổi bị một kẻ lừa đảo rủ đi chơi rồi chuốc thuốc mê bán sang Quảng Tây (Trung Quốc). Con gái mất tích, cả nhà bấn loạn. Họ lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm của 11 tỉnh thành miền Bắc nhưng không tìm thấy con. Ông cũng báo công an nhưng sau nhiều ngày vẫn bặt vô âm tín. Ông vẫn kiên trì đi tìm, cứ đi tìm rồi lại quay về. Năm 2008, thình lình cô bé mất tích bật tin ngắn gọn rằng cô bé đang ở Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc. Ông sang Trung Quốc, trong vai khách làng chơi, hai người cùng vào hỏi bà chủ "Có gái Việt Nam không?". Sau cái gật đầu, một cô gái trẻ tiến ra. "Ối con!", ông Thắng kêu lên một tiếng rồi cắn chặt miệng ngăn dòng nước mắt chảy ra. Cô con gái cũng nấc nghẹn nhưng rồi câm bặt. "Nếu lúc đó 2 cha con mà không nén cảm xúc thì có khi tôi cũng đã bỏ mạng bên đó". Tim đập thình thịch, tay chân run lẩy bẩy, ông kịp trấn tĩnh lại, lấy lý do chê cô gái xấu rồi bỏ đi. Ra ngoài, ông nhanh chóng gọi điện cho cơ quan chức năng Trung Quốc, bồn chồn chờ đợi, chỉ sợ chủ chứa phát hiện rồi đưa cô bé đi xa. Một lúc sau công an tới, triệt phá địa điểm mại dâm này. Bố con ông Thắng cùng 10 cô gái Việt khác được đưa về nhà ở Việt Nam.
Nhà vật lý học Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, tính toán hơn thua, thiệt hại mà hành động của con tim chỉ bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán, không sợ thiệt thân, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho ngưới mạnh yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi, không sờn lòng nãn chí, không sợ mệt mõi tìm kiếm cho ra và cứu đuọc người mình yêu. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng ngàn đồng để chiêu đãi mọi người bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất như bà kia. Vâng, Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay, không ngại hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng về đàn chiên duy nhất. Chính trong sự nhẫn nại, kiên trì, không tính toán của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được được con chiên lạc. Cho nên, bài đọc 1, sách Xuất Hành kể dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu mạng sống, đáng lý ra phải vâng nghe theo Chúa dạy, đàng này phản bội, nỗi loạn, phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa. Nhưng, qua Môsê, Chúa không những thương không giáng phạt mà còn ban cho con đàng cháu đống và đất tràn trề sữa và mật ong như lời Chúa hứa. Còn trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Kitô đã đến thế gian đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi tìm đến nỗi phải chết và sống lại để cứu lấy những kẻ tội lỗi trong đó có Phaolô. Nên Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô thì được cứu và được sống muôn đời.
Tình yêu Chúa dành cho chúng ta là thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu ấy không? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không! Vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh đâu mà yêu người vô vị lợi, khiên nhẫn tìm kiếm hạnh phúc cho người mình yêu như Chúa được. Nhưng, nói đi thì phải nói lại rằng các Thánh cũng là con người nhưng biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa: Đức Mẹ, Thánh Giuse, thánh Phêrô, Thánh Phaolô hay Thánh Nữ Têrêxa Calcutta… Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh lợi thú, chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa, vì sợ mọi thứ mà chúng ta không hy sinh đi tìm kiếm hạnh phúc cho người lầm được lạc lối. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại mọi người. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề còn Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương cả ngàn đời.
Tình yêu Thiên Chúa hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Thiên Chúa không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn và trở nên vị vua thánh vĩ đại.
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nỗi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì Thiên Chúa đã phán: “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày như Lời Chúa nói: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” ,
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh chị em xung quanh chúng ta. Amen.
33.Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: - người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất. – Và người cha nhân hậu đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội dung khác nhau nhưng đều quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân Ước chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng như Tân ước cho ta thấy: Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi trở về, bằng sự ngăm đe, bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ ưu ái, những phép lạ vĩ đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy linh, bằng sai các vị tiên tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài xuống trần gian chịu chết trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa không quản ngại hy sinh thời giờ sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ, tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho người Biệt phái bất bình, phản đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc nhưng là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi người có tội trở về mà Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi như người cha hằng ngày ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh Augustinô nói: Biết bao kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn khoe khoang về những tội ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa, chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa thì lại đưa chúng con tới lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc mắc vì thấy người nọ người kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi, để nó làm khổ người khác, làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy vì không hiểu lòng Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư không ai chịu nổi muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn chịu đựng chỉ vì nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng giá Máu cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, mời chị em bạn bè đến chia vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt hủi đánh đập nó vì đã làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để 99 con khác ở một nơi. Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm nó lên ngực, vác nó trên vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình. Cũng thế, người bố trong gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không hề xua đuổi trách mắng vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản, ăn chơi truỵ lạc, bôi nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà trái lại, khi nó ở đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật lâu, ông cũng không cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc cho nó, lấy nhẫn đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có ông bố nào đối xử với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ ngôn đón nhận đứa con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở về. Thật âu yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu không tỏ ra thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội, dù tội ta nhiều và nặng đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng tha cho ta như người cha trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải thành khẩn và khiêm tốn nhìn nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi, người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng, nhưng tự so không thấy, lại phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng không thấy lại phải đói khổ cùng cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên Chúa rơi vào ách nô lệ của tà thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn khó đời này và nhất là đời sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi sự dữ. Người con phung phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con đó, ta cũng quyết tâm từ bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về cùng cha tôi”.
34.Tin Mừng của Lòng Thương Xót Chúa
Chúng ta biết mỗi năm Phụng vụ C, Giáo hội sẽ cho con cái mình đọc và suy niệm Tin mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca. Tin Mừng theo thánh Luca được gọi là Tin mừng của lòng thương xót. Điều ấy được thể hiện rõ nét nhất nơi những dụ ngôn chúng ta sẽ đọc và suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.
Lòng thương xót của Thiên Chúa là tấm lòng của Đấng hạ mình xuống để nâng con người lên. Nhờ lòng thương xót ấy, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Lòng thương xót của của Đấng đến tìm và cứu chữa những gì hư mất. Và lòng thương xót ấy được thể hiện nơi hình ảnh người chủ chiên, người phụ nữ bị mất tiền và người cha nhân hậu.
Trước hết là thái độ lạ thường của người chủ chiên với những con chiên bị lạc mất. Ông ta sẵn sàng "để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất". Lạ hơn, khi tìm được ông "mừng rỡ vác lên vai" và "về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi". Dầu vậy, thái độ này sẽ không lạ gì với một người chủ chăn thật sự gắn bó với những con vật nuôi của mình. Họ sẽ để ý và chăm sóc đặc biệt hơn với những con bệnh tật. Một người mẹ thương con thật sự cũng sẽ quan tâm nhiều hơn cho những đúa con chịu nhiều thiệt thòi hơn. Cũng vậy và hơn thế, lòng thương xót của Thiên Chúa không cho Người đành lòng bỏ đi một con người bị mất đi trong tội lỗi.
Kế đến là thái độ lạ thường của người phụ nữ có mười quan tiền. Một hôm chị lỡ đánh mất một trong mười quan ấy, chị ta "thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được". Theo cái nhìn thông thường, chúng ta sẽ nghĩ chỉ mất một quan thôi thì bỏ đi tội gì kiếm chi cho mệt. Tuy nhiên, ông bà thường nói "Đồng tiền dính liền khúc ruột". Do đó, nếu lỡ mất đi dù chỉ số nhỏ chúng ta cũng cảm thấy đau lòng. Sự đau lòng ấy càng dữ dội hơn, khi chính những đồng tiền ấy do chính mồ hôi nước mắt của mình tạo nên. Nhìn như thế chúng ta sẽ dể hiểu hơn tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta. Thiên Chúa có thể vui được khi thấy một trong những đứa con của mình bị hư mất chăng? Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đau lòng hơn nhiều khi thấy chúng ta đang đắm chìm trong tội lỗi và sự chết. Chính sự đau lòng ấy sẽ thôi thúc Người đi tìm và cứu chữa chúng ta cho bằng được.
Sau cùng, hình ảnh người cha nhân hậu có lẽ sẽ đánh động ta nhiều hơn. Một đứa con hư hỏng cố ý chối bỏ tình thương của cha. Vì nghĩ rằng tiền bạc, lạc thú trọng hơn cha nên nó đã sẵn sàng coi ông như đã chết (đòi chia gia tài) mặc dù ông vẫn còn sống đó. Đến nỗi, lúc quyết định trở về chỉ vì cái bụng của nó (đang chết đói). Nhưng cha nó chẳng để tâm đến những điều đó. Ngày đêm ông trông ngóng nó trở về. Từ đàng xa thấy nó trở về, ông đã "chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để" và bảo các đầy tớ " Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng". Ông hoàn toàn không ngó ngàng gì đến quá khứ của con mình. Bấy giờ ông chỉ còn biết con mình thật sự trở về. Những cử chỉ đón tiếp ấy cho thấy ông đã nhanh chóng phục hồi địa vị mà con ông đã làm mất trước kia.
Như thế, những hình ảnh trên của lòng thương xót Chúa chắc chắn ít nhiều gì cũng đánh động và đáng cho ta suy nghĩ nhiều. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi thấy chúng ta cố ý lìa xa tình thương của Người. Sự đau khổ ấy sẽ trở thành niềm vui lớn khi Người tìm được chúng ta trở về cũng như khi chúng ta biết quay trở về với tình thương của Người.
Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta cố gắng đừng gia tăng đau khổ cho Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta biết sớm trở về mỗi khi lỡ dại đi theo con đường tội lỗi.
35.Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi là ai: ông anh hay cậu em trong dụ ngôn?
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ ngôn thứ ba tường thuật về một nhân vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang đàng và coi anh như nhân vật chính của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng người cha nhân hậu mới là nhân vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới, và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn lừng danh này, ý của Đức Giêsu về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên Chúa nhân hậu và thứ tha, người con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận Tin Mừng, còn người con cả để chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu, đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường thì người anh tuân phục mới là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng trong nhà, không khi nào dám làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không có gì đáng trách… anh đáng được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt mọi người xung quanh, anh thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi người. Ai có thể đòi hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật đáng cho mọi người khinh khi. Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời trác táng, sống mất nhân phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài nào của cha. Như thế cậu em này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu thế soi chung. Nói trắng ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu cho thấy có một yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc đáo đặc trưng nhất của Tin Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của Cha. Cho dầu có hội đủ tất cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn còn thiếu một điều gì đó để biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của anh trở nên hạnh phúc. Còn cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được luân thường đạo lý cho là cao đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực sự làm cho mối tương quan giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận ra lòng nhân ái của cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này một điều gì quan trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh là hình ảnh của nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu em mới là hiện thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ. Hình như chính tôi và nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để xây dựng cho mình, và cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh hơn là cậu em. Chúng ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống trung thành với luật Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để vào Nước Thiên Chúa hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng nhân ái cứu độ của Cha trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được Chúa thưởng công cho sự công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn cho lòng từ bi nhân ái của Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng ta còn cảm thấy ganh tị khi nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái đối xử ngang bằng với mình hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời dâng hiến và phục vụ trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh – lẽ ra phải được Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định được điều gì là độc đáo đặc trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục, tu sĩ) nên có thể đã đặt cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường nhắc nhở cho giáo dân: phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa vào tiêu chuẩn đó mà đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi đang biến mình thành con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ là thay tên gọi Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so sánh vai diễn của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu mình đã lãng quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ chăm chú vun quén một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín sâu hơn nữa câu khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng, nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh. Đừng dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân Ước của Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con trong một vài chi tiết tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác tận căn và chuyển bước dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang được sống trong nhà như ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa của cậu em khi đi bụi trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa Kitô để nhận ra Thiên Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục, nhưng trên hết là người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại này để được sống hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.
36.Thiên Chúa tìm kiếm con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng bỏ đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Quả thật trong dụ ngôn “con chiên đi lạc”, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào.
Và trong dụ ngôn “đồng tiền bị mất”, Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do Thái thường tối tăm, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác.
Rồi trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, Chúa Giêsu cho chúng ta tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta có tự do, Ngài cũng muốn đối xử với chúng ta như một con người có tự do. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua hình ảnh một người cha không muốn cứ khư khư giữ lấy đứa con, trái lại, ông đã chia gia tài cho nó, để nó được tự do xử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng cho dẫu người con có lên đường ra đi tạo lập một cuộc sống riêng thì người cha vẫn không ngừng theo dõi, chờ đợi đứa con.
Quả thế, đường về của người con chính là hành trình người cha đi tìm. Nếu người cha đã không mở đường cho con về, thì ngày về của người con sẽ chẳng bao giờ có. Nếu người cha không trông ngóng đợi chờ, thì bao giờ con mới hồi tâm, đứng dậy, lên đường. Đừng nghĩ người con đã tự mình về nhà, không đâu! vì thiếu tình cha, người con sẽ không nhận ra phương hướng của đường về.
- Không có “đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ” của người cha, người con sẽ không thấy rõ đường về.
- Không có vòng tay ấm áp của người cha, người con sẽ không dám trở về, vì nghi ngờ, sợ hãi.
- Không có sự quảng đại của trái tim người cha, người con sẽ đứng mãi ở đầu ngõ, không dám bước vào nhà, vì mặc cảm bất xứng.
- Không có sự tha thứ của người cha thì đời con vẫn mãi là đời giang hồ, phiêu bạt.
- Không có sự hy vọng của người cha, người con sẽ mãi mãi sống trong tuyệt vọng.
- Và không có tình cha yêu thương, bao phủ, người con sẽ đời đời bất hạnh.
Như vậy cả ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đều muốn nói lên một điều quan trọng: chính Thiên Chúa luôn yêu thương chủ động đi tìm kiếm con người
Có câu chuyện về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết, người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Quả thế, chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người.
Câu chuyện kể rằng, có một người đạo đức nọ, khao khát tìm gặp Thiên Chúa, ông đi khắp nơi để thụ giáo với những bậc thánh hiền, ông vùi đầu vào những pho sách dầy cộm, nhưng vẫn không gặp được Chúa.
Một ngày nọ, ông đến một dòng sông, ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch cứ muốn rời xa mẹ. Còn vịt mẹ thì lúc nào cũng phải canh chừng hết con này đến con khác. Phải vất vả như vậy nhưng vịt mẹ không hề tỏ vẻ giận giữ hay gắt gỏng.
Nhìn hình ảnh đó, người đạo đức mỉm cười mãn nguyện. Ông chợt khám phá ra một sự thật “bấy lâu nay tôi đã đi tìm Thiên Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa lại đang đi tìm tôi”. Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con mình, Thiên Chúa cũng không ngừng đi tìm kiếm con người như vậy. Amen.
37.Mất và được - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chúa Nhật ngày 11.9.2016 năm nay, trùng vào dịp nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, tưởng niệm mười lăm năm biến cố khủng khiếp, làm chấn động và hoang mang cả thế giới, nhất là người Mỹ, xảy ra ngày 11.9.2001.
Đó là một ngày đầy nước mắt, kinh hoàng và sửng sốt đối với dân chúng nước này. Vì thế, nhân dịp này, dựa vào Lời Chúa Giêsu dạy, tôi muốn nói về những mất mát và sự tìm thấy.
Lời của Chúa dạy hôm nay là ba dụ ngôn: Người chủ tìm thấy con chiên lạc, Người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất, Người cha đón nhận đứa con hoang đàng trở về, mang cùng một ý nghĩa: MẤT MÁT và TÌM THẤY (Lc 15, 1-32).
Cái bị mất càng lớn, người đi tìm càng vất vả bao nhiêu, khi tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn bấy nhiêu. Ý nghĩa của sự mất mát và tìm thấy trong ba dụ ngôn, là lòng ca ngợi tình yêu lớn lao của Thiên Chúa đối với con người.
Nhất là mỗi khi con người phải sống trong tai ương, mất mát, đổ vỡ, tang tóc, chết chóc, chia lìa, hận thù, lo sợ, nghi nan và giết hại nhau…, là mỗi lần khuôn mặt của tình yêu ấy lại sáng ngời, làm dịu bớt nỗi thất vọng, thăng hoa niềm hy vọng.
Nhờ tình yêu của Thiên Chúa, chính trong mất mát, con người hiểu rằng, họ đã được tìm thấy.
Chính trong nỗi chết chóc của sự tàn bạo, họ lại nhận ra chiều kích thánh thiêng của sự sống.
Tôi muốn nói tới vụ khủng bố Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York gồm hai tòa nhà cao 110 tầng và Ngũ Giác đài ở Washington, bị ba chiếc máy bay lớn do không tặc khống chế đâm vào. Một chiếc khác cũng bị khống chế, rơi tại Pennsylvania dọc đường đến mục tiêu.
Người ta ước tính trên 3.000 nạn nhân thiệt mạng. Phải mất gần chín tháng mới dọn dẹp hết đống đổ nát gồm 1.600.000 tấn. 100 tỷ đôla bị mất trắng. 8.300.000 người thất nghiệp trên khắp nước Mỹ.
Ngoài ra, từ biến cố kinh hoàng ấy, người Mỹ và thế giới còn mất rất nhiều thứ quý báu khác:
- Mất cảm giác bảo đảm và an toàn, vì từ trước đến nay, khoa học thời nay vẫn tự hào, đặc biệt nước Mỹ rất tự hào: họ ổn định. Hơn nữa, người Mỹ còn có phần ngủ yên trong hãnh diện mình là quốc gia giàu có, quyền hành, sẽ chẳng ai dám thọc vào sự ổn định của mình. Nhưng mọi suy nghĩ ấy, giờ đây bị “lật đổ”.
- Con người khắp nơi cũng đánh mất sự bình an trong tâm hồn. Vì từ đó đến nay, không ngày nào, thế giới và nước Mỹ không sống trong nỗi lo và cảnh giác. Sống mà cứ phải lo lắng và cảnh giác từng ngày, làm sao có bình an!
- Lòng tin nơi người Mỹ cũng bị đánh cắp. Lòng tin vào con người, trên khắp thế giời, ngày càng vắng bóng. Nhìn bất cứ ai xa lạ, nhất là những người từ Trung Đông, những người xuất thân từ đạo Hồi, họ đều có thể đáng nghi ngờ. Thay vì bắt tay thân thiện, họ chấm ngay một dấu hỏi thật to trên khuôn mặt người lạ ấy. Anh ta là ai? Lương thiện hay bất lương?
- Cứ như thế, sự tấn công khủng bố sát hại hàng loạt đã và có thể sẽ xảy ra khắp nơi, quá nhiều, làm nhức nhối lương tâm từng người chúng ta. Sự tấn cống ấy, càng ngày càng cho thầy nước Mỹ và châu Âu là mục tiêu hàng đầu.
Từ vụ khủng bố 1.9.2001 đến nay, hai tiếng “khủng bố” luôn là nổi ám ảnh ghê gớm trong tâm trí từng người, trên khắp thế giới. Những gì mà loài người đã và vẫn mất mát thật là lớn lao. Những gì mà chúng ta phải và vẫn chịu đựng thật là đau đớn.
Nhưng những gì đã tìm thấy được cũng không phải ít. Đó chính là đức tin, tin nơi Thiên Chúa và tìm đến Thiên Chúa để được giải thoát nỗi u buồn.
Người ta kể rằng, sau ngày đại họa của năm 2001, rất nhiều người đến nhà thờ cầu nguyện. Các thánh lễ liên tục được tổ chức để tưởng nhớ người bị nạn và cầu bình an. Tất cả các thánh lễ ấy đều có rất đông người đến tham dự. Chính tổng thống Bush đã trích Thánh Vịnh 23 để trấn an dân chúng: “Lạy Chúa, dù bước đi trong thung lũng của sự chết, con không lo nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.
Nhưng chẳng phải chỉ có người Mỹ – là những người, nhờ nền văn minh rực rỡ của mình, đã góp phần không nhỏ làm cho lối sống tiêu thụ, tâm lý hưởng thụ lớn lên, từ đó phần nào lôi kéo đạo đức xã hội đi xuống – lại có dịp tiếp cận và lấy lại đức tin của mình, nhưng trong ngày ấy, họ còn nhận được biết bao nhiêu sự cảm thông và lời cầu nguyện mà khắp thế giới dành cho họ.
Cho đến hôm nay, mỗi lần ở đâu đó xảy ra những tấn công kinh hoàng như thế, cũng đều lôi kéo những con người, nhất là những nạn nhân còn sống sót trở về với lòng tin, trở về với Đấng giàu lòng xót thương.
Những gì tìm thấy được còn là niềm tương trợ lẫn nhau, sống gắn bó và thắt chặt tình đoàn kết. Tất cả những nơi bị đánh, đều tìm thấy những tấm lòng quả cảm và can đảm của biết bao nhiêu người liều mạng cứu lấy người khác.
Lính cứu hỏa và các nhân viên cảnh sát đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ giải cứu và cấp cứu nạn nhân là một điển hình. Trong số những người hy sinh vào ngày 11.9,2001, có cha Mychal Judge, một linh mục dòng Phanxicô, tuyên úy cho lính cứu hỏa tại thành phố New York.
Cũng như anh chị em mình, cha hiểu rất rõ, giữa cảnh điêu tàng, nếu đến gần, sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng cha vẫn đến làm tròn nghĩa vụ của mình. Tòa nhà kinh khủng ấy đã tàn nhẫn đè bẹp và vùi lấp cha Judge cùng mấy trăm lính cứu hỏa, trong khi cha đang cử hành bí tích Xức dầu và ban các phép lần sau hết cho họ.
Hóa ra, trong những lúc tối tăm của cuộc đời, người ta ngỡ rằng, mình đã mất, đã chẳng còn, đã tiêu tang, thì chính lúc ấy, ánh sáng của những cái được nơi những gì có thể tìm thấy, lại cứ lóe lên.
Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng, không ai sống lạc quan cho bằng những anh chị em tín hữu Kitô. Họ biết khôn ngoan trực diện với nỗi đau xé lòng đang diễn ra trước mắt, và lấy ánh mắt đức tin nhìn vào đó.
Đức tin dạy họ rằng, thập giá không dừng lại ở ngày thứ Sáu ảm đạm nhuộm đầy máu, tử nạn và ô nhục, nhưng thập giá đã bừng lên ánh sáng trường cửu, bừng lên sự sống không tàn không phai của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Với đức tin, nhìn vào sự tàn phá của tử thần, họ tìm thấy sự sống. Nhìn vào hận thù tưởng đã lên ngôi thống trị, họ tìm thấy lòng yêu thương. Nhìn vào nỗi bi đát ê chề của đổ nát, của mất mát, của tha hóa, họ tìm thấy niềm lạc quan tin tưởng. Nhìn vào nỗi hoang mang nghi ngờ của nhân loại, họ tìm thấy khuôn mặt dịu hiền, đầy yêu thương thông cảm và thứ tha của Thánh Giá Chúa Kitô.
Thiên Chúa không bao giờ vắng mặt. Con người không bao giờ mất Thiên Chúa. Bởi thế, cái mất vẫn còn đó trong nỗi đau cuộc đời, trong tội lỗi, trong sự tha hóa, và lòng hận thù lồng lộng như một con thú dữ, thì những gì tìm thấy được vẫn cao cả, vẫn sang trọng, vẫn vượt thắng.
Và Tình yêu vời vợi của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc, là sức mạnh lớn, giúp con người vượt qua, đó là điều mà các Kitô hữu tìm thấy được trong nỗi đau mất mát tột cùng.
Bạn ạ, Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta. Người là Đấng toàn năng, tự giới hạn quyền năng của mình, đứng ngoài tự do của chúng ta, để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do.
Lý do mạnh nhất, khiến ta đánh mất rất nhiều, là bởi ta lạm dụng tự do và lỗi phạm không ngừng. Chính vì có tự do, ta đánh mất chính mình, đánh mất Thiên Chúa, xa lìa tình yêu của Chúa, để trôi tuột khỏi cuộc đời mình bao nhiêu ơn lành mà Chúa hằng ban phát. Đánh mất là sự thật của mỗi con người đầy yếu đuối, hèn mọn.
Nhưng còn một sự thật khác vô cùng quan trọng, vì nhờ đó mà ta sống và lấy lại những gì đã mất. Sự thật ấy chính là Thiên Chúa đi tìm con người.
Người không đi tìm như tìm một cái gì có lợi cho Người. Người cũng không đi tìm như tìm một thứ sở hữu cho riêng mình. Sự tìm kiếm của Chúa là một sự tìm kiếm có lợi cho ta.
Đó là một sự tìm kiếm đầy hân hoan, vui mừng, tin tưởng. Đó là một sự tìm kiếm mà khi tìm thấy, vỡ òa vì một niềm vui trào dâng tột đỉnh. Bởi ta là con chiên thất lạc, là đồng bạc bị mất, đã lìa xa Chúa vì chọn cuộc đời này làm bạn, chọn tội lỗi làm chốn nương thân.
Một khi tìm thấy ta trong bóng đen tăm tối ấy, Thiên Chúa đã vui mừng đưa về, không phải dẫn đi, mà vác trên vai, như giữ lấy một của báu quý giá. Niềm vui ấy còn là một niềm vui nức nỡ, được diễn tả qua lời mời mọc bè bạn chia vui với mình, vì mới đưa về chốn hạnh phúc một kẻ vong thân.
Chưa dừng lại, Chúa Giêsu đã đẩy đến đỉnh điểm, để kết thúc nỗi vui mừng vì yêu ấy trên một cao trào đẹp khôn xiết: Tình yêu quá đỗi diệu hiền, nhưng rất mạnh mẽ của một người cha dành cho đứa con hư đốn của mình.
Dụ ngôn người cha nhân hậu đón nhận đứa con đi hoang trở về vì đói, chứ không phải vì nghĩ đến tình cha, cho ta bài học không thể có bài học nào lớn hơn, về lòng thương xót đến không thể tưởng tượng, không thể hiểu nổi mà Thiên Chúa dành cho ta.
Bài học ấy còn dạy ta rằng, vong thân trong tội, ta đánh mất tất cả: cả sự sống (biểu hiện qua sự đói khát của người con), cả nhân phẩm (biểu hiện qua nồi cám heo mà người con phải ăn cắp để nhét cho đầy bụng), cả tình yêu (người con bị ruồng rẩy, bị bỏ rơi), là những cái làm nên căn cội của cuộc đời con người.
Chỉ có trở về cùng Thiên Chúa, ta mới lấy lại tất cả những gì đã mất mà thôi. Chính người cha đã trả lại cho đứa con sự sống, nhân phảm và tình yêu (Lc 15, 22-32).
Ý thức Thiên Chúa luôn luôn yêu thương kiếm tìm, chúng ta đừng cứng đầu, nhưng hãy trở lại cùng Người.
Hãy đứng lên để quyết tâm đi tới. Hãy đứng lên để làm một chọn lựa mới: chọn lựa tách mình khỏi tội và đứng về phía tình yêu của Chúa.
Tội lỗi đã là điều đáng sợ khôn cùng. Nhưng chưa phải đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ta cứng đầu ở lỳ trong tội. Vì tự đánh mất chính mình đã là một nguy hiểm. Tự chôn mình chìm đắm trong sự mất mát ấy, là một nguy hiểm khó lường, một nỗi dại khờ không có gì có thể biện minh.
Vậy với tất cả những gì đã suy nghĩ, bắt đầu từ Lời Chúa đến tội ác khủng bố, sự mất mát và sự tìm thấy trong đời sống nhân loại, cũng như mất mát và tìm thấy đối với đời sống đức tin, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời cầu nguyện tha thiết của mình:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra ánh sáng của sự sống giữa chết chóc bạo tàn; ánh sáng của hy vọng giữa những tuyệt vọng; ánh sáng của sự tìm thấy giữa những mất mát và đổ nát; ánh sáng của tình yêu Chúa giữa những thù hận dối gian; ánh sáng của ơn cứu độ giữa bóng tối tội lỗi đang cuốn hút chúng con vong thân; ánh sáng của niềm tin giữa những lầm lạc, hụt hẫng.
Lạy Chúa, xin ban ơn bình an để nhân loại được hạnh phúc. Và xin ban cho tâm hồn chúng con hạnh phúc vì biết giữ mình thanh sạch, thánh thiện.
Xin cho chúng con bao dung để tha thứ; khiêm nhu để tránh kiêu căng; ôn hòa để nhường nhịn; yêu chuộng hòa bình để tâm hồn bình an.
38.Tìm về – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
(Trích dẫn từ ‘Suy Gẫm’ – Cánh Đồng Truyền Giáo)
TÌM VỀ CHÍNH MÌNH
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về gia đình - hay đại gia đình - là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: - “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.
Các tin khác
.: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam