Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 82
Tổng truy cập: 1366003
ÐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TIN MỪNG TRONG NGUYỆN ĐƯỜNG Ở NADARÉT
ÐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TIN MỪNG TRONG NGUYỆN ĐƯỜNG Ở NADARÉT
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trọng tâm của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng là đề tài chính của toàn thể Lời Chúa hôm nay: chúng ta thấy Ðức Giêsu đứng công bố Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét. Như vậy, câu chuyện Ezra đứng đọc luật pháp Môsê ở trước mặt con cái Israen như bài đọc I hôm nay kể lại, chỉ là hình ảnh báo trước việc Chúa Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Và như thế sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay như thư Côrintô kể, cũng chỉ là hiệu quả của việc công bố Tin Mừng này. Chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài đọc để hiểu rõ Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta những gì chung quanh việc công bố Tin Mừng.
1. Công bố Tin Mừng để triệu tập dân Chúa
Bài sách Nêhêmya đưa chúng ta trở về thời sau lưu đày trong lịch sử Israen, vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Ðức Giêsu giáng sinh... Nhà cầm quyền Ba Tư bấy giờ cho phép các dân bị trị được phục hồi các truyền thống của dân tộc mình. Con cái Israen được khuyến khích bỏ đất Babylon để trở về quên quán. Họ dựng lại đền thờ và tái thiết Giêrusalem. Công việc gặp nhiều khó khăn.
Trước hết phần lớn những người Do Thái làm ăn được ở đất khách, không muốn trở về. Những người yêu nước và tha thiết với quê cha đất tổ, muốn trở về nhưng lại ít phương tiện. Rồi về đến nơi, họ lại gặp thái độ thù địch của dân đã đến sinh sống tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Do đó việc trùng tu thánh điện tiến hành rất chậm. May có Ezra và Nêhêmya.
Hai người có uy tín với triều đình Ba Tư. Ezra là tư tế. Nhưng ở đất lưu đày không có nơi phụng thờ Giavê, ông đã chuyên khảo và suy niệm luật pháp Môsê. Ðang khi ấy Nêhêmya được giữ chức tiến rượu trong đền Vua, nhưng lòng vẫn hướng về Giêrusalem. Khi được tin công việc phục hưng xứ sở gặp nhiều khó khăn, ông đã xin phép hồi hương và được nhà vua phong làm Tổng đốc Giêrusalem. Nhờ sắc phong này ông đã giúp đồng bào xây dựng lại được tường thành để có thể sống yên ổn đối với dân đã đến lập cư tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Nhưng thành quách chỉ là giới hạn bên ngoài. Muốn củng cố tinh thần của đồng bào ông và xây dựng lại cộng đồng con cái Israen, cần phải có luật pháp. Và đây là phần đóng góp của Ezra.
Bài đọc I hôm nay giới thiệu ông trong vai trò luật sĩ hơn là tư tế. Và rõ ràng con cái Israen đã cử hành phụng vụ Lời Chúa chứ không phải là phụng vụ tế lễ.
Ðó là đặc điểm của Do Thái giáo sau lưu đày. Toàn dân tập họp lại đủ mọi thành phần già trẻ, trai gái. Và trăm người như một. Tất cả đều chăm chú nhìn vào thầy Ezra đang "kiệu" sách Luật lên đứng trên một bục gỗ cao, kê quay xuống quần chúng... chung quanh thầy có các phụ tế, tăng thêm vẻ trang trọng cho việc công bố Lời Chúa sắp cử hành. Thầy Ezra bắt đầu bằng mấy lời chúc tụng danh Chúa. Cộng đoàn sốt sắng đáp lại bằng những chữ "Amen, Amen", kèm theo lễ nghi phủ phục thờ lạy. Rồi Thầy Ezra bắt đầu đọc Lời Chúa trong sách Luật. Thầy đọc dễ dàng, trang trọng. Nhưng sách viết bằng chữ Hipri. Rất nhiều người trong dân chúng không hiểu thứ tiếng ấy một cách dễ dàng nữa. Ít ra họ cũng thấy có nhiều điều khó hiểu khiến Nêhêmya và các phụ tế phải giúp thầy Ezra giải nghĩa cho dân. Càng nghe con cái Israen càng bùi ngùi xót xa. Họ thấy Chúa thương dân đến như vậy mà cha ông họ đã không nghe tiếng Người. họ thấm thía những hình phạt mà Người đã buộc lòng phải gửi đến. Nước mắt họ trào ra... Cả Nêhêmya và Ezra phải vội vàng tuyên bố: Hôm nay là ngày thánh, không được khóc như vậy... Ðúng hơn phải biến những giọt lệ xót xa vì tội lỗi nên niềm tin và ơn Chúa cứu độ. Nên hãy ăn uống và chia phần cho mọi kẻ đang túng thiếu.
Rõ ràng buổi phụng vụ Lời Chúa theo sách Nêhêmya chúng ta vừa đọc có những nét rất gần với nghi thức công bố Lời Chúa trong các buổi phụng vụ của chúng ta ngày nay. Ðó là khởi nguyên để chúng ta hoàn thành. Chúng ta nhất định phải làm tốt hơn con cái Israen ngày xưa. Họ đã tập họp đầy đủ, các thành phần già trẻ, trai gái. Gia đình chúng ta có thể làm được như vậy chứ! Họ đã nghiêm chỉnh, chăm chú nhìn vào người đọc và lắng nghe Lời Chúa. Họ lại chẳng chịu để lời nào nghe mà không hiểu, nhưng đã đòi được giải thích. Chúng ta có làm như vậy không? Nhất là họ để cho Lời Chúa, lương tâm khiến họ có thái độ thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Chúng ta cũng cần biến việc đọc và nghe Lời Chúa nên như cơ hội để thực hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh hầu tìm thấy ơn cứu độ của Chúa trong việc đọc và nghe Lời sách thánh.
Ước gì Lời Chúa từ nay trở thành sức mạnh tập họp và thánh hóa gia đình chúng ta và giáo xứ chúng ta. Có như vậy chúng ta mới hơn được con cái Israen ngày xưa.
Tuy nhiên chúng ta phải dành cho việc công bố Lời Chúa trong nhà thờ một địa vị quan trọng hơn. Và cho được như thế chúng ta hãy xem bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét.
2. Dân Chúa hiểu Tin Mừng theo Ðức Giêsu
Chúng ta hãy tạm không nói đến những lời đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Ðó cũng là những lời mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi đây, chúng ta sẽ thấy rất ý nghĩa. Nhưng chúng ta hãy nhìn thẳng vào trọng tâm của bài Tin Mừng này.
Luca tóm tắt cho chúng ta thấy, Ðức Giêsu bấy giờ đầy Thánh Thần. Người ra khỏi sa mạc hẻo lánh sau 40 ngày đêm chay tịnh. Người trở về Galilê. Chắc chắn đi đến đâu Người cũng rao giảng Tin Mừng và chữa nhiều bệnh tật. Thế nên tiếng tăm Người đã đồn ra khắp nơi. Người ta đã nhiều lần hoan hô Người khi Người lên tiếng giảng dạy trong các hội đường. Vậy, Người đến Nadarét nơi Người sinh trưởng. Và theo tục lệ, người ta trao sách Thánh cho Người đọc... Người mở ra gặp trúng đoạn Isaia nói về người tôi tớ. Ðọc xong, Người gấp sách lại. Và trước mắt của trăm người như một đang hướng về Người. Người đã khởi sự giải thích Lời Chúa bằng những lời dễ dàng sau đây: "Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đọc, nay đang diễn ra".
Là vì người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã xức dầu Thánh Thần trong sách Isaia, không ai khác chính Người đang nói trước cử tọa trong nguyện đường ở Nadarét. Có lẽ khi viết những lời này, tác giả Isaia chỉ muốn chép quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa cử làm ngôn sứ cho Người. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Người đổ Thần Linh của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách các Vua I còn kể lại (19,16). Và sứ điệp mà họ phải tuyên bố chính là tin mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, tù đày, để mọi nơi như được hân hoan cử hành những năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước. Những lời Isaia ấy hợp cho mọi ơn gọi ngôn sứ. Nhưng chắc chắn phải được dành riêng để nói về Người Tôi Tớ Ðức Giavê, một nhân vật mầu nhiệm trong sách Isaia mà chắc chắn chính là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Quả thật, ai đã được xức dầu Thánh Thần rõ ràng và dồi dào phong phú như chính Người sau khi chịu phép rửa ở sông Hòa Giang? Và vị tiên tri nào đã giảng dạy mà gây được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi bỏ sa mạc trở về Galiêa? Nhiều bệnh nhân đã khỏi. Có những kẻ mù được trông thấy. Con người khó nghèo, tù đàuytrong cảnh lầm than không đang được giải thoát đó sao? Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan của những năm hồng ân đại xá. Ðức Giêsu thật có lý để tuyên bố: những lời tiên tri đang được thực hiện... và được thực hiện nhờ Người, do Người. Và người ta phải công nhận như vậy.
Có điều người ta chưa nhận ra đủ là Ðức Giêsu còn muốn đồng hóa mình với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà Isaia muốn nói đến trong đoạn tiên tri này. Người không phải chỉ là tiên tri nhưng còn hơn tiên tri. Người đến không phải để chỉ công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện ơn cứu độ. Bà con thân thuộc của Người ở Nadarét chưa nhận ra điều ấy và sẽ không chấp nhận như chúng ta sẽ thấy trong ngày Chúa nhật sau. Họ không bằng lòng khi vừa nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến vì trong thâm tâm, họ chỉ chờ được hưởng thụ những phép lạ mà Isaia đã loan báo và nghe rằng Người đã làm ở những nơi khác.
Luca viết đoạn Tin Mừng này không nhằm vào chúng ta đó sao? Lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô dường như chưa thật vững chắc vì âm thầm có lẽ chúng ta cũng đang tiếc xót việc người không làm nhiều phép lạ ở giữa chúng ta. Người đã làm ở đất thánh ngày xưa, cho những người thời bấy giờ. Còn ngày nay đối với chúng ta, dường như Người không làm gì cả nhưng chỉ đòi chúng ta tuyên xưng Người là Ðấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến...
Chính vì vậy Luca đã viết đoạn Tin Mừng này. Người viết cả quyển Tin Mừng thứ ba để, như trong lời mở đầu, chúng ta được am tường rằng giáo huấn chúng ta thụ lĩnh thực là đích xác. Và cho được như vậy Luca đã phải truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận rồi theo thứ tự đầu đuôi mà viết lại theo như các kẻ từ đầu đã được chứng kiến và phục vụ Lời Chúa đã truyền lại. Luca đã muốn cho tác phẩm của Người có giá trị đích xác để giúp chúng ta tin.
Nhưng thiết tưởng Người cũng đã làm gương để những ai muốn tin Chúa Giêsu Kitô cũng phải đào sâu giáo lý đã thụ lãnh. Không có sự truy tầm và suy niệm này, đức tin sẽ không chắc chắn và đích xác. Chúa Giêsu Kitô sẽ không rõ rệt ở trước mắt chúng ta. Người sẽ trở thành một nhân vật thuộc quá khứ hơn là hiện tại. Chúng ta sẽ thấy Người sống với dân Do Thái hơn là sống với chúng ta. Là vì chúng ta không thấy lời tiên tri đang thực hiện ở giữa chúng ta. Chúng ta đọc Kinh Thánh như những sự việc đã xảy ra mà đồng thời không thấy chúng diễn tả mầu nhiệm Ðức Kitô đang muốn ban ơn cứu độ cho mọi người. Nghĩa là không những chúng ta phải biết cử hành phụng vụ Lời Chúa như bài đọc I hôm nay đã cho chúng ta thấy. Nhưng chúng ta còn phải biết cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô để Lời Chúa trở nên bánh nuôi tinh thần nữa. Và chúng ta chỉ làm được công việc này nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh vì chỉ ở đây mới có phụng vụ Lời Chúa. Nhưng phải làm thế nào để có thể ở trong Hội Thánh?
3. Chúa Giêsu kết hợp chúng ta trong Hội Thánh
Bài thư Phaolô hôm nay viết về Hội Thánh một cách đơn sơ nhưng không kém phần sâu xa, và nhất là có giá trị rất thực tiễn. Tất cả chúng ta ở trong Chúa Giêsu như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Thế thì cũng như các chi thể của một thân thể không phủ nhận và từ chối nhau, thì chúng ta cũng phải chấp nhận và mật thiết kết hợp với nhau ở trong Chúa Giêsu. Các phận vụ ở trong Hội Thánh rất khác nhau, vì Người được ơn gọi làm tông đồ, kẻ được Chúa gọi làm tiên tri... nhưng đó là để ai theo phận nấy mà làm bộ phận cho thân thể. Không do một thân thể con người? Chẳng bao giờ mắt muốn mọi bộ phận khác trong con người phải như mình... vì như vậy chỉ có ngàn mắt mà không có thân thể.
Cũng thế muốn có thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô, mỗi người phải chấp nhận cho người khác đóng vai trò của họ và hơn nữa phải biết đau với bộ phận đau, vinh dự với bộ phận cinh dự. Nói cách khác, theo kiểu so sánh này, muốn thấy Chúa Giêsu Kitô còn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh để chúng ta được kết hợp với Người, ai ai cũng phải tôn trọng người khác và liên kết cộng tá với họ như các bộ phận trong một thân thể.
Hơn nữa, như lời Phaolô ám chỉ trong bài thư hôm nay mọi người phải chiếu cố hơn đến những bộ phận được coi như yếu hơn và không trang nhã mấy.
Ðó chẳng phải là thái độ và sứ mệnh của chính Ðức Kitô sao? Người được sai đến như người tôi tớ được xức dầu Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, kẻ tù đày... Bài Tin Mừng Luca đã cho chúng ta thấy rõ Người đến thực hiện mọi lời Tiên Tri. Người thật là vị được tuyển chọn để công bố lời cứu độ mà Ezra xưa chỉ là hình bóng xa xôi. Người còn tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh là thân thể có đầy đủ mọi bộ phận khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Chính khi kết hiệp với nhau mà các phần tử trong Hội Thánh thấy mình đang được thần trí của Chúa Giêsu Kitô làm cho sống động và mới thấy Người dang sống động trong Hội Thánh.
Thế nên chúng ta họp nhau lại để nghe Lời Chúa như con cái Israen xưa, thì chưa đủ. Chúng ta cùng nhau tham dự vào Mình Máu Chúa Giêsu để kết hợp với Người, như Người đã ở giữa cử tọa hội đường Nadarét xưa cũng chưa đủ. Nhận lãnh thần trí của Người rồi, chúng ta còn phải tôn trọng và muốn hợp tác với anh em, trong các công việc chung nữa, thì mới hiện đại hóa mầu nhiệm Chúa Giêsu đang cứu độ và cứu thế.
10.Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Họa lại Chúa Giêsu
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32.
Lúc đó có một người tên là Giêsu Kitô được coi như là tiên tri, có sức mạnh phi thường, cao lớn, vóc dáng thanh lịch điềm đạm, mái tóc phủ dài xuống đôi vai. Vàng trán ông cao, nghiêm nghị, đôi má không một vết nhăn, moi miệng cân đối hiền hòa, râu dài chẻ ra ở giữa, mắt tươi sáng dịu dàng. Theo nhiều học giả, bức chân dung này được mang về Vatican vào khoảng thế kỷ thứ 19.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tất cả thông tin về cuộc sống Chúa Giêsu, nhưng không thấy một chân dung nào của Người. Tại sao? Vì Thiên Chúa muốn chúng ta ý thức: Những việc Chúa Giêsu làm quan trọng hơn là những đường nét trong con người của Người.
*****
Mục đích và lý tưởng của Kitô hữu chúng ta là được nên đồng hành với Chúa Giêsu. Các tác giả sách Tin mừng không mô tả cho chúng ta biết Chúa Giêsu giống ai, vì ngoại diện của Người không quan trọng, không đáng chúng ta quan tâm. Điều quan trọng để chúng ta đồng hành với Người là thi hành việc Người làm. Người làm gì? Tin mừng hôm nay trả lời cho chúng ta:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho con người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Nét nổi bật nhất trong con người Chúa Giêsu là sự “cảm thông”. Người luôn tìm đến những kẻ bị xã hội và mọi người ruồng bỏ, Người đau khổ với niềm đau của con người. Người đến với những người mà không ai muốn đến. Người cứu giúp những kẻ bị gạt ra bên lề. Người là hiện thân của tình yêu. Giống Người là đi vào tình yêu của Người. Mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta là một đắp bồi cho dung mạo Chúa Giêsu. Cả cuộc sống bác ái của chúng ta là họa lại dung mạo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
2. Chúa Giêsu ra mắt đồng hương
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha… Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, các tổng thống Mỹ đua ra lời phát biểu đầu tiên. Bài phát biểu thường cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về những gì người ta chờ đợi nơi họ.
Tin mừng hôm nay cũng giống như một bài phát biểu. Chúa Giêsu được Chúa Cha chọn vào sứ vụ của Đấng Mêsia. Ngài bắt đầu sứ vụ bằng cách đứng giữa công chúng và nói cho ta biết điều ta chờ đơi nơi Ngài trong sứ mệnh cứu thế.
Điều gì làm tôi ngạc nhiên, ít là về những gì Chúa Giêsu đã nói trong sứ điệp khai mạc của Người? Tại sao?
“Tôi biết rõ con người, và tôi nói với các bạn rằng: Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người” (Napoléon Bonaparte) (Trích “Viễn tượng 2000”).
3. Tấm lòng vàng
Tại California bên Hoa Kỳ có một người ăn xin được nhiều người biết là ông En-đi-va-gát 70 tuổi. Ngày ngày ông đi nhặt những chiếc lông nhung. Ông không phải là kẻ ăn xin tầm thường, mà là người ăn xin triệu phú. Ông được trúng số độc đắc, thế là từ một người ăn xin nghèo khó nay trở thành triệu phú.
Nhưng ông không quên nguồn gốc của ông. Và vì đó mà ông rất thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Sở dĩ ông tiếp tục ăn xin là để gần gũi những người nghèo khổ bất hạnh để ông giúp đỡ. Tiền xin được ông đem giúp trẻ em nghèo được tiếp tục đến trường, các sinh viên theo đuổi việc học. Ngay lúc trúng số, ông đã biếu ngay 20 ngàn mỹ kim vào quỹ học bổng.
Ông là một triệu phú đích thực. Ông giàu không phải vì trúng số mà giàu vì tấm lòng vàng.
---------
Nét đẹp của câu chuyện trên đây là người triệu phú lại chấp nhận ăn xin cho người nghèo. Cũng như trong Tin mừng hôm nay, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong nghĩa là được phong vương lại được sai đi để chăm lo cho những người nghèo khó, tù đày, đui mù, bị áp bức…
Chính nét đẹp đó cũng đòi hỏi nơi người Kitô hữu chúng ta “đem Tin mừng cho người nghèo khó”.
Thế giới mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu tình thương.
Con người cần cơm bánh để sống, nhưng con người cũng cần tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống, vì ai sống trong tình yêu người ấy sống trong Thiên Chúa. (Trích “Tất cả là hồng ân”).
4. Vì hạnh phúc tha nhân
Truyện cổ Trung Hoa kể lại: Hai nước kia định giao chiến với nhau. Quân đội đôi bên đã đặt trong tình thế ứng chiến. Cả hai nước đều cho người đi trinh thám để tìm địa điểm tấn công thuận lợi nhất. Thế là chiến tranh xem ra không thể tránh.
Sau một thời gian quan sát kỹ lưỡng, đội trinh sát đôi bên đều về trình lên thượng cấp:
“Có một địa điểm nằm trên khu vực thuận lợi cho cuộc tấn công. Nhưng ngay tại địa điểm đó có một gia đình sinh sống, gồm hai vợ chồng và đàn con thơ đang sống đầm ấm hạnh phúc trong một mái nhà tranh xiêu vẹo. Chúng tôi đã tìm cách tiếp xúc với gia đình này. Họ là những người rất chân chất làm ăn và rất hiếu khách. Họ tha thiết được sống yên ổn trong mái chòi tranh nhỏ bé của họ. Nếu chúng ta tấn công vào đất địch, buộc lòng chúng ta phải tiêu hủy căn nhà của họ và sát hại chính họ nữa; như thế là chúng ta cướp mất hạnh phúc của họ. Chúng ta nghĩ rằng cuộc tấn công không thể diễn ra được”. Nghe xong báo cáo, bộ tổng tham mưu hai nước đều thấy hợp lý, nên chiến tranh đã không xảy ra.
*****
Chỉ vì hạnh phúc của một gia đình mà chiến tranh đã không diễn ra giữa hai nước. Nếu ai hành động vì hạnh phúc của người khác, nhất là những người bé nhỏ bất hạnh thì chiến tranh đã không xảy ra giữa người với người. Tận trong thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng người ta quên rằng: Hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết tạo hạnh phúc cho người khác.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến đem hạnh phúc cho ta, nhất là cho những “kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức!!!” Còn chúng ta, chúng ta có biết đem hạnh phúc niềm vui cho anh chị em chúng ta không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui Chúa ban cho đồng bào đồng loại chúng ta chăng? Hay chúng ta ích kỷ giữ riêng cho chúng ta?
Trong cái nhìn của đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không (free) của Chúa, tất cả những gì chúng ta làm được cho đến đức tin đều phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì nhận lãnh nhưng không (free) mà chúng ta cũng được mời gọi để trao ban nhưng không(free). Nếu chúng ta biết trao ban những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc, như Lời Người hứa; “Các con cho bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy, và đã dằn đã lắc…” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
5. Nghe bằng ba lỗ tai
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần tấn phong để loan báo Tin mừng cho chúng ta.
Chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng ba cách: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của tâm hồn.
Nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm trí là gì? Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho lời đó sống động như chúng ta đang nghe chính Chúa nói với chúng ta.
Thánh Inhatiô Loyola thường nghe Lời Chúa bằng cách này. Ngài nhắm mắt lại và tưởng tưởng như mình đang ở trong hội đường Do thái xưa nghe chính Chúa nói.
Lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim, và cố gắng áp dụng lời đó vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta như Charlic Pitts. Ông là chủ công ty xây dựng ở Toronto, Canađa. Ông càng làm ăn phát đạt thì cá nhân và gia đình ông càng bê bối sa đọa. Ông phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ ông đọc thấy: “Kẻ nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có ích lợi gì” (Lc.9,25). Ông ghi khắc lời đó vào trái tim và suy nghĩ xem phải áp dụng lời đó vào hoàn cảnh của ông thế nào.
Và nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm hồn là xin Chúa hướng dẫn phải làm gì theo Lời Chúa, như Charlie Pitts làm sau đây. Sau khi cầu nguyện, ông bàn luận với vợ con rồi bán công ty, lấy tiền mua một khách sạn, lợi tức của việc kinh doanh này ông dùng để giúp công cuộc truyền giáo.
Bởi thế, mỗi khi sắp nghe Linh mục đọc Tin mừng trong Thánh lễ, mỗi người Kitô hữu chúng ta làm dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực: làm dấu thánh giá trên trán có ý xin cho chúng ta hiểu được Lời Chúa; làm dấu thánh giá trên miệng để xin cho chúng ta biết nói Lời Chúa cho kẻ khác; làm dấu thánh giá trên ngực có ý xin Chúa cho chúng ta biết mến mộ Lời Chúa.
Như thế việc nghe Lời Chúa mới đem lại lợi ích cho chúng ta, gia đình chúng ta và tha nhân. (Theo “Sunday Homilies”).
Chúa Nhật 3 Thường Niên (Cha Phong, FB)
NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA
* LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
* CHIA SẺ:
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy ra, đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người; nhưng cũng có những sự kiện, biến cố xảy ra làm cho cả thế giới phải lo âu, sợ sệt.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, những người Hồi giáo cực đoan đã thành lập nên nhà nước Hồi giáo tự xưng tại vùng đất Irắc, từ đó, họ đặt ra những luật lệ khắc nghiệt, tàn độc, họ tiến hành các cuộc đánh bom liều chết, những vụ khủng bố kinh hoàng khắp nơi trên thế giới … làm cho tình hình thế giới trở nên rối ren, sự hận thù lên đến đỉnh điểm.
Ngày 13 tháng 3 năm 2013 Khi Đức Thánh Cha Phanxicô được chọn làm giáo hoàng của giáo hội hòan vũ, với một con người gốc Á Căn Đình, có lẽ thế giới đang còn tranh luận tại sao Đức Bênêdictô 16 lại từ chức. Do Chúa muốn, từ đó đến giờ Đức Phanxicô đã mang lại cho giáo hội nhiều điều thay đổi, nhiều luồng gió mới của Chúa Thánh Thần hoạt động. Năm vừa qua tháng 9 đã đến đất nước Hoa Kỳ, có bài tại Hội đồng liên hiệp quốc, tại thủ đô của hoa kỳ, và nhất là có sự khuyến khích cho các gia đình nhân đại hội gia đình thế giới tại Philadelphia. Nhưng tháng 11 vừa qua 2015, ngài đến Trung Phi thật như một phép lạ, vì an ninh không bảo đảm và ba quốc gia rất nghèo, chính ngài đã mở cửa năm thánh lòng thương xót Chúa tại đây cho toàn khối trung phi để Chúa Thương xót an ủi họ. Đây là sinh khí của Chúa Thánh Thần rất mạnh cho giáo hội chúng ta, trong thời đại này.
Cách đây hơn 2000 năm, một con người đã đem đến cho nhân loại sự bình an, tình yêu và hạnh phúc tràn ngập – đó là Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đến để cho con người được sống và sống đời đời. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người sự sống đời đời.
Chỉ có những ai tin vào Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tín thác vào Chúa Giêsu, những người đó mới được hưởng sự bình an và tình yêu viên mãn.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, con người chỉ nhận lãnh sự đau thương và chết chóc.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, chiến tranh, hận thù, khủng bố càng ngày càng gia tăng.
Chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mới xóa đi sự hận thù, chia rẽ, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi trên thế giới này.
* CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
11.Người nghèo của Chúa
"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó" (Lc 1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?
Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người.
Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.
Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức... họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.
Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói "loan Tin Mừng cho người nghèo khó" xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị "giam cầm" bởi một thứ "tù ngục" nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị "giam cầm" bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị "mù" một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: "mù" về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), "mù" trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), "mù" trong cách hành xử đối với nhau...Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ "mù quáng" trong những chọn lựa và hành động của con người! Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị "áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: "điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm". Đó lại không phải là mình đang bị "áp bức" bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!... Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.
Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là "người nghèo" của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: "Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa". Amen.
12.Đường nẻo Chúa - Thu Băng, CRM
Sau phép lạ ở tiệc cưới Cana, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp xóm. Ngài vào hội đường giảng dạy. Ngài đọc Thánh Kinh, gặp thấy đoạn sách: “Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó, ban bố thứ tha cho mọi kẻ giam cầm, người mù được chữa lành, người áp bức được tự do và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Lc.04:14-21).
Thánh Luca nhắc lại lời của ngôn sứ Isaia như nhắc đến đường lối hoạt động của Chúa, khác xa với đường lối hoạt động của chúng ta. Chúng ta chỉ đánh giá qua biểu tượng bên ngoài, chỉ dựa trên thế quyền (lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng), dựa trên danh giá (có thế mới bế nổi người), dựa trên giấu sang (Miệng nhà giầu có gang cò thép, nén bạc đâm toạc tờ giấy), và dựa trên kiến thức (có văn hóa cao). Còn đường lối của Chúa là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, khổ sở, đói khát…
Một Đavid bé con Chúa làm cho thắng nổi Goliat đồ sộ to lớn. Maria hè mọn Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Các môn đệ quê mùa dốt nát Chúa cho làm môn đệ giảng giải sự chân thật. Đường lối của người đời thì kiêu căng, kiêu ngạo, lên mặt, còn đường lối của Chúa thì khiêm hèn, đơn sơ, chất phác, đem hạnh phúc cho người khiêm tốn. Thánh Grêgoriô nói:
- Kiêu căng là dấu rõ ràng nhất của kẻ đã bị loại trừ, còn kẻ hèn yếu thì đặt niềm tin, cậy và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận tin mừng và được Chúa chúc phúc. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu có chỗ cho Chúa nữa.
Từ đó chúng ta suy ra: Người nào coi mình chỉ là số không, thì có đủ chỗ cho Đấng vô cùng, còn kẻ nào coi mình là vô cùng thì trước mặt Chúa họ chỉ là hư vô mà thôi.
Xưa có ông Trần Công, là người tốt, gặp ai cũng giúp, gặp việc gì cũng làm. Một hôm ông đến làng Hòa Đa, nơi đây đang bị hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, sông ngòi khô quêo không một giọt nước. Đi cả ngày, thấy khô cổ, ông vào làng kiếm nước, nhà nào cũng bỏ đi nơi khác. Ông trèo lên một ngọn núi cao, thấy xa xa một toán người cầm bình nước, ông gọi xin. Người kia nói:
- Làng chúng tôi bị hạn hán 6 tháng trời, dân làng bỏ đo nơi khác hết trọi Giá có người nào lên thỉnh thần mưa, nhắc khéo hộ chút thì tốt quá. Trần Công nói ngy:
- Tôi đây, chứ ai nữa. Rồi ông xấn xả đi liền, đi cả ngày chưa tới. Ông trèo lên đồi trọc, thấy bà già khòm lưng bị nhốt trong nhà kêu cứu:
- Cứu tôi với. Ông chạy đến thả tự do cho bà. Bà hỏi:
- Ông đi đâu đấy? Ông trả lời:
- Tôi đi tìm thần mưa giúp làng Hòa Đa, họ bị hạn hán lâu ngày rồi, xin thần mưa thương họ chút.
- Nhà Thần mưa còn xa lắm. Để tôi biếu ông cái này, nó có phép thần thông thu ngắn đoạn đường. Chỉ cần nói mình muốn đi đâu là đủ. Trần Công vui vẻ nhận tặng vật, cảm ơn, rồi bảo gậy:
- Hỡi gậy thần, hãy đưa ta tới xứ thần mưa. Tự nhiên ông thấy hoa mắt, cây nối, núi non chạy như bay về phía sau. Phút chốc ông thấy mình đến xứ Thần mư. Ông đến gọi cổng thì một người trương phi xuất hiện tự xưng là Thần mưa. Trần Công nói:
- Xin Thần mưa giáng phúc cho làng Hòa Đa, lâu quá rồi không có một giọt nước. Thần Mưa chỉ cho ông một con tuấn nã và một bình nước, rồi sai ông cỡi tuấn mã đi rảni nước xuống các làng ông muốn. Bỗng chốc, nước vẩy nước mưa lai láng cả mặt đất. Đến làng Hòa Đa Trần Công dội cả bình nước xuống, khiến thành bão lụt, trôi chảy cả nhà cữa, đất đai. Hôm sau ông từ giã ra về, cái gậy thần lại cuốn ông như lần trước. Đến làng Hòa Đa, nhà cửa, đất đai trôi sạch, khiến ông tiếc xót chép miệng than “Làm ơn nên oán”.
Đường lối của con người nghĩ là tốt, là hay nhưng đường lối Chúa thì khác. Chúa đã muốn phạt ai thì dù có tìm mọi cách để đem lại bình an cho họ, cũng sẽ bị Chúa trừng trị cách khác. Chi bằng lặng yên theo đàng nẻo Chúa thì hơn.
13.Sứ mạng của chúng ta đối với Lời Chúa?
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các người vừa nghe” (Lc 4,21). Vâng, đó chính là sứ mạng của Ngài. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã chu toàn trọn vẹn sứ mạng cao cả đó. Trước khi về trời, Ngài đã trao sứ mạng đó cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15. Vậy, chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng đó?
1. Đọc và suy gẫm Lời Chúa
Để loan báo về Đức Kitô thì trước hết phải biết về Ngài. Muốn biết về Đức Kitô một cách chính xác cần phải biết Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Để biết về Kinh Thánh, cần phải đọc Kinh Thánh dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Để hiểu ý nghĩa từng câu, từng đoạn trong Kinh Thánh cần phải liên kết nó với toàn bộ Kinh Thánh. Kinh Thánh là Lời Chúa. Lời Chúa là chính Chúa. Bởi vậy, cần phải đọc Kinh Thánh với một thái độ tôn kính và yêu mến. Chúng ta thường thấy ở phần cung thánh của nhiều thánh đường đã thiết kế hai nhà tạm: Một bên để Lời Chúa và bên kia là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể ngang hàng với nhau.
Trong bài đọc I, khi Esdras đọc Lời Chúa: Tất cả dân chúng đều lắng nghe ông đọc sách luật; tất cả đều đứng lên; toàn dân cảm động đến muốn khóc (x. Bài đọc I). Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca tường thuật lại: Chúa Giêsu đứng dậy đọc Sách Thánh. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống(x. Lc 4,20). Tất cả các cụm từ: Lắng nghe, đứng lên, cảm động, gấp sách lại…Là những thái độ thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa. Cũng vì để thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa, Giáo hội có thói quen đứng dậy khi đọc Lời Chúa, đặc biệt là đọc Tin Mừng. Sau bài Tin Mừng trong thánh lễ, các linh mục hôn kính Sách Thánh.
Để nhằm mục đích cho con cái được đọc và nghe Lời Chúa thường xuyên, trong các ngày thường quanh năm, ngoài bài Tin Mừng ra, Giáo hội sắp xếp các bài đọc trong thánh lễ thành năm chẵn, năm lẽ. Trong các ngày Chúa nhật, ngoài bài đọc I và II, Bài Tin Mừng được sắp xếp theo chu kỳ A,B,C. Ngoài ra, Giáo Hội còn đưa các bài đọc vào các Giờ Kinh Phụng Vụ. Giáo Hội còn khuyến khích các gia đình đọc Lời Chúa trong các giờ kinh tối sáng. Giáo hội còn mong muốn con cái của mình đọc một đoạn Lời Chúa: Trước các buổi sinh hoạt của các tổ liên gia hay trong các cuộc hội họp của hội đoàn, đặc biệt là tại các buổi chia sẻ Lời Chúa…Giáo Hội làm hết sức mình để mỗi người có thể tiếp xúc với Lời Chúa, đọc và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải dành nhiều thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa như Giáo Hội mong muốn.
2. Phổ biến Lời Chúa
Khi đã đọc và suy gẫm Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta còn cần phải tìm cách phổ biến Lời Chúa cho những người khác. Thánh Phaolô nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Đối tượng để chúng ta phổ biến Lời Chúa là hết thảy mọi người.
Trước hết, phải phổ biến Lời Chúa cho những người thân trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho nhau. Đặc biệt, cha mẹ có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho con cái. Nhiều cha mẹ thường đưa những kinh nghiệm rút ra từ các câu ca dao, tục ngữ để dạy con cái. Điều đó rất tốt. Nhưng sẽ tốt hơn, nếu cha mẹ biết vận dụng những câu Kinh Thánh, những câu chuyện được rút ta từ Kinh Thánh để dạy cho con cái mình. Để làm tốt điều đó, mỗi gia đình cần có ít nhất là một cuốn Kinh Thánh.
Thứ đến, chúng ta có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại câu Lời Chúa "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16,26a). Nhờ thế, Ngài đã thuyết phục được chàng trai trẻ là Phanxicô Xaviê từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để trở thành vị Tông đồ đem Tin Mừng cho người Á Đông. Theo gương Thánh Ignatiô, chúng ta có thể tặng cho bạn bè, tặng cho anh em lương dân, những người chúng ta gặp gỡ các câu Lời Chúa, sách Kinh Thánh. Và nếu có thể, hãy dạy giáo lý cho họ khi có cơ hội. Thánh Phanxicô viết cho Thánh Ignatiô từ Viễn Đông rằng: “Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho một kinh…Tôi đã bắt đầu dạy cho chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy cho chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng” (x. Bài đọc 2, Kinh Sách ngày 3/12).
Thứ ba, hãy phổ biến Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông đại chúng: Internet; sách báo... Hiện nay, hầu hết các Giáo Phận, các Dòng Tu và nhiều Giáo Xứ có trang Web riêng. Đa số các trang web đó đều phổ biến Lời Chúa và các bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Ngoài ra, trên các trang mạng xã hội, có rất nhiều cộng đoàn, cá nhân đăng tải các bài Lời Chúa, các câu Lời Chúa, các bài suy niệm…Thiết nghĩ, đó là cách phổ biến Lời Chúa rất hữu dụng. Đành rằng, phương tiện nào cũng có hai mặt: Mặt phải và mặt trái; mặt tốt và mặt xấu. Đừng vì mặt trái, mặt xấu mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội để phát huy mặt tốt. Trong mảnh ruộng đầy cỏ gú, cách tốt nhất để diệt chúng là trồng thế vào đó những cây giống tốt.
Ngoài ra, chúng ta có thể phổ biến Lời Chúa bằng nhiều cách khác nữa, tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta. Tôi thấy nhiều nhà thờ có chương trình hái lộc Thánh Lời Chúa trong đêm giao thừa hay trong ngày mùng một tết. Mỗi gia đình cử một đại diện lên hái lộc Lời Chúa, câu Lời Chúa hái được là châm ngôn sống của cả gia đình mình trong năm mới. Đó là cách làm rất có ý nghĩa.
3. Thực hành Lời Chúa
Sau khi đọc sách tiên tri Isaia(x. Is 61,1-2). Chúa Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (x.Lc 1,21). Chúa Giêsu không những tuyên bố mà Ngài còn thực hiện trọn vẹn lời tiên báo của tiên tri Isaia: Ngài đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng; giải thoát cho những kẻ bị giam cầm trong tội; trả tự do cho kẻ bị áp bức; chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền...Chúng ta cũng vậy, không chỉ đọc, suy gẫm và phổ biến Lời Chúa mà còn cần phải thực hành Lời Chúa, nghĩa là sống chứng nhân Tin Mừng. Đây là cách loan báo Tin Mừng có sức thuyết phục nhất. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”. Có nhiều cách sống chứng nhân Tin Mừng, nhưng thiết nghĩ cách tốt nhất là sống hiệp nhất yêu thương: Sự hiệp nhất yêu thương đó đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bài đọc II, Ngài nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12, 12-13). Đức Kitô là thân nho, mỗi thành phần trong Giáo hội là những cành nho. Cành nho phải liên kết với thân nho (x. Ga 15,1-8). Mặc dầu mỗi thành phần trong Giáo hội khác nhau về tiếng nói, màu da, chủng tộc… Nhưng đều là chi thể trong một thân thể là Đức Kitô. Vì vậy, cần phải liên kết với nhau, cần phải hiệp nhất yêu thương nhau. Hiệp nhất yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, trong các cộng đoàn và trong toàn thể Giáo Hội. Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất yêu thương khi tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44). Khi đạo Công Giáo mới du nhập vào nước ta, người ngoại giáo chưa biết gọi tên đạo chúng ta là gì, nhưng họ nhìn thấy các kitô hữu sống hiệp nhất yêu thương nhau nên họ gọi đạo chúng ta là đạo yêu thương. Cho nên, có thể nói “Yêu Thương” là tên gọi khác của đạo Công Giáo. Xin cho mọi người kitô hữu chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, như Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước khi về trời, Chúa đã trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng đó bằng cách siêng năng đọc, phổ biến và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
14.Lời tiên tri đã ứng nghiệm
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng. Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi. Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói: ”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm: ”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi” (Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Nhm 8,2-6.8-10.
Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa: ”Amen”.
Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa.
Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ: ”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8,10).
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,12-30.
Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu: “một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.
Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính:
- Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
- Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
- Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
+ Bài Tin Mừng: Lc 1,11-4 ; 4,14-21.
Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.
Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
I. SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU.
1. Đức Giêsu là ai?
Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.
Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn nhửng nhưng, hoặc bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
2. Quang cảnh làng Nazareth.
Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
3. Đức Giêsu giảng ở hội đường.
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4,18-19). Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động trong nhiệm kỳ mới. Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…” (Lc 4,14-21)
So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
4. Chương trình hành động của Ngài.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố: ”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.
Truyện: Xóa nợ.
Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá đền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ.
Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ôâng đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ôâng hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấùu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.
Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng: “Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ôâng ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”.
Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói: “Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Oâng ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Ông ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”.
Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA.
1. Sứ mạng của Giáo hội.
Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
2. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu.
a) Mỗi người được sai đi.
Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi” (Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn: “Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
b) Phải mộ mến Lời Chúa.
Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn. Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
Truyện: Chẳng nghe được gì hết.
Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.
Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào”? Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn… (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.
1. Sống đời chứng tá.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng: không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục:
“Hãy tin vào điều con đọc,
Hãy giảng điều con tin,
Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào theo một tác giả thế kỷ thứ ba:
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ…
Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
2. Sống đời yêu thương.
Đức Giêsu đã phán: “Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình? Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
Truyện: Bà có họ hàng với Chúa.
Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé:
- Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi:
- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời:
- Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
- Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
(Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4).
Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự vô cùng lớn lao cho con người sao?
3. Đời sống hiệp nhất.
Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô: “Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (Bài đọc 2).
Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam