Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1367395

AI KHÔNG CHỐNG ĐỐI TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA

AI KHÔNG CHỐNG ĐỐI TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA (*)- Chú giải của Noel Quession

Trên con đường đi Xêdarê – Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của “Con Người” cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:

– Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một “luật lệ” được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.

Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.

Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố” nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?

Gioan đã thấy một “người trừ quỷ” mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).

Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).

Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có “những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.

Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những “con quỷ” này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé… tất cả đều phải “khử trừ” sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.

Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo… hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến… Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.

Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.

Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên “kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người”. Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh “Quyền lực của Đức Kitô”. Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.

Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới “thấy được” của Giáo Hội hay sao?

Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?

Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:

“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió” (Ga 3,8).

Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài “nhóm” (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ “đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: “ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những “người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”.

Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài” nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu “các con đừng ngăn cản người ấy” đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.

Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa… Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là “những con người phổ quát”, “nhưng con người biết thông cảm những khác biệt” như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: “Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ” (GS 9,2).

Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. “Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn”. Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?

Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

‘Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước” lạ thường của người môn đệ: “Người ấy thuộc về Đức Kitô”. Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.

Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.

Sau những lời khuyên luận lý tích cực (“cho một chén nước”), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực (“không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã”). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.

Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.

Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- B

HUẤN DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU – Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

Những gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó (9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và 47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và 50 ăn khớp với nhau.

Lời giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan, một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận (c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25, 31-46).

Trong các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi “gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao giữa mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con… nếu chân con… nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c. 43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).

Các lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế, điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người. Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là “địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục khoét; thường xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng (Is 66,24).

Quang cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình yêu!

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- B

THẦN KHÍ HOÀN TOÀN TỰ DO TRONG HÀNH ĐỘNG (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B có chung một đề tài: “chia sẻ”.

Ds 11: 25-29

“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.

Gc 5: 1-6

Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.

Mc 9: 38-43, 45, 47-48

Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.

BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)

Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách nầy được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.

Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.

1/.Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):

Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên khôn ngoan nầy.

2/.Bản văn đặc sủng (Ds 11):

Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân nầy, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.

3/.Việc Tấn Phong:

Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức nầy nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục nầy lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.

“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn, nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa, và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ nầy chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.

4/.Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài:

 Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được ân ban Thần Khí.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời nầy, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay lòng đổi dạ biết mấy.

Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2: 16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số nầy; bài học nầy được Tin Mừng hôm nay xác nhận.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.

Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”. Những lời nầy nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.

1/.Sự phù du của tài sản:

Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh nầy rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).

Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị rĩ sét”. Thật ra, vàng không bị rĩ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế, thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, tức là trong thời kỳ nầy, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.

2/.Người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chánh hay những thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).

Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nổi công phẩn trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương tiện sống của những người nghèo:

“Người túng nghèo còn chút bánh độ thân,

ai lấy đi là kẻ hút máu.

Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người;

đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).

3/.Thiên Chúa của những người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” nầy, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.

Câu kết thúc của đoạn văn nầy quả thật khó hiểu: “Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy, ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị người giàu áp bức, bốc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.

TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Trong bản văn Tin Mừng nầy, thánh Mác-cô quy tụ những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.

1/.Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô:

Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn nầy được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Tháí độ bất khoan dung nầy của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau nầy chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong Bài Đọc I.

Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người nầy nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công khai bày tỏ thái độ thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Những lời dạy nầy được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).

Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.

2/.Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động:

Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.

Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).

Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ nầy mà Do thái giáo không đóng khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn: “mến Chúa và yêu người”, của Đức Ki tô.

Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds 22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).

3/.Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình:

Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin nầy. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.

Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mỏng dòn, dể bị thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp nầy với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.

home Mục lục Lưu trữ