Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 30
Tổng truy cập: 1364488
AI THÂN CẬN VỚI TÔI?
Nguyệt san L’amour nổi tiếng bên Hoa Kỳ, trong số phát hành vào tháng mười hai trong mùa Giáng sinh năm 1991, đã đăng nổi bật câu chuyện người đàn bà mặc áo đỏ làm xôn xao dư luận. Lái xe qua cổng, thu tiền vé xa lộ, bà không ngần ngại trao một số tiền cho nhân viên thu lệ phí và nói: Tôi trả tiền luôn cho cả những xe đến sau tôi, cho đến khi trừ hết số tiền này. Thế là những người lái xe đi tiếp theo sau nhận được câu nói bất ngờ: “Có người đàn bà mặc áo đỏ vừa đi qua đã trả lệ phí cho quí vị rồi”.
Thế rồi không phải chỉ có một người đàn bà mặc áo đỏ, mà có thật nhiều người mặc áo đỏ thực hiện những cử chỉ tốt lành như vậy tại nhiều nơi, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, gây nên một cơn sốt mới, nhưng rồi cơn sốt qua đi, vì thật khó kiên trì trong điều tốt.
Hãy thực hiện những việc tốt, dù nhỏ hèn âm thầm không ai biết đến, nhưng chắc chắn việc làm tốt đó sẽ khơi dậy những chuỗi việc làm tốt khác nơi anh chị em xung quanh. Chuyện dụ ngôn kể về người Samaritanô được nhắc lại trong Phúc âm Chúa nhật XV mùa thường niên năm C đáng chúng ta suy nghĩ thêm. Không phải trí thức, cái biết làm nên người và làm cho người đồ đệ của Chúa được sống đời đời, nhưng là việc làm. Nhà luật sĩ biết rõ Kinh thánh và điều răn của Chúa, nên chính ông đã trả lời cho câu hỏi mà ông đã đặt ra cho Chúa Giêsu. Trong cái biết của ông có chút gì chưa trọn vẹn, chỉ cần Chúa chỉ điểm cho một chút là ông có thể trả lời đúng cho câu hỏi thứ hai hơi rắc rối một chút và khác với sự hiểu biết của ông về: “Ai là người lân cận của tôi?”.
Luật Môisen và truyền thống của người Do thái nói rõ ai là người lân cận và ai không, nghĩa là những người lân cận theo người Do thái có thứ bậc, trật tự và loại ra bên ngoài nhiều người. Chúa chỉ điểm cho nhà luật sĩ để ông ta khám phá ra sự thật, thay vì tìm hiểu xem ai là người lân cận thì hãy cố gắng biến chính mình để trở thành người lân cận của kẻ khác, như kẻ qua đàng trong dụ ngôn nhìn thấy người nửa sống nửa chết bên vệ đường thì không cần biết xem người đó có thuộc vào sổ những kẻ lân cận của mình hay không, nhưng tự bắt buộc mình, tự đặt mình làm người lân cận, làm kẻ phục vụ anh chị em để cho tình thương trong con người mình được thể hiện một cách cụ thể.
Đây là một thái độ sống hết sức mới mẻ. Cách hành xử của người đàn bà mặc áo đỏ phản ảnh phần nào thái độ Chúa muốn cho những người đồ đệ của Ngài thực hiện, nhưng tiếc thay người đàn bà mặc áo đỏ chỉ là một kiểu cách thời trang, mua vui qua lúc. Chúa muốn chúng ta kiên trì hơn, trung thành hơn, sẵn sàng để phục vụ anh chị em. Hãy biến mình trở thành người lân cận của anh chị em.
Lạy Chúa, xin mở mắt chúng con, cho chúng con nhìn thấy người anh chị em bên cạnh và biến đổi tâm hồn con có được chút tình yêu Chúa và thực hiện tình yêu đó cho anh chị em xung quanh. Amen.
59.Người Samaria nhân từ
Câu chuyện về người Samaria nhân từ làm cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra thường ngày.
Chẳng hạn một người bất ngờ bị trúng gió, hay bị một tai nạn nào đó, đang nằm quằn quại bên vệ đường. Kẻ qua người lại, xúm đến coi xem rồi bỏ đi và tặc lưỡi:
- Thật tội nghiệp.
Thế nhưng, chỉ có một người đã vội vã đi gọi xe cứu thương và đưa kẻ bất hạnh ấy vào bệnh viện. Thiên hạ hỏi xem anh ta có phải là bà con họ hàng với kẻ gặp nạn hay không, thì anh ta đã trả lời:
- Tôi không có họ hàng bà con chi cả. Thế nhưng, tôi chỉ biết việc cần phải làm ngay bây giờ là lo cấp cứu cho người ấy.
Vậy trong số những người chứng kiến, ai là người công giáo, ai là người đã sống tinh thần của Chúa hơn cả?
Tôi xin thưa đó là người đã vội vã đi gọi xe cứu thương.
Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường phố cũng như nơi khu xóm. Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ của chúng ta vẫn chỉ là thái độ thờ ơ và dửng dưng, thái độ của kẻ mũ ni che tai, hơi đâu mà để ý đến. Đó là chuyện bên tây, bên tàu chứ có phải là chuyện của mình đâu mà lo.
Tác phong của chúng ta vẫn chỉ là tác phong của kẻ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình, phe nhóm mình mà thôi. Và chúng ta cảm thấy được bình an thư thái, chẳng có tội lỗi chi cả, vì chúng ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù ghét, không cướp của, không giết người.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: yêu thương không chỉ dừng lại ở những tiếng “không” lạnh lùng ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh tiêu cực ấy, mà còn phải bước vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm gì cho những người mình thương mình mến chứ.
Khi đọc kinh cáo mình, chúng ta đã thú nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì? Tôi xin thưa chính là những điều chúng ta phải làm mà đã không làm.
Nghĩ xấu, nói hành, ăn trộm, giết người…đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế nhưng, không dạy bảo con cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người nghèo, không thăm viếng người đau yếu khi có thể… đó là những việc thiếu sót và cũng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú nhận trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.
Dưới một góc cạnh nào đó, chúng ta có thể định nghĩa người Kitô hữu không phải chỉ là những người có Đức Kitô trong tâm hồn, mang Đức Kitô trong cuộc sống, mà hơn thế nữa, người Kitô hữu còn phải là người nhìn nhận Đức Kitô trong mọi người, coi những vui mừng và những hy vọng, những buồn phiền và những lo lắng của người khác là của chính mình. Chia sẻ những đớn đau và những khát vọng của anh em mình. Coi những vấn đề của người khác là của chính mình và tìm cách giải quyết. Đó mới là yêu người như mình ta vậy.
Vì thế, đừng chỉ sống đạo theo luân lý cá nhân, nhằm cái lợi cho riêng mình, mà còn phải có ý thức xã hội, nhằm cái lợi cho người khác nữa.
Chẳng hạn khi mở máy truyền hình vào ban tối, thì cần nghĩ ngay đến người láng giềng đang cần sự yên tĩnh để nghỉ ngơi. Khi đổ rác thì đừng đổ xuống dòng sông vì phải nghĩ ngay đến phép vệ sinh công cộng. Khi rước kiệu, thì đừng giăng hàng chiếm trọn cả mặt đường khiến cho bao nhiêu xe cộ bị kẹt cứng. Trong lúc đi rước, họ lâm râm đọc kinh và hát xướng. Họ tưởng thế là làm sáng danh Chúa cũng như làm sáng danh mình mọi đàng, đang khi ở hai đầu dân tài xế, lơ xe và còn biết bao nhiêu hành khách đang lên tiếng chửi bới họ và rất có thể cũng đang chửi bới đạo.
Hãy biết tế nhị giúp đỡ những người chung quanh, đó là cách thức làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời, bằng không, danh hiệu Kitô hữu của chúng ta cũng sẽ bị mai một với những phiền toái do chính chúng ta gây ra.
60.Bác ái Kitô giáo - Bác ái kiểu mẫu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó: bác ái đổi chác, theo nghĩa "bánh ít đi, bánh qui lại"; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v... Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào?
Câu chuyện Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta biết bác ái Kitô giáo đúng nghĩa là gì. Theo trình thuật của thánh Luca, thì cả 3 nhân vật trong câu chuyện: người Samaria, thầy Tư Tế và thầy Lêvi đều trông thấy nạn nhân bên đường, nhưng chỉ có người Samaria biết "chạnh lòng thương". Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở mức độ "từ ánh mắt" (trông thấy) "đến trái tim" (chạnh lòng thương); mà còn "đến cả đôi tay", tức là bằng những hành động rất cụ thể.
Ông ta dừng lại, đến gần bên nạn nhân, cúi xuống, đổ dầu rượu (có lẽ ông đã dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho người bị nạn) và băng bó cẩn thận sau khi đã tẩy trùng cho vết thương, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa tới quán trọ mà săn sóc. Hơn thế nữa, ông còn ở lại với người bị nạn: "Hôm sau ông đưa ra hai quan tiền". Từ ngữ "hôm sau", mặc nhiên ta có thể hiểu ông đã ở lại với nạn nhân qua đêm để cho người đó qua khỏi cơn nguy kịch đã, rồi mới an lòng ra đi. Chưa hết, ông còn thanh toán mọi chi phí, và dặn dò cặn kẽ với người chủ quán: "Nhờ bác săn sóc người này, có tốn kém bao nhiêu, chính tôi sẽ chi trả khi trở về". "Chính tôi" sẽ chi trả chứ không phải vợ con anh ta, cha mẹ anh ta, cũng không phải nhà băng, hay dịch vụ bảo hiểm y tế. Lòng quảng đại của ông thật tuyệt vời! Ông đã không ngại hy sinh thời giờ, sức lực và cả tiền bạc. Nói cách khác, ông đã quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình.
Chính cung cách cư xử của người Samaria này đã làm nỗi bật lên đức ái hoàn hảo của Tin Mừng. Dụ ngôn cũng muốn ám chỉ cho ta thấy Đức Kitô đích thực là người Samaria nhân hậu đối với nhân loại chúng ta, khi Ngài đã sống trọn hảo đức bác ái đó của Tin Mừng. Ngài đã rời bỏ mọi vinh quang Thiên Quốc để đến trần gian. Ngài đã cúi xuống trên nhân loại khổ đau để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi và sự chết gây ra. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là Giáo hội của Ngài, để Giáo hội trông nom và chăm sóc hộ Ngài.
Và bây giờ đến lượt chúng ta cũng phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaria nhân lành bên cạnh tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ: chân tình giúp đỡ và băng bó các vết thương của họ. Vết thương của nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, cô đơn, chết chóc,... Con đường từ Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị để mặc trong tình trạng sống không ra sống, chết không ra chết. Họ đang là những nạn nhân của bạo lực, bất công, bệnh tật, chiến tranh hận thù... "Hãy đi và làm như vậy" luôn là một mệnh lệnh có tính cấp bách.
Chính vì thế, sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc chúng ta nỗ lực mỗi ngày làm một việc bác ái cụ thể trong môi trường mà mình đang sống: nơi thôn xóm, nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Hãy làm với một niềm tin tưởng rằng mỗi một cử chỉ bác ái mà ta làm cho tha nhân, dù nhỏ bé đến đâu, cũng đều góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và làm cho nền văn minh tình thương của nhân loại được thăng hoa.
Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng: "Không phải bất cứ ai cứ kêu lên: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, kẻ ấy mới được vào mà thôi" (Mt 7, 21 ). Ngài cũng đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tính sổ với ta về những hành động yêu thương, bác ái mà ta đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của ta (x. Mt 25).
Xin cho điều Chúa dạy, "hãy đi và làm như vậy" được mỗi người chúng ta ghi tâm khắc cốt và nỗ lực đem ra thực hành, để ta "được sự sống đời đời", sự sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi vuông tròn các huấn lệnh của Ngài. Amen.
61.Biên giới
Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói đủ, nói hết hay nghe đủ, nghe hết, mà còn phải nói nhiều và nghe nhiều nữa. Nhưng nghe nói hay hiểu biết luật yêu thương thôi thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động yêu thương thật sự. Bởi vì, nếu Kinh Thánh nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thì chúng ta có thể nói: tình thương không có việc làm là tình thương dỏm, tình thương đầu môi chót lưỡi, tình thương nước bọt, tình thương chết.
Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng khẳng định rõ ràng về yêu cầu đó. Chúa công nhận và khen người thông luật đã trả lời rất đúng luật và rất thuộc luật yêu thương. Nhưng còn thi hành thì sao? Có lẽ ông cũng đã thi hành, nhưng chưa thi hành đúng hoặc chưa thi hành đầy đủ khi ông hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?”. Chúa không trả lời mà đưa ra một câu chuyện để giải thích.
Qua câu chuyện này, chúng ta đều biết ai là người thân cận của người bị nạn. Đúng, người Samari chứ không phải hai người tư tế và Lêvi, vì người Samari đã biết thể hiện tình thương. Trong khi trên thực tế, hai người tư tế và Lêvi thật sự là người thân cận của người bị nạn, vì cùng là người Do thái, đồng hương, đồng chủng, đồng đạo với người bị nạn, nhưng vì không biết thể hiện tình thương nên không còn là người anh em hay thân cận gì nữa. Trái lại, người Samari có một mối thù truyền kiếp, không đội trời chung với người Do thái, đáng lý ra ông ta phải tránh né nạn nhân, vì không có liên hệ ràng buộc nào, không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo, không cùng nghề nghiệp, xứ sở. Nhưng ông ta đã trở nên anh em, trở nên người thân cận của nạn nhân chỉ vì tình thương. Tình thương xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách. Trước mắt ông, đó là một người cần tình thương để sống và ông đã ra tay cứu giúp.
Như vậy, giới luật yêu thương không những đòi hỏi việc làm cụ thể mà còn đòi hỏi phải thể hiện đối với mọi hạng người: bất cứ ai, bất kể quốc tịch, huyết thống, đảng phái, màu da, cho dù là kẻ thù, mà gặp khó khăn, đều kêu gọi chúng ta giúp đỡ, tỏ tình thương. Nói khác đi, luật yêu thương đòi hỏi bật tung hết mọi thứ ranh giới đã bóp nghẹt nghĩa cử yêu thương, bất cứ hình thức nào cũng phải bật tung hết, để tất cả mọi người đều đối xử với nhau trên một căn bản chung duy nhất là con người mà thôi.
Chúng ta thường có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: tốt và xấu, bạn và thù. Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán hận sâu sắc. Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc phân biệt đó: những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng: là anh em của nhau.
Là con cái Chúa, chúng ta phải có cái nhìn đó, chúng ta phải thể hiện tình yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Họ là anh em của chúng ta, họ là người thân cận của chúng ta. Có người ở ngay sát nhà chúng ta nhưng họ không cần được giúp đỡ, đó chưa phải là người thân cận. Trái lại, có một người đâu đâu xa lạ mà họ cần sự giúp đỡ của chúng ta, và chúng ta có khả năng giúp đỡ, họ chính là người thân cận của chúng ta.
Cách đây ít lâu có người đã đặt vấn đề như sau: những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu? Một cô hippy choai choai, một chị phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang? Câu hỏi này đã được một tạp chí giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số 1 thuộc tiểu bang Florida của Mỹ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một kịch sĩ 22 tuổi. Cô Sally lần lượt hoá trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe dọc đường và đang chờ đợi sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:
Đầu tiên với bộ y phục màu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ viên chức nhà nước, cô đứng bên cạnh chiếc xe hơi với cốp xe đã được nhấc lên, dấu hiệu xe cộ đang bị hư. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe hơi thứ 12 đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe là một thanh niên khoảng 30 tuổi.
Kế đến, với kiểu hoá trang thành một phụ nữ mang bầu, cô Sally đứng bên cạnh xe và lần này cô phải chờ đến hai phút rưỡi và phải chờ tới chiếc xe thứ 50 mới dừng lại. Chủ xe là một cặp vợ chồng.
Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô Sally phải chờ đến năm phút và phải chờ tới chiếc xe thứ 100, đó là xe của một đôi nam nữ sinh viên dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ.
Sau đó, trong y phục của một cô gái hippy choai choai, quần din bó sát và áo chim cò, thì kết quả thật là tồi tệ: không một ai chịu dừng xe lại giúp cô.
Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác trên người một chiếc áo mi ni bó sát người, cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Bài báo trên kết luận bằng câu hỏi: nếu bạn gặp một hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ tình nguyện giúp hạng người nào trong số năm loại phụ nữ nói trên để xứng đáng là một môn đệ của Chúa?
Hôm nay chúng ta cũng rất nên đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi”. Chúng ta cần tìm cho được ai là người Chúa muốn chúng ta giúp đỡ? Chúng ta cần soi mình vào tấm gương lời Chúa hôm nay xem chúng ta đã thể hiện đức ái phổ quát được tới đâu? Hay ngược lại, chúng ta đã vô tình hoặc cố ý dựng thêm những hàng rào bất công và vô lý để khép kín chính mình hay án ngữ người khác thể hiện tình yêu thương chăng?
62.Yêu thương
Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả?” Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai? Yêu với một thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.
Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: “Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy”.
Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm… từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.
Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người thân quen “cùng hội cùng thuyền”, cũng không chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân không?
Người Việt chúng ta có câu: “Thương người như thể thương thân”. Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả: “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu”. Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng tiền để lo cho người bị nạn.
Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.
Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời đời”. Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến với Thiên Chúa.
Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp và nói: “Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại đạo”. Và cha Cluny kết luận: “Thật tuyệt diệu! Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo”.
Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.
“Hãy đi và làm như vậy”. Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: “Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba”. Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.
63.Sự sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa đã ban luật cho người Do Thái qua Môsê; Thập giới là quà tặng rất đặc biệt của Thiên Chúa cho dân Người. Thập giới bảo vệ con người. Thập giới ngăn cản người ta xúc phạm con người: không cho người con bất hiếu xúc phạm cha mẹ sinh thành ra mình, không cho mình dùng thân xác người khác và ngay cả thân xác mình cho những thỏa mãn bất chính. Luật Thiên Chúa giúp con người sống hạnh phúc. Nếu một người không sống theo thập giới, người đó không thể hạnh phúc thực sự, vì người đó không triển nở và tự do thật sự.
Thập giới, là mười lời của Thiên Chúa. Lời Chúa không ở đâu xa. “Mệnh lệnh đó không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói: ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Dnl.30, 13-14). Luật Thiên Chúa, bảo vệ quyền căn bản của con người. Vi phạm thập giới, là vi phạm nhân quyền.
Mười điều răn của Thiên Chúa tóm lại trong hai điều: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc.10, 27; Dnl.6, 5; Lv.19, 18). Ai là người thân cận tôi? Ai là người tôi phải yêu thương? Dụ ngôn Đức Yêsu nói trả lời người thông luật, cho thấy những người cần tôi là những người thân cận của tôi, là những người cần tôi yêu thương. Tôi phải yêu thương tất cả những người cần tôi yêu thương và giúp đỡ. “Ai yêu thương, là ở trong Thiên Chúa; ai không yêu thương, là không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 8.16).
Đức Yêsu trước khi chịu khổ hình, Ngài đã nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34-35). Mỗi người phải yêu thương, không chỉ là yêu thương người khác như chính mình nữa, mà yêu thương tha nhân như Đức Yêsu đã yêu thương con người. Đức Yêsu là mẫu mực sống, Đức Yêsu đã yêu thương con người đến hiến mạng sống cho con người, và chúng ta được mời gọi sống yêu thương như Ngài.
Người thông luật trong tin mừng Luca không hỏi Đức Yêsu về lề luật, nhưng hỏi Ngài về sự sống đời đời: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Yêsu trả lời: “Trong luật viết gì?… Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.” Sống yêu Chúa yêu người, người ta sẽ được sự sống đời đời. Sự sống đời đời không chỉ hệ tại ở đời sau, nhưng còn ngay ở đời này nữa. Khi sống yêu thương, người ta sẽ được sống không chỉ ở đời sau nhưng ngay giây phút hiện tại này. Yêu thương, làm người ta hạnh phúc. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là sự sống.
Đức Yêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã trở nên một con người như mỗi người chúng ta. Ngài đã sống nghèo, nên nghèo không là mối họa, không là điều bất hạnh. Có bao nhiêu người giầu bất hạnh và muốn đi tìm cái chết. Điều làm con người hạnh phúc, không phải là tiền bạc. Đức Yêsu bị người ta hiểu lầm, bị người ta coi thường, nhưng Ngài vẫn an bình thanh thoát, vì Ngài không đặt việc được người ta coi trọng là một giá trị tuyệt đối. Ngài luôn sống thật với chính mình, vì Thiên Chúa là trên hết đối với Ngài, nên Ngài tự do với tất cả. Ngài chỉ tìm ý Thiên Chúa để thực thi, vì Ngài biết Thiên Chúa luôn muốn điều tốt cho Ngài.
Con người thường hiểu sai, cho rằng tiền bạc, danh vọng chức quyền, làm người ta hạnh phúc, nên người ta đã miệt mài đi tìm tiền bạc danh vọng chức quyền. Chính khi đi tìm những điều đó, người ta coi thường nhau, chà đạp lên nhau, tước đoạt quyền lợi của nhau, đôi khi hủy diệt cả mạng sống của nhau. Những điều này làm con người bất hạnh. Đức Yêsu tới như một giá trị, và cuộc sống của Ngài cũng là một giá trị vì nó là mẫu cho tất cả mọi người. Ngài dạy con người biết rằng nghèo là một mối phúc, sự bị coi thường và ngay cả sự xỉ nhục, cũng có thể giúp người ta nhận thức rõ hơn về chân tướng của mình, để rồi con người khiêm tốn, và được bình an. Đức Yêsu bình an thanh thoát trong mọi trường hợp, Ngài luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong hành động, trong khao khát.
Sống trên đời, thường gặp bao trái ý, thường phải đương đầu với bao cạnh tranh, chà đạp nhân phẩm, làm sao con người sống hạnh phúc? Đức Yêsu đã gặp tất cả những điều đó, Ngài đã sống tất cả những điều đó trong tâm tình khiêm tốn, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Ngài chỉ biết yêu thương, Ngài thương cảm trước nỗi khổ của con người, động lòng thương ngay cả khi con người phạm tội. Ngài sẵn sàng tha thứ cho tội nhân, Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Đức Yêsu có sự sống đời đời ngay trên dương thế này. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” Đức Yêsu là tình yêu và lời mời gọi của Thiên Chúa cho tất cả và từng người. Hãy bắt chước Đức Yêsu, hãy sống theo Đức Yêsu. Khi sống theo gương mẫu Đức Yêsu, người ta được bình an hạnh phúc từng ngày, và người ta sẽ được sự sống đời đời. Sự sống đời đời, hạnh phúc đời đời, đang được khởi đầu ngày hôm nay và ngay bây giờ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Luật Thiên Chúa, cụ thể là thập giới, bảo vệ con người hay làm con người trở nên nô lệ? Xin cho biết tại sao bạn suy nghĩ và có lập trường như vậy?
2. Bạn có ao ước sự sống đời đời không? Đây có là ao ước hàng đầu của bạn không? Tại sao?
3. Theo Đức Yêsu, làm gì thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp?
64.Sống Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Làm sao để được sống đời đời? Đây là câu hỏi nhiều người đã đặt ra và cố gắng tìm câu trả lời. Đức Yêsu cũng đã được người ta đặt cho câu hỏi này, và Ngài đã không chỉ trả lời bằng lời dạy nhưng còn bằng chính cuộc sống của Ngài.
Lời Chúa ngay nơi lòng con người
Thời xưa người ta cũng ao ước được biết Lời Chúa, vì người ta tin rằng Lời Chúa đem lại cho người ta hạnh phúc. Môsê đã nói với dân chúng: Lời Chúa không ở xa con người, không ở trên trời để người ta cho rằng mình không thể lên trời nên không biết được, Lời Chúa không ở bên kia biển để người ta cho rằng xa quá không ai có thể tới để học biết và trở về dạy cho họ, nhưng Lời Chúa ở ngay trong lòng mỗi người, ở nơi miệng con người. Điều quan trọng là thực hành Lời Chúa.
Vấn đề chính yếu không phải là biết, mà là sống Lời Chúa. Mười giới răn của Chúa tóm lại nơi hai điều: yêu Chúa yêu người. Nói cho cùng, luật Chúa tóm mọi nơi giới luật “tình yêu”. Yêu tất cả mọi người, yêu đặc biệt người cần đến mình giúp đỡ như người Samaria yêu thương và giúp đỡ người bị nạn. Có thể người tư tế, luật sĩ, biệt phái biết luật nhiều hơn người Samaria, nhưng họ không sống Lời Chúa.
Ai yêu thương, là biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga.4, 8.16). Cái biết ở đây không là “biết nói” giỏi về Thiên Chúa, nhưng là “biết thực” bằng cuộc sống. Không phải cứ là nhà thần học, không phải cứ rao giảng hay về Thiên Chúa, là những người biết sâu xa về Thiên Chúa; nếu một người nói giỏi về Thiên Chúa mà họ lại sống không yêu thương, thì họ không phải là người biết Thiên Chúa thật.
Tập sống Lời Chúa
Sống Lời Chúa, không dễ. Sống giới răn yêu thương, không dễ. Đức Yêsu nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau”. Không có dấu chỉ khác để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu. Dấu chỉ duy nhất để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu: “yêu thương”.
Yêu thương được biểu lộ qua nhiều khía cạnh của cuộc sống. Yêu thương bằng hành động: giúp đỡ; yêu thương bằng lời nói: dịu dàng, nâng đỡ, dứt khoát; yêu thương nơi tư tưởng: nghĩ đúng về người khác. Yêu thương được thể hiện bằng cả ánh mắt, bằng chính thái độ của cả con người. Tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu có sức biến đổi con người. Tình yêu làm cuộc sống tươi hơn, đẹp hơn, vui hơn. Yêu thương làm cho người khác và làm cho chính mình triển nở và hạnh phúc hơn.
Tập yêu mỗi ngày. Thất bại là mẹ thành công. Mình muốn sống yêu thương, mà dường như con người của mình không muốn tuân theo điều mình muốn. Tình yêu không chỉ hệ tại nơi cảm tính, nhưng chính yếu nơi lý trí và ý chí; và từ đó con người thể xác của chúng ta sẽ được biến đổi. Tập nhìn, tập trả lời ngay cả khi mình không muốn; tập cười, tập lại gần khi mình không thích. Xin Chúa giúp mình, và ý thức: tự sức mình, mình không thể sống yêu thương như Chúa muốn được. Mình cần Chúa để sống yêu thương, để vượt qua chính mình, để thuộc về Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Ai sống yêu thương, sẽ được thương yêu. Ai thấy mình không được thương yêu, hãy tự vấn xem mình đã yêu thương người khác chưa. Tập yêu, bằng cách tập chào hỏi trước, ngay cả chào hỏi người dưới mình trước. Tập cười khi họ chưa cười với mình.
Đức Yêsu- Đấng yêu thương
Đức Yêsu, Đấng đã yêu thương con người đến chết. Ngài mong rằng con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả tình yêu. Ngay khi Ngài sống, tuy dù có những người ghét và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương và được nhiều người yêu mến. Cho đến hôm nay, Ngài vẫn là người được nhiều người yêu mến. Sở dĩ vậy, vì Ngài chỉ biết yêu thương mà thôi.
Ngài không đòi người ta kính trọng Ngài, Ngài không đòi người ta yêu mến Ngài, Ngài không đòi người ta phục vụ Ngài, nhưng Ngài yêu mến con người, phục vụ con người, tìm cách giúp đỡ con người, cả tinh thần lẫn vật chất. Những người nghèo, những người tội lỗi, những người bị xã hội coi thường và ruồng bỏ, thì Ngài tới với họ, để yêu thương và kính trọng họ.
Thiên Chúa là tình yêu. Đức Yêsu đã yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có được nhiều người yêu thương không? Tại sao vậy?
2. Câu Lời Chúa nào quan trọng nhất đối với bạn? Tại sao?
3. Có người nói: đạo Công Giáo phải là đạo “tình yêu”. Bạn có đồng ý với người đó không? Tại sao?
65.Ai là người thân cận của tôi
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn An Khang)
"Ai là người thân cận của tôi?" Đó là câu hỏi của thầy thông luật đặt ra với Đức Giêsu. Để trả lời, Đức Giêsu đưa ra một câu chuyện, xảy ra trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.
Giêrusalem là thủ đô nước Do thái từ thời vua Đavít, cao hơn mặt biển 700m. Giêrikhô là một trong những thành phố cổ nhất thế giới, có từ khoảng năm 8000 trước công nguyên, thấp hơn mặt biển 250m. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô chỉ có một đường duy nhất dài khoảng 23 km, đi qua núi Cây Dầu là sa mạc, ngoằn ngoèo bên những tảng đá lớn, thường là nơi ẩn núp của những băng cướp. Hiện nay, còn lưu lại một lá thư viết từ năm 171 sau công nguyên, phàn nàn với nhà cầm quyền địa phương về tình trạng tội ác xảy ra dọc theo con đường đó. Có nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, các du khách đã phải nộp tiền cho lũ côn đồ địa phương tổ chức trấn lột, để được an thân khi đi qua con đường đó. Vì thế, chính con đường tai tiếng đó, đã cung cấp cho Đức Giêsu bối cảnh thực tế, để người nêu lên dụ ngôn người Samaria nhân hậu.
Chuyện xảy ra: Có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đức Giêsu không gán một nhãn mác tôn giáo hay xã hội nào cho người này, dầu có lý hiểu, đó là một người Dothái. Ông ta là người tốt hay xấu? Quan trọng hay không quan trọng? Những vấn đề đó không được nêu ra. Ông ta là một người bình thường. Tất cả chỉ có thế. Ông bị rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samaria đi qua. Đức Giêsu đặt cả ba vào trong một tình huống, phải chọn lựa một quyết định: Giúp hay không giúp người bị nạn kia, hoặc tiếp tục công việc riêng của mình? Họ không có lối thoát, cũng không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân cách này hay cách kia. Thầy tư tế và thầy lêvi quyết định bỏ qua mà đi. Còn người Samaria quyết định dừng lại, và giúp đỡ nạn nhân.
Thầy tư tế và thầy lêvi cho mình có lý không giúp nạn nhân, vì các thầy vừa thực hiện lễ nghi phụng tự trong đền thờ xong. Các thầy còn đang thanh sạch, trên đường đi xuống Giêrikhô trở về nhà (thành này là một trong các thành cho thầy tư tế và lêvi ở). Các thầy không thể để mình dơ, vì theo luật Maisen: "Ai chạm vào xác chết, vào máu, vào một người bị ám sát, sẽ mắc dơ trong bảy ngày" (Ds 19, 11-13). Để giữ mình thanh sạch, các thầy đã chọn giải pháp là không dây dưa vào nạn nhân. Tuy nhiên, các thầy đã không nhớ lời ngôn sứ Ôsê 6, 6: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn nghi lễ". Thiên Chúa không thích lễ lạy của các thầy, Người chờ đợi các thầy bên ngoài đường phố, lúc các thầy sẽ ra khỏi nơi tế lễ, các thầy sẽ gặp người thân cận. Hãy yêu thương! Phải, các thầy hãy yêu thương. Đó chính là sự thờ phượng thật.
Vả lại, xưa cũng như nay, tất cả những ai không giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, đều bị các tòa án kết tội. Thầy tư tế và lêvi mắc tội bỏ qua. Tội bỏ qua có thể là tội xấu xa nhất của con người, vì người ta cho rằng càng không dính dáng tới người khác, càng tốt cho mình. Thầy tư tế và lêvi là những người "vô can", khi đứng ngoài mà nhìn người khác gặp hoạn nạn. Việc đó đã nói lên tính cách của thầy tư tế và lêvi, họ là những người lấy mình là trung tâm, đã không mở lòng giúp đỡ người khác. Khi gặp vấn đề, họ đều đặt mình lên trước hết.
Người Samaria, trông thấy người bị nạn, ông cảm thông, thương xót và lập tức giúp đỡ người đó. Ông không lo ngại về điều phiền phức có thể xảy đến với bản thân. Ông cũng không lảng tránh, cho dù đó là một người Dothái. Thời đó, người Dothái và Samaria coi nhau như kẻ thù. Ở đây, ông chỉ thấy nạn nhân là một kẻ bất hạnh, một người như mình, nhưng lại không được như mình. Ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Ông đầy ắp tình người, đã săn sóc nạn nhân, sau đó đưa về quán trọ. Ông là người có nhân bản, đã trở thành người thân cận với nạn nhân.
Làm sao người Samaria có thể thực hiện được điều đó? Điều đó không thể đạt được trong ngày một ngày hai. Những việc lớn không thể hoàn thành được trong một tính cách bốc đồng, nó là kết quả của mỗi việc nhỏ liên kết với nhau. Phần thưởng đích thực cho một việc tốt, là nó tạo ra việc tốt tiếp theo dễ hơn, tốt hơn. Tính cách con người được tạo ra hay không, đều do mỗi hành vi nhỏ mọn thường ngày. Người Samaria có hành động nhân ái, tự phát đối với người bị nạn, rõ ràng lòng tốt của ông đã trở thành một thói quen, bản tính thứ hai của ông. Ông luôn luôn hướng về người khác, lấy người khác làm trung tâm.
Với câu hỏi thầy thông luật "Ai là người thân cận của tôi? Câu trả lời chung thời đó có lẽ là "người thân cận của ta là người thuộc bộ tộc của mình, hoặc thuộc nhóm giới của mình, hoặc cùng tôn giáo với mình". Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu lại là "người thân cận là bất kỳ người nào mà ta chọn để kết thân với họ. Vấn đề thật sự không phải là coi ai là thân cận của ta, nhưng là ta sẵn sàng đối xử như thân với ai?". Kết thúc cuộc đối thoại, Đức Giêsu bảo thầy thông luật: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy", nghĩa là như người Samaria.
Lạy Chúa, xin cho con phụng thờ Chúa trong đền thờ. Nhưng đừng quên phụng thờ Chúa trên đường phố nơi người anh em.
66.Tốt hơn là hãy tin!
Có hai người đàn ông đang chạy bộ ở ngoài bờ biển vào một buổi sáng. Họ bỗng ngừng lại bởi vì cả hai bắt gặp một cái đèn cổ đẹp đẽ bị chôn vùi trong cát một nửa. Một người đàn ông đã cấm lấy chiếc đèn và lau cho sạch cát. Bỗng dưng, từ trong chiếc đèn xuất hiện một ông thần. Ông thần nói, "Hai ông kia, các ông đã chà vào cái đèn thần này, tôi sẽ toại nguyện cho hai ông mỗi người một ước nguyện." Người đàn ông thứ nhất liền nói, "Tôi mong là người đàn ông thông minh nhất trên thế giới." Thần đáp, "Được, ước nguyện của ông sẽ được toại nguyện." Người đàn ông thứ hai nói, "Tôi mong là người thông minh hơn cả người thông minh nhất thế giới." Rồi thì người đàn ông thứ hai đã được hoá thành một người đàn bà.
Người ta thường nói, "Cuộc sống này đầy những điều ngạc nhiên." Hơn thế nữa, đó cũng là điều mà Phúc Âm thường nhắc đi nhắc lại: cuộc đời của Chúa Giêsu đầy những cái ngạc nhiên. Ngài đã xuất hiện trong một cái thế giới đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai theo nghĩa chính trị để giải thoát và làm cho dân tộc được vinh dự. Tuy nhiên, khi Ngài xuất hiện thì Ngài đã nói với họ rằng Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu đau khổ, giết chết. Thật là một điều ngạc nhiên!
Ngài đã xuất hiện trong một thời đại mà con người đầy những triết lý trả thù: mắt đền mắt, răng đền răng... nhưng Ngài lại dạy rằng, hãy đưa luôn má bên kia, hãy đi với người ta thêm một dặm nữa, hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho họ. Thật là một điều ngạc nhiên!
Một thầy thông luật đến và hỏi Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đoạt được cuộc sống vĩnh cửu?" Chúa Giêsu trả lời ông bằng cách đặt câu hỏi, "Điều gì đã viết trong sách Luật?" "Ngươi hãy yêu thương Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn ngươi... và người thân cận như chính mình," thầy thông luật trả lời Ngài. "Anh trả lời đúng, hãy làm điều đó và anh sẽ được sống," Chúa Giêsu trả lời anh. Tuy nhiên, người thông luật muốn làm cho Chúa Giêsu bị quê trước đám đông nên anh hỏi tiếp, "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chúa Giêsu trả lời anh bằng dụ ngôn người Samarita tốt lành...
Qua dụ ngôn đó, Chúa Giêsu muốn dạy cho thầy thông luật đó một bài học không nên hỏi câu, "Ai là người thân cận của tôi?" Ngược lại, phải hỏi rằng với ai mà tôi phải là người thân cận?" Câu trả lời là với những người đang cần đến tôi mà không kể chi đến thân phận của người đó cho dù là họ thấp kém hay là cao cả, cho dù họ thuộc về tôn giáo nào, cho dù là đến cả kẻ thù của ta nữa. Đọ là một điều ngạc nhiên!
Điều này làm cho nhiều người chúng ta không những phải ngạc nhiên nhưng còn giật mình nữa khi chúng ta phải đối diện với cuộc sống hiện tại.
Tôi phải hy sinh giúp cho kẻ thù của tôi, người mà tôi không ưa chút nào cả, người mà không có một chút gì gọi là biết điều cả? Thật là một điều không thể nào tin nổi!
Chúa Giêsu phán với chúng ta rằng: "Các con tốt hơn hết là hãy tin nếu các con muốn nhận biết ra được khả năng đầy đủ của các con. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn cảm nghiệm được sự sống hoàn hảo. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con chiếm được sự bình an trong tâm trí và tâm hồn. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn hưởng nếm được sự sống đời đời ở thế gian này."
Một cha xứ nọ ở nhà thờ Riverside Church tại thành phố New York kể một câu truyện như sau. Trong giáo xứ của ngài có một bà nọ rất ghét ngài. Bà ta đã đi kể tội ngài với nhiều người khác và lôi kéo họ vào hùa với bà.
Một ngày nọ, khi ngài phải đến nhà bà ấy. Ngài đã đi qua đi lại ở trước căn nhà của bà nhiều lần và mong rằng khi lên gõ cửa nhà bà thì bà sẽ không có ở nhà. Sau một hồi lấy hết can đảm, ngài đã đi lên và gõ cửa. Cho đến lần thứ ba cũng không có ai trả lời gì cả mà chỉ có một tiếng kêu nhẹ ở bên trong.
Sau đó, ngài đã quì xuống để nhìn qua lỗ khoá bởi vì ngài cho rằng hay là bà bị bệnh chăng. Ngạc nhiên thay, khi ngài nhìn qua lỗ khoá thì ngài nhìn thấy ánh mắt của bà kia. Người đàn bà đó nói, "Đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn nhau trong khi chúng ta phải quỳ xuống."
Cách đây hai ngàn năm, đã có nhiều người không thèm nhìn thẳng vào con mắt của Chúa Giêsu, và cho tới bây giờ cũng thế, họ không thể nào chấp nhận được giáo huấn của Ngài. Họ nghĩ là họ thông minh hơn Ngài. Đó chính là tội nguyên tổ lại tái phạm lần thứ hai.
Sự thù ghét, khinh khi, phân biệt chủng tộc... là những cái không được tồn tại trong tâm hồn chúng ta. Hãy làm hoà, yêu thương, nhân hậu với những kẻ thân cận của mình để chúng ta có thể đón nhận ơn bình an trong tâm trí và tâm hồn như chính Chúa Giêsu đã dạy. Các bạn hãy tin điều đó.
67.Đừng sợ! - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống tâm não con người. Có những nỗi sợ chính đáng. Nhưng cũng có những nỗi sợ chẳng chính đáng chút nào…
Hôm nay, kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô tâm cách đáng tội của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…” Tư tế là ai? Lêvi là ai? Những người đó tương đương những bậc “chân tu” của thời đại. Họ là tất cả Giám mục, linh mục của Chúa.
Tôi vẫn có thói quen tìm những lý lẽ để biện minh cho người bị “kết tội”, để dù có tội, tội của người ấy cũng sẽ được nhìn ở khía cạnh nhẹ nhất. Cứ coi như Chúa kết tội thái độ vô tâm của hàng giáo sĩ, thì tôi vẫn nhìn thấy bên trong sự vô tâm ấy là một nỗi sợ hãi. Tôi biện minh cho thái độ vô tâm ấy là do sợ hãi. Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ bị nhiễm ô uế. Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào xác chết, nhất là đụng chạm hoặc tiếp xúc người ngoại giáo, sẽ bị nhiễm ô uế. Tư tế và Lêvi chắc chắn thông suốt lề luật. Chính vì thế, họ hiểu rõ luật về nhiễm ô uế. Mà đã nhiễm ô uế, sẽ không được phép tham dự mọi nghi thức phụng vụ chung của cộng đoàn... Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết nữa. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua một bên mà đi”.
Ngày hôm nay, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như ai đó sợ không được xây nhà thờ chỉ vì cho phép phát tờ bướm bảo vệ sự sống. Tôi đã từng gặp vài anh chị em trong nhóm Bảo vệ sự sống ở Sài Gòn kể rằng, có những linh mục, khi được ngỏ lời để chỉ xin phát những “tờ rơi” quảng bá việc bảo vệ sự sống ở một góc nào đó thật khiêm tốn trong khuôn viên nhà thờ thôi, lại bị từ chối, thậm chí bị đuổi ngay lập tức. Lý do rất… vô lý rằng: “Sợ… không được xây nhà thờ”. Không lẽ việc xây nhà thờ lại quan trọng đến nỗi, công tác bảo vệ sự sống, là một trong những công tác hàng đầu, hơn thế, là nhiệm vụ thuộc thánh chức linh mục, lại phải nhường bước? Nỗi sợ nào chính đáng? Để nỗi sợ không đáng để sợ lên ngôi, trong trường hợp này, linh mục trở thành kẻ vô tâm hết sức, nếu không muốn nói là đã phạm tội.
Vì sao cấm phát tờ bướm nơi nhà thờ của mình lại phạm tội? Hội Thánh là Mẹ và là Thầy. Hơn nữa, Hội Thánh không hề sai lầm và sẽ không bao giờ sai lầm trong vấn đề bảo vệ luân lý, bảo vệ chân lý đức tin. Trong vai trò là Mẹ, là Thầy không thể sai lầm, Hội Thánh dạy nhiều lề luật luân lý và chân lý đức tin. Bảo vệ sự sống là luật luân lý hàng đầu, là vấn đề cấp bách, bởi đang gây sóng gió cho nền luân lý của Hội Thánh, làm nhức nhối lương tâm Hội Thánh, chúng ta không được phép làm ngơ. Hãy trung thành bảo vệ sự sống của mình cũng như của đồng loại. Không dám nói rằng, cấm phát tờ rơi là không bảo vệ sự sống. Vì nói như thế là hàm hồ. Người ta có thể bảo vệ sự sống bằng nhiều cách, chứ không phải chỉ phát tờ rơi. Có khi phát tờ rơi không hiệu quả bằng những sáng kiến khác để bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, nếu để len lỏi trong tâm hồn mình một sự sợ hãi đối với luật dân sự, đến nỗi xem nhẹ luật Hội Thánh là Mẹ và là Thầy không sai lầm của mình, thì chúng ta đã thật sự có lỗi. Tội là ở điểm này. Nếu đúng như thế, thì sự sợ hãi của ta hôm nay, có khác gì sự sợ hãi của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn của Chúa ngày xưa! Sợ một thứ luật thấp hèn để loại trừ luật cao trọng. Sợ một thứ luật của một nền thống trị để loại trừ luật nhân ái đối với con người. Sợ một thứ đụng chạm để loại trừ tình yêu. Sợ bị nghi kỵ mà làm thinh để cho việc giết người trở thành công khai, trở thành hợp thức hóa, được luật pháp không những cho phép mà hình như còn có vẻ khuyến khích. Sợ bị trả thù nơi thân xác mà sẵn sàng làm thinh và thỏa hiệp với tội lỗi. Sợ bị bắt bớ, bị kết tội mà làm thinh để chuốc lấy tội có sức hủy diệt tâm hồn mình… Cuối cùng, nặng hơn: sợ con người mà bỏ qua Thiên Chúa.
Đáng buồn hơn, người bị thế giới của sự sợ hãi giam hãm, thế giới của quyền lực tối tăm “bỏ tù” đến nỗi phải sợ hãi như thế, lại chính là linh mục của Chúa… Nghĩ lại mà hỗ thẹn, mà cảm thấy có lỗi với cha ông. Bởi chúng ta thua xa đức tin của cha ông chúng ta. Dù đức tin còn mới mẻ vô cùng vì mới được truyền giáo, nhưng suốt ba thế kỷ bắt đạo là ba thế kỷ hằn lên một niềm tin kiên vững, bất khuất, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi.
Cha Ông chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là một bằng chứng sống động cho lời Chúa Giêsu đã từng dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…” Cha Ông chúng ta đã chẳng sợ bất cứ điều gì. Các ngài bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi thế lực, dù những nguy hiểm, những thế lực ấy hung bạo đến đâu, tàn khốc đến đâu, dã man đến đâu đi nữa. Cha Ông chúng ta còn bất chấp cả sự chết, đã quyết một đời trung kiên theo Chúa, thì giây phút cuối cùng của mạng sống, sẽ hiến dâng trọn vẹn một đời cho Chúa. Cha Ông chúng ta đã trung thành cao rao danh Chúa không chỉ bằng lời, không chỉ bằng hành động, không chỉ bằng đời sống, nhưng bằng cả SỰ SỐNG của mình. Là người, như chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam, chắc không khỏi khiếp đãm trước cái chết, không khỏi sợ hãi trước những quyền lực thế gian đen tối, không khỏi sợ hãi trước những thói tàn nhẫn, bạo ngược... Nhưng vì lòng yêu mến Chúa, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bỏ lại nỗi sợ hãi phía sau mạng sống đời này của mình, để đi tới trong đời vĩnh cửu. Hiến dâng mạng sống vì lòng tin, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã đi đến tận cùng của lòng thần phục Thiên Chúa, “Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”
Hội Thánh của Chúa, Nước Chúa ở trần gian đã được trao lại cho mỗi Kitô hữu hôm nay gìn giữ và bảo vệ. Các Kitô hữu ấy chính là hàng hàng lớp lớp người đang nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của đời mình. Các Kitô hữu ấy chính là mọi tầng lớp giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân của Chúa. Nước Chúa mà các Kitô hữu ra sức gìn giữ là gia tài, là kho báu vô giá mà họ phải bất chấp tất cả nỗi sợ hãi để ra sức gìn giữ đến cùng. Đúng hơn, đứng trước gia tài vĩnh cửu là Nước Chúa, đứng trước vấn đề của đức tin, các Kitô hữu chỉ giữ lại cho mình một nỗi sợ cuối cùng mà thôi, đó là LÒNG KÍNH SỢ CHÚA, SỢ TỘI LỖI LÀM MẤT LÒNG CHÚA.
Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị cướp như người khách bị cướp hại trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Họ là những bào thai không phương thế tự vệ, là những trẻ em ngỗ nghịch, thất học, là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, đến một cụ già bị bỏ quên trên góc phố… Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt lên trên nỗi sợ hãi của bạo quyền thế gian, vượt lên trên nỗi sợ hãi đối với lòng người đen tối, để quyết đi đến cùng con đường cứu chuộc chúng con. Lẽ nào, hôm nay, chúng con vẫn chưa thuộc bài học Chúa dạy “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa, và nhìn những tấm gương vượt thoát sợ hãi nơi anh chị em mà đi đến cùng con đường theo Chúa, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi đe dọa chúng con.
Lạy Chúa, người Samaritanô nhân hậu đã cúi xuống, ôm lấy nỗi đau của anh em mình. Nhân loại hôm nay vẫn còn đầy đau thương và nước mắt. Nhân loại vẫn cay đắng cơ hàn, đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương. Xin cho chúng con, những kẻ được thừa hưởng tình yêu thương vô bờ của Chúa, biết vượt lên mọi nỗi sợ hãi của trần thế, chỉ sợ mất lòng Chúa mà thôi. Từ đó giúp con can đảm trở thành người Samaritanô hôm nay, để sống vì và sống cho sự sống của anh chị em chúng con. Amen.
68.Yêu và làm - Lm. Vũ Xuân Hạnh
“Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?”. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một lời hỏi thử Chúa Giêsu của một nhà thông luật, với một động từ chủ chốt cho chính lời hỏi ấy: “LÀM”. Cũng với động từ chủ chốt ấy, bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu trả lời xác định, và là một lời sai đi, một trách nhiệm cho một sứ mệnh của kẻ muốn sống đời đời: “Ông hãy đi và LÀM như vậy”.
“Làm” là một hoạt động không ngơi nghỉ, gắn kết với ta suốt cả đời. “Làm” có thể đưa ta đến đỉnh cao của danh vọng, của nhân phẩm. Nhưng cũng do “làm”, người ta có thể tự bán đứng chính mình như một thứ hàng xa xí phẩm cho những đổ vỡ lương tâm, cho bao nhiêu thất bại luân lý. Có khi người ta “làm” những điều tồi tệ không thể tưởng tượng, ngay cả thủ đoạn, nặng hơn, độc ác để mua lấy quyền cao chức cả, điều mà bên ngoài nhìn vào ai cũng cho rằng, họ là những người có địa vị, có giá trị cao, thực chất đó là những cọng rác thối không gì bằng. Chính vì vậy, “làm” có thể cho chúng ta cuộc sống đời đời. Nhưng cũng chính do “làm”, ta trở thành kẻ đáng lãnh án chết đời đời.
Vậy, “làm” để đạt sự sống đời đời là làm gì? Hay như một người đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Rất đơn giản, muốn sống đời đời, chỉ có mỗi một việc làm duy nhất: YÊU! Yêu Chúa và yêu người. Nói là đơn giản, nhưng để làm được những gì đã nói, là cả một khoảng cách rất lớn. Nhất là khoảng cách ấy thuộc về lãnh vực đức tin, lãnh vực của giáo huấn đến từ Thiên Chúa. Chỉ có một đời sống chìm trong đức tin mới có thể rút ngắn dần cả một khoảng cách lớn lao ấy. Chính trong ý nghĩa này mà thánh Augustinô mới dạy rằng: “Hãy yêu rồi làm”. Cũng chính vì phải yêu rồi hãy làm, chúng ta cần nhắc nhớ cho nhau rằng: Nếu phải làm, thì hãy làm trong tình yêu.
Yêu và Làm. Nói như thế vẫn chưa là cụ thể. Chúa Giêsu không dừng lại ở một giáo trình nào, dẫu lý thuyết mà Người dạy là điểm trọng tâm đi nữa. Người đã đưa ra một bằng chứng cụ thể để giải quyết thấu đáo cho vấn đề yêu - làm, vấn đề nền tảng của sự sống đời đời. Bài học cụ thể mà Chúa hướng dẫn là: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô...” (Lc 10, 30-37). Bài học ấy, câu chuyện người Samari nhân hậu ấy, là bằng chứng của tình yêu. Nếu hôm nay, bạn và tôi có được những nghĩa cử yêu thương như nghĩa cử lớn lao, thật cảm động của người Samari, bạn và tôi đã là người biết yêu và sống yêu: Yêu Chúa, yêu người. Vì yêu Chúa, đòi ta phải sống cho anh em. Và sống cho anh em là bằng chứng lòng ta yêu mến Chúa.
Sau khi đưa ví dụ về người Samari nhân hậu như một bằng chứng của lòng yêu thương, Chúa Giêsu kết luận bằng một lời ban mệnh lệnh: “Ông hãy đi và làm như vậy”. Có nghĩa là: “Ông hãy bắt chước người Samari nhân hậu sống đời sống bác ái yêu thương, để chính ông sẽ được sống đời đời”.
Nếu động từ “làm” ở câu đầu tiên, người thông luật đặt ra chỉ để hỏi thử Chúa Giêsu, “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”, thì ở câu cuối cùng, Chúa cũng trả lời bằng động từ “làm”: “Ông hãy đi và làm như vậy”, thì câu trả lời này, không chỉ là trả lời thật, nhưng còn là câu trả lời mở ra một sứ mạng cho những ai xưng mình là người Công giáo.
Nếu Chúa nhật tuần rồi, Giáo Hội cho chúng ta suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa chọn bảy mươi hai môn đệ và sai đi rao giảng Lời Chúa, thì sứ mạng sống và làm chứng cho Lời của Người, không thể không có đức bác ái, lòng mến yêu làm nền tảng. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe..., lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào... Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy, đức ái chính bằng chứng cho biết một người có sống Tin Mừng của Chúa hay không. Nói cách khác, nhìn từ một góc cạnh nào đó, chính đời sống bác ái là lời rao giảng Tin Mừng hùng hồn nhất, thu hút nhất. Vì rao giảng Lời Chúa, không phải là trao cho người thụ nhận một mớ kiến thức, nhưng là trao cho họ một bằng chứng sống. Nhưng có bằng chứng nào đẹp cho bằng chính đời sống chứng tá của người rao giảng!
Xin cho bạn và tôi là những người Samari của thời đại này, biết “yêu” và biết “làm”, để tất cả chúng ta trở nên dấu chỉ hữu hiệu cho Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Kitô. Vậy chúng ta cùng thành tâm dâng lên Chúa một lời nguyện, ai đó đã từng cầu nguyện thế này:
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim dược lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng, cần phải nối dòng tay lớn, xuyên qua các đại dương và lục địa, để vòng tay của người được nối với người. Sau hết, tất cả những vòng tay ấy nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam