Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 28
Tổng truy cập: 1376150
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Hai mẫu người
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng...
Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.
Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, "ông cầu nguyện nơi chính mình". Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.
Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội... tức là những người khác, những người bị ông coi thường.
Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?
Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.
Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: "Xin thương xót con." Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự "công chính" của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: "Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?" Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng...
Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.
Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.
Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?
Một kẽ hở cho Thiên Chúa
Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông "không như bao kẻ khác". Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.
Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.
Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.
Tại sao thế?
Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?
Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.
Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.
Cả hai đều cần
Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.
Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.
Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.
Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.
Lạy Chúa,
Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con,
Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con,
Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con,
ôi Chúa là Đấng dựng nên con.
Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối.
Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa.
Ôi Chúa là Đấng thương xót,
xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.
xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
...
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân,
trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ.
Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại.
theo Syméon le Nouveau Théologien.
47. Cầu nguyện
Đâu là sự khác biệt trong lời cầu nguyện của ông biệt phái và của anh thu thuế?
Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.
Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.
Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác... Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được là do bởi ơn Chúa ban. Tạ ơn thật sự là quay về với Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Như thế, ông biệt phái đã không thực tâm tạ ơn, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp, còn Thiên Chúa chỉ là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Ông không xin vì ông không thiếu và Chúa cũng sẽ không cho vì ông đã đầy ắp.
Trong khi đó, anh thu thuế, mặc dù lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra lại là một người nghèo trước mặt Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về tình trạng nhơ nhớp của mình, nên chỉ còn một lối thoát duy nhất là tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Và như vậy thật là oái oăm, chính sự đạo đức của ông biệt phái lại trở nên chướng ngại vật khiến ông không gặp được Chúa, không lãnh nhận được ơn huệ của Ngài, còn sự tội lỗi của anh thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở rộng cõi lòng để đón nhận Chúa và ơn tha thứ của Ngài.
48. Lời cầu nguyện khiêm nhường
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG XUYÊN QUA NHỮNG ĐÁM MÂY
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trong Phúc Âm theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về cầu nguyện. Đầu tiên chúng ta học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Cha trong lời kinh mà chúng ta gọi là “lời cầu nguyện của Chúa” hoặc đơn giản là “Kinh Lạy Cha”. Chúng ta học, chúng ta phải nhớ dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, chúng ta phải kiên trì với những lời nài xin dâng lên Thiên Chúa.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về chân lý, đã được tiên báo trong sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”. Thiên Chúa thương đến những lời cầu nguyện khiêm nhường, đó là một bài học bên trong của dụ ngôn có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Thiên Chúa không hài lòng với tất cả những lời cầu nguyện của người Pharisiêu kiêu căng. Thật sự, đó không phải là một lời cầu nguyện nhưng đó chỉ là một bản danh sách những lời tự ca tụng. Nhưng Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện của người thu thuế tội lỗi. lời cầu nguyện chân thành của ông đã được thương xót.
Chúa Giêsu lấy làm sung sướng khi chú ý đến việc chấp nhận người anh hùng của câu chuyện (hãy nhớ đến người Samaria nhân hậu đã giúp đỡ một người ngoại quốc bị nạn và trở thành một vị anh hùng trong dụ ngôn này). Mọi người khinh bỉ người thu thuế, đặc biệt dị ứng đối với người thu thuế và sở thu thuế. Nhưng người đàn ông này biết mình tội lỗi và đã cầu xin nơi Thiên Chúa sự xót thương.
Chúa Giêsu chọn người thu thuế oán ghét này để làm người anh hùng bởi vì Người muốn ám chỉ tới dụ ngôn là: “Những người đã tin vào sự công chính của họ trong lúc nhìn mọi người với cặp mắt khinh bỉ”. Người Pharisiêu trong dụ ngôn đã được giới thiệu như những người này, ông là một hình thức xấu nhất của cái tôi phiền phức. Ông ta có thể chỉ biết chính mình trong con đường thuận lợi.
Mặc dầu ông đã cảm tạ Thiên Chúa không làm cho ông giống như người đàn ông tội lỗi kia, ông là một kẻ giả hình. Điều ông ta nói chẳng có ý nghĩa gì. Thật sự ông chỉ thấy chính mình như là người đã tạo ra con người hoàn hảo mà không cần bất cứ ai, không cần ngay cả Thiên Chúa. Đó là sự sai lầm làm nền tảng, là tội nguyên tổ mà tổ tiên chúng ta đã nghĩ đến khi đặt chính mình thay thế Thiên Chúa. Cái tôi làm cho chúng ta giống như những chiếc xe hơi mà chúng ta gọi vô dụng. Chúng có những hiệu quả nghiêm trọng bởi vì chúng ta được chế tạo với những sai sót và số phận là lập lại những thất bại.
Người thu thuế thì không phải là một kẻ vô dụng, nhưng ông ta giống như một chiếc xe hơi đã chịu đựng những tay lái không cẩn thận và không biết bảo quản xe. Chỉ có một quyết định duy nhất là mang xe hơi trở lại cho người buôn bán để họ tân trang lại. Người thu thuế đã làm một chọn lựa đúng, ông ta đã đi tới với người công chính để sửa chữa lại những gì mình cần. Ông đã làm một lời xin thứ lỗi. Ông không nhận biết những vấn đề của mình nhưng cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho những gì ông cần trong lời cầu nguyện đơn giản: “Ôi Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Lời cầu nguyện của người thu thuế là một lời nài xin, một lời van xin giúp đỡ, một kiểu cầu nguyện mà chúng ta thường dâng lên Thiên Chúa. Sự nài xin đích thực diễn tả trong sự khiêm nhường đã được Chúa Giêsu chuẩn nhận. Chúng ta yêu cầu Thiên Chúa ban ơn, bởi vì chúng ta biết rằng Ngài là Đấng sẽ xoay chuyển được mọi sự, Người là Đấng quyền năng có thể giúp đỡ chúng ta. Một nửa của sự khiêm nhường để nhận biết quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn bất cứ sức mạnh nào trong vũ trụ này. Một nửa kia của sự khiêm nhường này là chấp nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, chúng ta không thể đi đâu, làm gì một mình được và chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của Ngài cũng như quyền năng của Ngài. Lời cầu nguyện khiêm nhường diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa và nhu cầu của chúng ta.
Lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta bay thẳng lên trời vì lời cầu nguyện khiêm tốn sẽ xuyên qua các đám mây và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt đến mục đích của nó.
49. Cầu nguyện là thông hiệp với Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: "Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa". Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.
Dĩ nhiên ở đây, việc "nâng tâm hồn lên" cần được hiểu sâu xa. "Nâng lên" có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện "dưới đất". Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: "Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên".
Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.
Trong cuốn "150 More Stories", Jack Mac Ardle kể một câu truyện:
Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: "Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi"
"Với tất cả tâm hồn" không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.
Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.
50. Nhận thức - Trầm Thiên Thu
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.
Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,...
Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.
Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.
Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.
Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).
Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.
Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!
Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).
Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.
Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).
Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!
Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).
Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).
Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!
Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.
Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.
Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:
Người trồng cây Hạnh người chơi
Ta trồng cây Đức để đời về sau
Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.
Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.
Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira (số 7) đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, hơn 30.000 gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.
Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam