Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 37

Tổng truy cập: 1373812

AN TOÀN TRÊN BIỂN CẢ

An toàn trên biển cả.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!

Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển, mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.

Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.

Thưa anh chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.

Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu. Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại, bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu việt của Thầy Giêsu.

Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu, đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.

Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh, ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: “Lạy Chúa, xin cứu con!”Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.

Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm vì “con thuyền Giáo Hội”có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an. Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn tưởng là bóng ma.

Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm… để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng định.

Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện diện.

 

  1. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không đồng ý với phản ứng của dân chúng… Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để ‘củng cố đức tin anh em’, nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông. Chúng ta hãy để ý các điểm này:

1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.

2) Phải lượng định làm sao cách hành động của các môn đệ và của Phêrô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão, hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta phải thưa nhiều lần: ‘Lạy Chúa con tin, nhưng xin tăng thêm đức tin cho con’ sao?

3) … tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.

 

  1. Phép lạ.

Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel, tiên tri Elia bị hoàng hậu Giêxabel đòi mạng. Thất vọng, ông tìm đường trốn lên núi Horeb miền. Thiên Chúa hiện đến và Ngài đã mạc khải cho ông, như xưa Ngài đã mạc khải cho Maisen, nhưng không còn là trong bão táp sấm chớp, cũng không trong tiếng rung chuyển của trái đất, hay trong lửa hồng bừng cháy, nhưng trong cơn gió nhẹ hiu hiu thổi.

Qua biến cố này chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa vượt trên mọi sức mạnh thiên nhiên, nhất là sự hữu hiệu của lời Ngài rất đơn sơ và xem ra cũng rất nhẹ nhàng. Sự hữu hiệu ấy nói lên lòng thương xót và dịu hiền của Ngài vượt trên sự công bình và sợ hãi. Và giờ đây, những phép lạ của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, còn kỳ diệu hơn cả thời Elia, đã làm rạng rỡ cho lòng thương xót và dịu hiền vô bờ của Thiên Chúa.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán:

– Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì khác xa tư tưởng và đường lối của con người.

Vậy ai dám giới hạn Ngài trong một phạm trù, đặt để Ngài trong một hệ thống và hạn chế Ngài trong chính hành động của Ngài. Từ chối không chấp nhận phép lạ chính là từ chối tự do của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu.

Thánh vịnh cũng nói: Mọi vật được tạo dựng nhờ Ngài… Đúng thế, khắp nơi các nhà bác học khám phá ra những định luật thiên nhiên. Những định luật này họ không hề sáng chế hay ẩn định, thế mà không lề luật nào mà lại không có người làm luật.

Vậy ở đây phải chấp nhận một Đấng làm luật toàn năng và vĩnh cửu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi sự. Nếu có đấng nào ở trên mọi lề luật, thì đấng ấy chỉ có thể là Ngài. Ngài luôn có thể hành động không cần nhờ trung gian. Một sự can thiệp trực tiếp được gọi là phép lạ, hành động của Thiên Chúa.

Qua Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ, chúng ta thử đưa ra một vài trường hợp tiêu biểu để khám phá ra ý nghĩa và mục đích của sự can thiệp này, bởi vì Đức Kitô thường giảng dạy chúng ta qua những hành động và ngôn từ, qua việc làm và lời nói của Ngài.

Trước hết là tại tiệc cưới Cana. Bữa tiệc đang tiếp diễn thì Mẹ Maria đến nói nhỏ với Chúa: ‘Họ hết rượu rồi’. Chúa Giêsu sai đổ đầy nước vào các chum rửa tay chân và dạy múc đưa đến cho chủ nhà. Phép lạ được thực hiện. Chỉ với ý muốn, Chúa Giêsu thực hiện được một phép lạ, mà chẳng cần đến một phương tiện nào cả. Hành động của Ngài vượt quá mọi mơ tưởng của các nhà khoa học, không cần gì chất hóa học hay giòng điện để biến đổi.

Tiếp đến là nơi hoang địa, với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi sống năm ngàn người, không kể đàn bà và con nít. Và lần khác, với bảy chiếc bánh, Ngài đã cho bốn ngàn người được ăn no nê. Và hôm nay, Ngài đã vớt Phêrô lên thuyền và làm cho sóng yên biển lặng.

Trong cuộc sống thường ngày, mọi hành động của Thiên Chúa đều mang tính cách phép lạ, nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta không nhận ra. Chẳng khác chi trước sự tận tâm của người mẹ, nào có mấy đứa con cảm nhận sâu xa được, cho dù thực tế đó là những hành động thật phi thường.

Tuy nhiên, đôi khi Thiên Chúa cũng làm những phép lạ như một phương tiện thay đổi tùy thời, tùy nơi, tùy nhu cầu và não trạng. Nhưng mục đích Ngài nhằm tới đó là củng cố niềm tin, giúp chúng ta thay đổi cuộc sống và con người của mình.

Gặp thời thuận tiện, cũng như không thuận tiện, chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và nâng đỡ chúng ta.

 

  1. Thầy đây mà! Đừng sợ!

Anh chị em thân mến,

Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ trẻ mới học nghề, anh ta muốn được nổi tiếng và vừa để kiếm tiền, anh họa hình Đức Tân Giáo hoàng. Hình họa không giống, không đẹp lắm! Anh đem bức họa vào để xin Đức Piô 9 ký tên bên dưới. Đức Piô 9, vẫn vui vẻ nhận lời. Bên trên chữ ký, ngài ghi lại câu Phúc âm này, Matthêu 14, 27: “Cứ bình tĩnh, Cha đây, đừng sợ.” Ý Đức Thánh Cha cũng hơi hài hước. Ngài muốn nói: hình họa vừa xấu vừa không giống nữa… Nhưng anh chàng họa sĩ xem ra không hiểu, vẫn đem bức họa in ra và đi bán… Kính mời anh chị em cùng suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và lời nói của Chúa, chúng ta vừa nêu ở trên…

a/. Nguồn gốc câu chuyện phép lạ Chúa đi trên mặt biển: Câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no nê, chúng ta nghe trong tuần trước. Câu chuyện này xảy ra, vị trí ở phía bên kia bờ biển hồ Tibêriađê; tức là phía bên hoang địa; bên này bờ hồ là thành Capharnaum. Như vậy Chúa giảng dạy rồi hóa bánh ra nhiều cho họ ăn là ở phía bờ bên hoang địa. Ăn xong trời muốn tối; dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Người không đồng ý, nên bảo các môn đệ xuống thuyền mau về bên kia bờ là Capharnaum; còn Chúa, Người lại lên núi một mình. Canh tư đêm đó, lối quá nửa đêm, Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi đến thuyền của các ông. Khi Chúa đi gần tới họ tưởng là ma nên la hoảng lên. Chúa Giêsu đã trấn an họ: “Bình tĩnh, Thầy đây, đừng sợ.”

b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?

Trên đời này, nếu không có niềm tin, con người sợ nhiều thứ lắm: sợ chết – sợ bệnh tật – sợ bị thua kém – sợ người khác (sợ ma, quỉ)… Con người sợ những thứ đó, cũng phải thôi, vì trong vũ trụ này, thực ra con người là một tạo vật xem ra khá bé nhỏ. Bài tin mừng của chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu lại dạy mỗi người kitô hữu chúng ta: “đừng sợ”, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn…chỉ sợ Đấng đã giết rồi, lại còn ném vào hỏa ngục nữa (Lc 12, 4 – 5) – đừng lo cho mạng sống, lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc (Lc 12, 22) – Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi (Lc 12, 7). Con người lo sợ cũng phải, vì con người thấy mình thua kém, và không có chổ nương tựa. Ở đây Chúa dạy: “đừng sợ”, nhất là “hãy tin cậy nơi Chúa”

Câu chuyện sau đây, minh chứng cho lòng tin mến vững vàng, không sợ hãi, của một người cùi, lại mù lòa nữa. Chị Vêrônica, một người Pháp, vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh cùi, 20 năm bị mù lòa, chị vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của người cùi tại nước Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời kinh đầy niềm tin, không sợ hải như sau:

“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con cũng hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn đôi mắt của con. T rước đây con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con… Mỗi khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin đôi tay của con…

Con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn một sợi tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa! Chỉ còn lại vài que củi… khô queo nhám nhúa…!

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến độ nào rồi… Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn…Vâng lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn…Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của Chúa… Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha… Chiều nay, con xin dâng lên lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương đặc biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy hoại họ. Chiều nay, trong âm thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng là anh chị em của con…

Con là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình. Hãy nhận chìm con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với mọi người thân yêu của con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen…”

Chúng ta vừa nghe một lời kinh tràn đầy niềm tin yêu, không hề sợ hải, như chính những gì Chúa Giêsu muốn dạy qua bài TM chúa nhật hôm nay. Rõ ràng đây là một lời kinh nói lên chân lý: Tình yêu mạnh hơn sự chết…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua bài Tin mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy tin vững vàng nơi Chúa mà không sợ hải. Là người kitô hữu, ta có đủ tin vào lời Chúa không? Câu chuyện của Chị Vêrônica ta vừa nghe, có đánh động ta không? Ta có muốn cầu xin Chúa cho ta biết sống niềm tin vững vàng, không sợ hải trước mọi thử thách, khổ đau trong cuộc sống không?

 

  1. Có dừng chân nhưng không dừng lại

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.

Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả. Ròng rã hơn mười mấy năm trong vai trò thầy giúp xứ cũng như hơn mười mấy năm đời linh mục, bản thân nghiệm thấy chính mình và các đấng khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui đi tới ngắm nghía công trình là chuyện như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm nghía vinh quang của mình. Ai lại không nghe người ta trầm trồ về cái gọi là thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được những gì mình đã “ra tay”.

Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát cũng có thể là bởi sự gợi ý có chủ đích của nhóm mười hai vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong vinh quang” (x. Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.

Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal, Êlia đã phải trốn chạy sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh quang thì tai họa liền kề.

“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những hạnh phúc êm ả cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón gặp chúng ta.

Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường. Xót dạ khi ra đi và bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái, ngài đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy, khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).

Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Gio 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.

Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ (x. Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và sẽ ngã không biết lúc nào.

Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại… nhiều khi nhấn chìm chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.

Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).

 

home Mục lục Lưu trữ