Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 24

Tổng truy cập: 1373648

Anh Em Của Mọi Người

Cập nhật : 08-07-2016
 

16. Anh em của mọi người

Ai là người thân cận của tôi? (Lc 10, 29)

Câu hỏi của nhà thông luật này cũng là câu hỏi của nhiều người trên thế giới ngày nay. Câu hỏi này nhắm đến quyền lợi của cá nhân người hỏi. Chúng ta có thể hiểu ngầm vế còn lại: những người còn lại là người xa lạ hoặc là thù địch của tôi. Nếu là người thân, không hại đến quyền lợi tôi thì tôi giúp. Còn kẻ thù hại đến quyền lợi tôi thì tôi bất thông giao. Anh em thì không hại tôi, nhưng có lợi cho tôi. Kẻ xa lạ thì phải dè chừng, kẻ thù địch thì phải tiêu diệt. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu chuyện dường như nhấn mạnh một khía cạnh khác.

Đừng hỏi ai là người thân của tôi, đừng chỉ nghĩ đến bản thân và lợi ích riêng mà phải nghĩ đến người khác: tôi có bổn phận gì đối với người xung quanh? Câu hỏi này giúp chúng ta nghĩ đến quyền lợi của anh em mình trước. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mỗi người phải từ bỏ tính ích kỷ, qui về mình nhưng vị tha, nghĩ đến quyền lợi của tha nhân.

Chính Chúa đã thi hành điều này trước để làm gương cho chúng ta.

Khi loài người xúc phạm đến Chúa, Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết mà hứa ban ơn cứu chuộc. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ Ngai Trời của mình mà bỏ trời xuống thế làm người, lo cho loài người. Cho dù loài người phản bội tiếp tục đối xử bất công với Chúa và còn vu cáo, giết Đức Giêsu bởi tay dân ngoại. Chúa biết như vậy nhưng Ngài không nghĩ đến quyền lợi của mình. Chúa cũng không hỏi: ai là anh em, là trung thần của Ngài mà Ngài muốn làm anh em của chúng ta đang lúc chúng ta còn là thù địch của Ngài. Như vậy, Chúa đã lấy ân trả oán. Không những Chúa tha tội ác của chúng ta mà còn thi ân giáng phúc cho cả loài người bằng việc xuống thế, giảng dạy, chữa lành các bệnh nhân và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi nhân gian.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đối với nhà thông luật hôm nay cũng là lời nhắn gởi tới mọi người trên trần gian. Nếu chúng ta biết lo cho quyền lợi người khác, muốn làm bạn với mọi người thì thế giới này không còn chiến tranh hận thù, các đảng phái không còn thù hằn tiêu diệt nhau, nhưng biết xây dựng nhau, coi nhau là anh em; mọi đồng bào, mọi người trong gia đình sẽ tự hỏi xem mình có coi mọi người là anh em của mình chưa.

Tuy nhiên, thực tế điều này không phải dễ làm. Con người chỉ có thể coi mọi người là anh em và đối xử với mọi người trong tình yêu thương khi sống giới răn thứ I: yêu mến Đức Chúa, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn. Ngươi. Khi chúng ta tin thờ Chúa, tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Thì từ đó, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em, kể cả kẻ thù. Còn ai từ chối Thiên Chúa là Cha thì không thấy được mọi người là anh em của mình, nhất là những kẻ thù nghịch mình! Đối với những ai từ chối Thiên Chúa thì ngày nào họ còn từ chối Thiên Chúa, họ sẽ không yêu thương được người khác cách chân thành mà chỉ giao tiếp dựa trên lợi danh: Vì tiền, vì chức, vì một lợi lộc nào đó. Họ sẽ đối xử với nhau theo kiểu mạnh được yếu thua. Khá lắm cũng chỉ là thương hại, bố thí chút cho kẻ bần cùng, cho đi phần dư thừa của mình, chứ không tôn trọng tha nhân đúng mức.

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta đừng chỉ lo cho bản thân, nhưng biết nghĩ đến anh em đồng loại như Chúa đã thương xót chúng ta. Chúng ta cũng hãy thương mến mọi người như anh em của mình. Điều này có thể thực hiện được như bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật nói: hãy trở về cùng Chúa. Thánh chỉ Ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó, cũng không quá sức các ngươi. Lời Chúa ở sát bên các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi (Đnl 30,10-14).

Lời Chúa nói trong lương tâm mỗi người, cho dù người đó tuyên bố mình vô thần nhưng trong lòng vẫn cảm thấy một điều gì đó linh thiêng trong thế giới này và vì vậy họ kiếm tìm một tín ngưỡng để có chỗ dựa tinh thần. Vậy chúng chúng ta hãy cầu xin cho mọi người dù đã biết Chúa hay đang từ chối Chúa biết nhận ra nguồn cội của mình. Xin cho mọi người chúng ta là những người đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa biết giữ giới răn Kính Chúa Yêu Người và trở nên dấu chỉ yêu thương giữa lòng thế giới hôm nay.


17. Ai là người Samaria tốt nhất? - Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Chúa Giêsu thích kể các dụ ngôn khi Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi có người đặt câu hỏi: “Ai là người láng giềng của tôi?”. Chúa Giêsu đã không cho một câu trả lời trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đã kể một câu chuyện dụ ngôn.

Dụ ngôn này thì quen thuộc và để lại ấn tượng mạnh mẽ khi được diễn tả trong một ngôn ngữ. Nói với một người nào là Samaria nhân lành có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ người khi cần. Trong câu chuyện, người Samaria đã dừng lại và giúp đỡ người đàn ông bị bọn trộm cướp đánh đập và tước lột tất cả, minh chứng chính ông là người láng giềng tốt mà Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samaria này đã không biết nạn nhân xấu số và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samaria.

Trong câu chuyện dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu thường đưa ra một đường vòng không ngờ. Và đường vòng cho câu chuyện dụ ngôn này là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ”láng giềng”. Sự kiện anh hùng là một người Samaria. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được nói với người Do Thái, những người khinh bỉ người Samaria. Những người Do Thái nhìn người Samaria như là những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần. Những thính giả đang nghe Chúa Giêsu phải bị sốc rất nặng. Họ phải giận dữ khi Ngài đề nghị với họ một mẫu gương là một người Samaria anh hùng.

Một số giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội đã đặt một đường vòng khác vào câu chuyện. Các Giáo phụ thấy người mà chúng ta gọi là người Samaria nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, các giáo phụ nghĩ rằng ít nhất một con người đã được giới thiệu với chúng ta là người luôn giúp đỡ và Chúa Giêsu đã luôn làm điều đó.

Nòi giống con người bị thoái hoá đi bởi tội lỗi. Tội lỗi đã tước bỏ nơi chúng ta mọi giá trị như là con người. Nó đã đánh cặp của chúng ta để lấy đi khỏi chúng ta những ân sủng của Thiên Chúa. Nó đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt khiến tất cả chúng ta đều giống như là một người dở sống dở chết. Chúa Giêsu đã nâng chúng ta dậy, không chỉ là trên một con vật, nhưng là trên chính đôi vai của Ngài và mang chúng ta đến với Giáo Hội, để chúng ta có thể được chăm sóc cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang, ngày Phục Sinh của chúng ta.

Nhưng sau đó, Chúa Giêsu đã mang chúng ta vào trong Giáo Hội, Ngài đã không để mặc chúng ta đi trên con đường của Ngài. Ngài ở với Giáo Hội mọi ngày và cho đến tận thế. Qua sứ vụ của Giáo Hội, trong phép rửa Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương tội lỗi, phục hồi sự sống của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị là con cái của Thiên Chúa. Và trong phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng bên trong chúng ta, Ngài đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa và thừa tự Nước Trời. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong Giáo Hội, qua Lời và các bí tích: Lời của Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể là chính Mình và Máu Người nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Từ”láng giềng” theo nghĩa chữ là một người ở gần bên chúng ta. Chúa Giêsu đã minh chứng chính Người còn hơn là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần chúng ta, Ngài đã làm cho chúng ta trở nên thành phần của thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Trong Ngài chúng ta tiếp tục hiện hữu, như bài đọc II đã dạy chúng ta: “Ngài là Đầu của thân thể là Giáo Hội”.

Khi chúng ta bước đi trong đời sống, tội lỗi vẫn còn tiếp tục tàn phá và làm tổn hại chúng ta, chúng đang chờ đợi một khoảnh khắc bất ngờ, chểnh mảng để chúng có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta yếu đuối. Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc trong cuộc chiến đấu của mình. Thật sống động khi chúng ta họ bài học của bài Thánh Vịnh ngày hôm nay: “Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ sống”. Khi chúng ta hướng về Chúa sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu nhiệm và xa xôi khỏi chúng ta. Chúa Giêsu không quá đơn giản là một người Samaria nhân lành. Ngài là một người tốt nhất.


18. Làm gì để được sống đời đời.

Xin mời mỗi người nghiêm chỉnh đặt câu hỏi nầy cho chính mình kẻo không kịp.

Thường người ta lo đủ chuyện đời nầy chuyện to chuyện nhỏ đều lo còn chuyện sống đời đời thì chưa lo. Đợi giờ chót. Có khi để ngưòi khác lo cho: rước cha.

Sống thì phải được sống lâu, trăm tuổi. Nhưng sau đó thì đi đâu, ở đâu? Phải sống đời đời. Phải biết làm gì để đựoc sống dời đời.

Một người thông luật đã tỏ vẻ quan tâm nên hỏi Đức Giêsu và Người biết người nầy biết nên hỏi lại: Ông đọc thấy gì trong lề luật? (ie. có rồi)

Yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa hết lòng hết sức....

Và yêu mến ngưòi thân cận như chính mình. Người thân cận là Do Thái, là dòng đạo có cắt bì. Ông muốn thử xem Đức Giêsu có gì mới không. Để minh hoạ cho cụ thể Đức Giêsu kể một câu chuyện làm ngạc nhiên vì tính mới mẻ.

Một ngưòi từ Giêrusalem xuống Giêricô, là Do Thái....bị cướp, gặp nạn dở sống dở chết nằm giữa đường, ai đi qua cũng phải thấy.

Một thầy tư tế rồi một thầy lê vi từ Giêrusalem về ( mới làm xong nhiệm vụ tế lễ ở đền thờ về). Là chức việc trong đạo. Thấy lạnh lùng tránh qua bên rồi đi thẳng. Không động lòng chút nào hết.

Một người Samaria, người ngoại, kẻ tội lỗi, kẻ thù của người Do Thái, đi ngang qua đó. Thấy, động lòng thương xót, ghé lại đổ dầu và ruợu, băng bó vết thương, đỡ lên lừa đưa đến quán trọ chăm sóc...tốn bao nhiêu khi trở về tôi sẽ thanh toán đủ. Tươm tất từ đầu chí cuối, không chỉ qua loa, nửa chừng. Có lòng thương xót là vậy. Thương thì thương cho trót gọt thì gọt cho trơn. Đây là tính mới mẻ: yêu kẻ thù. Có lòng thương xót mà thương xót cả kẻ thù, không phân biệt đạo ngoại. Ngoại mà có lòng thương xót thì hãy bắt chước còn đạo mà vô cảm vô tâm không có lòng thương xót thì đừng bắt chước kẻo khi phán xét Chúa Giêsu hỏi khi ta bi nạn nằm giữa đường có dộng lòng thương xót không thì trả lời làm sao?

Không cần biết là Do Thái, Lê vi, tư tế hay Samaria ngoại giáo Chúa chỉ hỏi có lòng thương xót không, có biết động lòng không? Có thì được chúc phúc không thì thôi.

Điều răn quan trọng nhất và cũng là duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là đây. Đây cũng là điều mới mẻ của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phán xét theo tiêu chuẩn nầy vì Người đã dạy như vậy.

Hãy đi và làm như vậy thì được sống đời. Bảo đảm.


19. Chỉ vài bước thôi – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng. Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó (x.Lc 16,19-26). Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời.Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận… Dụ ngôn người Samari tốt lành (x.Lc10,30-32) cho thấy: cũng chỉ vài bước thôi, thầy Tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân. Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân. Và họ an tâm. Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt” (xem).

Lối hành xử của ông Phú hộ “mackeno” hay thầy Tư tế và Lêvi “tránh sang một bên”, biểu tượng cho thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ, đó là căn bệnh thời đại: vô cảm.

Có ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.

Thứ nhất là vô cảm trước người khác, hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.

Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.

Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.

Tạm thời, xin gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai. Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình. Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.

Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ. Đất nước nghèo đói ư?  Mặc kệ! Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư?  Mặc kệ! Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư?  Mặc kệ! Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư?  Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư?  Mặc kệ! Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư? Mặc kệ! Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm.

Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm? Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm. Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội. Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự. Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề. Kẻ thì bị đạp vào mặt. Kẻ thì bị bắt bớ. Kẻ thì bị đe dọa. Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng.Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ. (x. Blog của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

Một trong những phát minh vĩ đại của khoa học là sáng chế ra rôbốt. Nhưng khoa học không thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến rôbốt biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận. Căn bệnh vô cảm biến con người thành rôbốt, vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức. Thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Gặp người có hoàn cảnh khó khan, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện. Đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối. Thời nay, ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém…nhưng lại ít thấy ai ra can ngăn, cứu giúp. Không dại gì dây dưa vào, mackeno, là biểu hiện của bệnh vô cảm.

Lối sống dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ đang hình thành một nền “văn hóa vô cảm” trong xã hội chúng ta. Thái độ này đang được thể hiện tràn lan trong cuộc sống. Hình ảnh những người trẻ nhường chỗ trên xe buýt cho người lớn tuổi hoặc phụ nữ có thai như là chuyện cổ tích; chuyện dửng dưng chứng kiến người thanh niên lừa một người mù đi bán vé số để cướp số tiền mưu sinh nhỏ nhoi được coi như chuyện nhỏ không đáng phải can thiệp, hay như chuyện một người phụ nữ bị đánh đập, bị lột hết quần áo và bị trói nằm trước mặt người qua đường mà chẳng ai quan tâm tới… Môi trường sống hôm nay tràn lan những câu chuyện vô cảm như thế xảy ra hằng ngày.

Chỉ vài bước thôi ông nhà giàu có thể đến với Ladarô nghèo khổ. Chỉ vài bước thôi thầy Tư tế và Lêvi sẽ chạm đến người bị nạn trên đường. Chỉ vài bước thôi, sao mà khó đến vậy? Âu cũng chỉ vì họ mắc bệnh vô cảm.

Sự vô cảm vì con người ích kỷ, tham lam. Vì thế, suy cho cùng, bệnh vô cảm là do thiếu vắng tình yêu, xa cách với tình yêu, không quen nói về tình yêu, không quen thể hiện yêu thương, không bao giờ nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh trái ngược.Tư tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Tư tế và Lêvi là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng nhất trong xã hội. Họ chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa nhưng lại dửng dưng trước đau khổ của anh em đồng loại. Một người Samari (thường bị người Do thái khinh bĩ, khai trừ, coi là ngoại đạo, tránh giao tiếp) tình cờ đi ngang qua, thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn nên động lòng thương. Chuyện tình cờ xảy ra trên đường: đức ái không luôn luôn đến từ nơi người ta chờ đợi. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân là người Do thái hay không, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Chính hành động làm cho anh em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ, dù đó là thầy Tư tế hay thầy Lêvi đi nữa. Đối với nghĩa vụ đức ái, không có bất kỳ hạn định nào. Bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người khác thật sự theo khả năng của mình.

Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương. Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu chỉ với vài bước thôi, chúng con đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thì xin cho chúng con có nhiều bước chân đi để đến với mọi người. Chúng con biết, cuộc sống đạo sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc, Kitô hữu mà không thực hành bác ái bằng việc làm trong đời sống thì cũng chỉ là hữu danh vô thực. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ, chai đá, dửng dưng trước những bất hạnh khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.


20. Tôi là anh em của ai?

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật XV thường niên C, mở đầu bài Tin Mừng với một thắc mắc do một nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trình bày rất chính xác khi tóm lược hai giới răn chính: Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến người anh em như chính mình". Để tự biện minh, ông hỏi thêm: "Ai là người anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn. "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô..." khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu!

Quan niệm của người Do thái về người thân cận

"Ai là anh em của tôi? " Trong Dothái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về ai sẽ được coi như người anh em của người Israel. Và theo họ, phạm trù "người anh em" bao gồm tất cả những người đồng quê với mình và những người Dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn những nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu khẳng định rằng phạm trù người anh em là phổ quát, không phải riêng rẽ. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, giới chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).

Mọi người là anh em với nhau

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người vô phúc đang nằm đó trong vũng máu, Anh một linh hồn vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một cái gì giống như vậy, rôi tiếp tục con đường của mình, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai và lăng mạ sao? Ngược lại ông đã làm một cái gì cho kẻ khác: "Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: " Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông. "

Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI viết trong quyển sách của ngài (x Chương 7 sách "Chúa Giêsu thành Nazarét"). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người tiến sĩ luật kẻ đã hỏi Người, "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"

Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người tiến sĩ luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là: "Ai là người anh em của tôi?" Nhưng "ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai?"

Tôi là anh em của ai?

Trong quyển sách của ngài Đức Giáo hoàng đề nghị một sự áp dụng đương thời dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài thấy toàn thể lục địa Phi Châu được biểu trưng trong người bất hạnh bị ăn cướp, bị thương tích, và để nằm chết bên lề đường, và ngài thấy, những thành phần của những xứ giàu có bắc bán cầu, hai người đi ngang qua, nếu không phải chính xác là những tay cướp.

Chúng ta có thể đưa ra một đề nghị áp dụng khác về dụ ngôn. Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, "Ai là người anh em của tôi?" Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!

Chúng ta không áp dụng cho châu Phi và Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu câu hỏi "Ai là người anh em của con? " Thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người Cộng sản vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.

Hôm nay, Chúa nói với chúng ta: "Hãy đi và làm y như vậy", làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc... Đừng ngồi đặt vấn đề: "Ai là anh em tôi?", nhưng hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của mọi người". Amen.
 
Nguồn : gxta 

home Mục lục Lưu trữ