Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1374620

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

Ánh sáng đức tin

(Suy niệm của Lm Bùi Mạnh Tín)

Theo quan niệm chung, người mù là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Từ quan niệm này, chúng ta liên tưởng đến chứng mù khác, đó là sự mù lòa tinh thần, như chúng ta thường diễn tả: "nạn mù chữ", "tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề đó", "cặp mắt đức tin đã bị che khuất".

Hiểu như vậy, có những cặp mắt hoàn toàn hư hỏng, nhưng tinh thần lại rất lanh lợi, lương tâm rất bén nhậy và đức tin rất sáng suốt. Và ngược lại, có những cặp mắt không bao giờ phải mang kiếng, nhưng lại mù lòa, ít khi hay không bao giờ nhìn ra những chân lý mà mọi người đã chấp nhận. Điều này được minh chứng qua câu chuyện hôm nay: các anh em Biệt phái luôn tự hào là mình sáng suốt, chỉ có mình mới biết về Đấng Cứu Thế - và như thế, mới có thể hướng dẫn người khác đến với Thiên Chúa. Hơn thế, họ còn coi những người mù về thể lý là người đã mất cặp mắt đức tin do tội lỗi.

Trong khi đó, người mù từ khi mới sinh lại có cặp mắt thật sáng suốt, giúp anh nhận ra người thanh niên thành Nagiarét giữa đám đông là Đấng Cứu Thế, là con Vua Đavít... Thật vậy, khi những anh em Biệt phái nói: "người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến", anh mù đã trả lời: "Đó mới là điều lạ. Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết người đó bởi đâu". Nói thế, anh muốn quả quyết rằng: một người có đầy quyền năng làm phép lạ, có đầy lòng xót thương để cứu vớt kẻ đau khổ, có chan hoà ánh sáng, chính là người đến từ Thiên Chúa. Các ông bảo các ông sáng, vậy mà các ông không nhận ra người đó là ai. Rồi anh tiếp: "Xưa nay chưa từng nghe nói ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa, thì đã không làm được gì".

Những lời lẽ của anh chứng minh: anh không mù lòa chút nào - trái lại, rất sáng suốt. Trong khi đó, anh em Biệt phái vẫn cho mình là sáng suốt - ít nhất trong trường hợp này, lại mù lòa tới mức độ khó đối diện với Chúa Giêsu và chứng kiến phép lạ của Ngài, vẫn không nhận ra Ngài là ai. Đã thế, họ vẫn không chịu nhận ra mình mù lòa. Đây chính là một chứng mù bất trị, như Chúa Giêsu đã diễn tả: "Vì các ông không nhận mình là mù, cứ nói là mình vẫn xem thấy, nên tội các ông vẫn còn đó".

Cặp mắt đức tin của chúng ta đã được Chúa Giêsu đích thân mở cho, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Và rồi từ đó, Chúa luôn tiếp tục ban ân sủng, để cặp mắt đó trong sáng hơn, nhìn rõ hơn. Tuy nhiên, khuynh hướng tội lỗi và các hoàn cảnh xấu, như một sự ô nhiễm môi trường, thường tạo nên những bất lợi cho cặp mắt đó, khiến hình ảnh Chúa bị lu mờ dần hoặc biến mất hoàn toàn trong tâm hồn mình, trong tha nhân - và nhiều khi trong cả những sinh hoạt đạo đức nữa. Đã vậy, nhiều khi chúng ta vẫn cứ "an tâm" với những hình thức đạo đức bên ngoài, coi đó là những dấu chỉ tốt, và luôn hãnh diện về những dấu chỉ đó... Nhưng thực ra, cặp mắt đức tin có thể đã yếu kém trầm trọng hoặc đang mang một thương tích nào đó.

Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Kitô, vị bác sĩ nhân khoa tuyệt vời. Chính Ngài sẽ chăm sóc, trị liệu và cho các toa thuốc cần thiết. Nhờ thế, cặp mắt đức tin của mỗi người chúng ta mới luôn trong sáng và nhìn ra gì Chúa muốn chúng ta nhìn.

 

62. Ánh sáng đức tin – Lm. Bùi Mạnh Tín

Câu chuyện về một người mù được Chúa cho sáng mắt đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề. Một vấn đề cần suy nghĩ ở đây, đó là tính kiêu căng cố hữu nơi con người, một sự kiêu căng đã mang đến bao tai hại cho cá nhân, gia đình và xã hội về nhiều phương diện.

- Có tội, nhưng không bao giờ nhận mình có tội.

- Bất lực nhưng vẫn tưởng mình có đầy khả năng.

- Tối tăm mù lòa nhưng lại cho mình sáng suốt thông minh.

Khi chúng ta không thành thật khiêm nhượng và can đảm nhận ra sự bất lực, tối tăm và tội lỗi của kiếp người, thì không ai có thể giải thoát chúng ta được, kể cả Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta đọc thấy trong câu truyện hôm nay. Người ăn xin, mù mắt nhưng tâm trí anh ta lại sáng suốt. Anh ý thức được thân phận cùng khốn của mình và nhận ra Đức Kitô là Đấng toàn năng và từ bi, nên anh đã chấp nhận sự can thiệp của Chúa. Nhờ bàn tay Chúa, không những cặp mắt thể xác của anh có thể nhìn rõ mọi sự vật, mà tâm trí của anh càng sáng chói thêm. Nhờ tâm trí này, anh đã tin rằng người chữa mắt cho anh "là một tiên tri", bởi vì "nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm gì được." Trái lại, những anh em Biệt Phái, dù có cặp mắt sáng để đọc và nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đã không nhận ra Đấng vừa thực hiện phép lạ đó là ai. Thái độ tiêu cực này chính là một thứ mù lòa tinh thần. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã nói với những anh em đó: "Nếu anh em mù thì anh em không mắc tội; nhưng anh em nói: chúng tôi xem thấy, nên tội anh em còn đó."

Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta cũng gặp những người, tuy không sáng suốt và hiểu biết trong nhiều lãnh vực, nhưng lại có thể trở thành những ngọn đèn sáng dẫn chúng ta đến với Chúa.

Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ với mọi người câu truyện của đời cô:

Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, đôi khi nhắc lại những câu Kinh Thánh hay những lời Linh mục giảng dạy. Tôi luôn luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông. Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự Lễ Giáng Sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: "Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?", tôi im lặng... Khi chúng tôi vừa đặt chân tới của nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: "Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa." Ông hỏi: "Cháu nói thế có nghĩa là gì?" "Nội biết không, những lời Nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa Nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa."

Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp:

- Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lơp Giáo lý này.

 

63. Mù và Sáng – Trầm Thiên Thu

Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.

Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa.

Mắt cũng biết khóc, biết cười. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẻo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nổi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!

Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!

Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp quá!

Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.

Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.

Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”.

Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.

Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (*) hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).

Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” chúng ta cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.

Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Tức là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Thánh Phaolô giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.

Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).

Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.

Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!

Một hôm, Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.

Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…). Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám “phán câu xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.

Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!

Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta:

“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!

Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngày: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17).

Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ canh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.

Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”.

Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!

Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”.

Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!

Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhác” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ!

Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).

Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở mắt đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

 

64. Bây giờ tôi đã thấy – Mark Link

"Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa Giêsu."

Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.

Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được "cát đỏ" (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:

"Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều"

Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.

Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai. Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là "Chúa". Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này.

Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc. Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác. Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: "Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt. Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liềân được trông thấy."

Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người.

Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: "Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?" anh ta liền đáp: "Ông ấy là một tiên tri". Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước. Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri. Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.

Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa. Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: "Anh có tin vào CON NGƯỜI" không? Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin. Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh". Anh đáp ngay: "Lạy Chúa, con tin!" vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.

Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước. Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà "muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối" (Pl 2: 10). Ân sủng đức tin, hay "ánh sáng tâm linh" mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.

Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.

Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị "đui mù tâm linh" như anh mù trong Phúc âm hôm nay. Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta. Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.

Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay. Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy. Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường. Đến lúc lớn lên. Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn. Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa. Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta. Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy. Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế. Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.

Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu. Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai. Schweizer viết: "Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thủơ xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển. Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: "Hãy theo Ta!". Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ. Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được "NGÀI là ai?".

 

65. Bài đọc thêm: Về “cái biết”

Trong Tin Mừng Ga đoạn 9, mười câu từ 24-34, thấy diễn ra một cuộc đối chọi giữa hai ‘cái biết’: một của nhóm chức quyền Do thái, một của anh mù.

a) “Chúng ta biết rằng tên đó (Chúa Giêsu) là một đứa tội lỗi” (c.24).

aa) “Ông ấy là người tội lỗi ư? Tôi không biết. Một điều tôi biết được là: tôi đã mù, và rày tôi thấy được” (c.25).

b) “Chúng ta biết Thiên Chúa đã phán với Môsê (và truyền giữ luật Hưu lễ), còn hắn, chúng ta chẳng biết hắn tự đâu ra?” (c.29).

bb) “Chúng tôi biết Thiên Chúa không nhận lời hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm theo ý Người, thì Người nhận lời kẻ ấy (bằng chứng là phép lạ chữa bệnh mù của tôi đây)… Nếu ông ấy đã không bởi Thiên Chúa mà đến, thì đã chẳng làm gì được” (c.31-33)

Ta có thể nhờ lời cổ nhân mà phân tích đoạn này. Tuân Tử (330TCN-227TCN) cho rằng: Điều mà ai cũng biết là: tri thức nào cũng đều bắt đầu từ ngũ quan, tiếp nhận ấn tượng; còn cái tâm thì suy xét, phân biệt các ấn tượng ấy mà biết. Tai, mắt, mũi, miệng… thì tiếp xúc với bên ngoài, nhận các ấn tượng, nhưng không có cái nào làm chủ sai khiến cái nào. Còn tâm đứng giữa, thì làm chủ để cai trị các ngũ quan, thâu gom tất cả về nó. Nó có cái năng lực suy xét, phân biệt; cho nên mới có câu: “Nhờ đâu mà biết? Đáp: Nhờ Tâm” (thiên: Giải tế). “Tâm không (hoạt) động, thì trắng đen ở ngay trước mắt mà không nom thấy, trống khua lớn ở bên cạnh mà tai không nghe” (Giải tế).

Đó là nói về cái biết đối với các vật có hình tượng…

Đối với đạo lý, muốn biết, thì tâm phải ở trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”: “Hư” là trống không, ý nói đừng có sẵn thành kiến trước, mà làm tổn hại đến điều gì sắp tới. – “Nhất” là một, nghĩa là thường tâm ôm đồm nhiều quá, nên muốn biết một điều gì, thì phải chọn một điều thôi, tập trung vào đó, để cho cái biết được tinh vi. – “Tĩnh” là yên lặng. Bản chất tâm là luôn hoạt động, nhưng khi để ý vào một việc gì, tâm phải giữ cho bình tĩnh, đừng để cho huyễn mộng, tưởng tượng vẩn vơ… và những buồn phiền giao động mà làm rối loạn (Giải tế). Hồi xưa, Đức Khổng Tử cũng đã tâm niệm 4 điều quyết: không ức đoán, không võ đoán, không cố chấp, không chủ quan” (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. – Tử Hãn).

Muốn cho tâm được hư nhất nhi tĩnh, thì phải “tri dã cung” là nghĩ một cách kính cẩn, ngoài ra phải “tri dã lạc”, tâm phải ở trong một trạng thái hòa đồng làm một với thiên đạo, tức là phải thành: vừa trong sáng, vừa ngay thẳng, thành tâm, thiện chí (lấy theo Giản Chi…,sđd, t.I, 488tt, 606tt). Bây giờ áp dụng vào hai cái biết của đoạn trên, thì thấy:

Về a): Cái tâm của nhóm Biệt phái không ‘hư’ (trống rỗng), nhưng đã bị nhiều thành kiến chiếm cứ, và không ‘tĩnh’, tức là đã để cho nhiều đố kỵ bè phái, thiên kiến đối với Đức Giêsu (x. Ga 5, 15-18) làm giao động và làm lú lấp mà quên thiên đạo. Họ không xét đến cái tốt (chữa lành bệnh mù) mà chỉ bo bo nhìn vào việc không giữ Hưu lễ (mà họ đã chẻ tóc làm tư cho thành một luật nặng nề, cứng ngắc, nghẹt thở), và nhất là tưởng rằng đó là tất cả đạo.

Về aa): Anh mù đã dựa vào giác quan kinh nghiệm sự vật mà suy xét: đã mù (một sự kiện hữu hình), nay được sáng mắt (một sự kiện nữa). Và từ đó, anh để tâm suy xét phân biệt người chữa anh có là kẻ tội lỗi hay ngược lại, và đó là điều anh nói ra ở bb).

Về b): Cái tâm của họ không trống rỗng (‘hư’), đầy thành kiến; thêm vào đó không giữ cho ‘hòa đồng với thiên đạo’, và không thành thực, ngay thẳng, trong sáng. Họ chỉ biết luật Môsê (toàn mặt cấm kỵ) mà không thấy toàn bộ thiên đạo chép trong Kinh Thánh: Thiên Chúa yêu thương, dạy người ta yêu thương, và coi đó là điều quan trọng hơn hết, hơn cả muôn ngàn hy lễ, và yêu thương là giới luật trọng nhất gồm thâu mọi giới luật (x. Mc 12, 32-33). Nói nôm na, cái tâm của họ đã không được nỗ lực ‘trừ dục’, ‘thắng tà’ mà nên trong sáng, thành thực.

Về bb): Chính anh mù (được lành) lại sáng cái tâm ra mà nhìn nhận được cái thiên đạo ấy: “Ai thờ Chúa và làm theo ý Người” (mà ở đây ý Người là yêu thương, giúp đỡ nhau…), “thì Thiên Chúa nhận lời người ấy”. Nhận lời là làm phép lạ theo ý người ấy xin. Đang khi nhóm Biệt phái mù tịt không biết “hắn tự đâu ra” (mà họ là những người thông thái), vì cái tâm không ‘hư’, không ‘dã cung’, ‘dã lạc’, nên đâm mù quáng, chỉ dán mắt vào một bộ luật và khư khư giữ từng nét…; thì anh mù lại sáng mắt ra và chỉ cho họ biết nguồn gốc của Đức Giêsu là “bởi Thiên Chúa mà đến”, dựa theo thiên đạo này, tức quy luật chung, tự nhiên, mọi người nhìn nhận: Vì ai làm lành, ai gây phúc đức (ai phục vụ anh em mình), thì chỉ có thể từ Thiên Chúa mà ra, chứ không từ sự ác, từ ma quỷ, từ tội lỗi.

Lời dạy của triết gia Tuân Tử không phải là đã lỗi thời đâu!

 

home Mục lục Lưu trữ