Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1372537

ÁNH SAO LẠ

ÁNH SAO LẠ-  Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện…

Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi:

Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu

Và được kết quả như sau:

– 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.

– 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này.

– 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.

– 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.

– 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi

– 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.

– 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1]

Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?

Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:

*1. Con người và phản ứng của Hêrôđê

Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.

Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi.

Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.

*2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư

Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.

*3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ

Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.

Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]

Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.

Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.

Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]

Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen.

———————-

[1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53

[2] William Barclay

[3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh

CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN- Lm. Vũ Đình Tường

Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.

Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.

Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa

Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.

Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng ý nghĩa của mùa.

 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

TỎA SÁNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lễ Hiển Linh theo nguồn gốc văn tự Epiphaneia (Epiphany: manifestation or striking appearance). Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’). Theo truyền thống, Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua.

Từ 700 năm trước Công Nguyên, tiên tri Isaia đã loan tin vui về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1). Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60. 3). Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.

Tiên tri Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6). Các biến cố được ghi lại như một câu truyện xảy ra gọn gàng trong một thời gian ngắn ngủi. Thật ra lịch sử ơn cứu độ được mạc khải một cách tiệm tiến qua từng biến cố trong thời gian dài. Trong đêm hồng phúc, trước tiên Chúa tỏ hiện cho những mục đồng đơn sơ và nghèo nàn, tiếp đến là Chúa bày tỏ mình cho những người đại diện bên ngoại giáo đến từ xa và sau cùng Chúa đã tỏ mình cho toàn thể nhân loại trên thế giới.

Dựa vào Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”(Mt 2, 2). Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước. Chúa Giêsu đã dậy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).

Truyện kể có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ? Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự, cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thật. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng người. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 40).

Hình ảnh Ba Vua hay các Đạo Sĩ bái quỳ dâng tiến lễ vật và thờ lạy Chúa Hài Nhi bày tỏ lòng tin kính và bái phục. Họ không nghĩ về thân phận hay địa vị của mình nhưng thần phục trước Đấng được sai đến. Vất vả đường xa lặn lộn kiếm tìm nguồn sự sáng, các nhà đạo sĩ đã thỏa tâm. Sau khi gặp được Chúa Hài Nhi, họ đã theo đường khác để trở về quê hương xứ sở. Chúng ta chắc rằng họ là những người khôn ngoan biết ngước nhìn lên để tìm hướng đi. Mỗi người chúng ta cũng có những ước vọng và khao khát những điều cao thượng. Sự cao siêu phải từ trên dọi chiếu. Chúng ta không thể cúi mặt chỉ đi tìm những của cải trần gian mau qua chóng hết. Cuộc đời của con người không chỉ tìm kiếm của ăn, áo mặc, danh vọng, địa vị và tìm thỏa mãn bản năng, nhưng có sứ mệnh và mục đích cao cả hơn bội phần. Chúng ta cần phải hướng tới, nhìn lên và khát mong niềm vui bất diệt của cuộc sống thật mà Thiên Chúa đã an bài: Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em (Eph 3, 2).

Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân ngoại. Chúng ta thuộc về dòng dõi những người dân ngoại, nhưng lại được thừa hưởng ân sủng ơn cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô để cùng chia phần sự sống. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm cao siêu được truyền ban cho các thế hệ. Nay Chúa cũng đang tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại qua đời sống của Giáo Hội: Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người (Eph 3, 5). Tuy không phải là dân Do-thái, như những kẻ được chọn, nhưng chúng ta hãnh diện tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô qua ân sủng của Ngài. Chúng ta trở thành dưỡng tử và được dự phần trong tiệc cưới Nước Trời.

Cùng đến máng cỏ Bêlem, ngắm nhìn Chúa Hài Nhi, các mục đồng và các đạo sĩ tiến dâng lễ vật, hôm nay chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa Hài Nhi? Kể câu truyện của thánh Giêrôm. Chúa Giêsu hỏi: Giêrôm, con lấy gì mừng Ta nhân ngày Ta sinh ra? Thưa, con xin dâng lòng con. Được, nhưng còn gì nữa? Con xin dâng mọi kinh nguyện và tất cả tâm tình của con. Còn gì nữa? Con xin dâng tất cả những gì con có và tất cả con đây. Ta muốn nữa? Thưa Chúa Hài Nhi, con chẳng còn chi cả? Chúa muốn con dâng gì nữa đây? Hãy cho Ta các tội của con. Ủa, để làm gì? Hãy cho Ta các tội của con, để Ta có thể tha thứ cho con tất cả. Ôi Chúa Giêsu, Chúa làm con phát khóc lên được.

Lạy Chúa, con có nhiều quà lắm nhưng không biết dâng Chúa món gì. Món quà mà con thích thì Chúa lại không ưa. Những món qùa Chúa mong, con lại muốn giữ lại cho mình. Xin cho con biết rộng mở tâm hồn để biết cho đi mà không cần phải so đo tính toán. Con xin dâng Chúa khả năng, thời giờ, của cải và cả những điều con ưa thích. Con dâng cả tội lỗi yếu hèn và sự bất toàn của con, xin Chúa đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.

home Mục lục Lưu trữ