Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1372727

ÁNH SAO SOI ĐƯỜNG

Ánh sao soi đường - Lm. Anmai, CSsR

Từ ngàn xưa, Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Do Thái như là trưởng tử trong gia đình của Thiên Chúa. Do Thái được yêu thương, được nâng niu, được chiều chuộng một cách hết sức đặc biệt. Trong ý định ngàn xưa, Thiên Chúa muốn Do Thái được vẻ vang, được vinh quang. Vinh quang dành cho dân riêng - dân được chọn ấy - hôm nay được nhắc nơi ngôn sứ Iasia:

Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả,

vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.

Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.

Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,

tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:

con trai ngươi từ phương xa tới,

con gái ngươi được ẵm bên hông.

Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,

lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ,

vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,

của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.

Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha:

tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,

đều mang theo vàng với trầm hương,

và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa. (Is 60, 1-60)

Thế nhưng, vì bội nghĩa vong ân, nhiều lần nhiều lúc Thiên Chúa đã oán phạt dân riêng mà Ngài đã chọn. Phạt thì phạt, giận thì giận nhưng Thiên Chúa không đành cắt đứt nghĩa tình của Ngài. Và rồi, bằng nhiều hình thức, nhiều cách, Thiên Chúa đã tỏ lộ tình yêu ấy.

Trong cuộc sống thường nhật, cái gì mà lộ ra trước mắt người ta mà người ta không mất công để tìm kiếm thì những thứ ấy dường như không có giá trị và người ta cũng không trân trọng. Với những gì mà người ta cất công tìm kiếm, khi có được thì thái độ, tâm tình của họ khác hẳn. Họ sẽ hết sức vui mừng, mất ăn mất ngủ với những gì mà họ có được sau những ngày dài vất vả.

Đơn giản nhất là sau khi miệt mài lao động, sau khi miệt mài vất vả thì người thợ lặn mới có thể tìm ra được viên ngọc quý. Ngọc quý nằm sâu tít dưới đáy biển chứ không nằm lộ thiên để người ta nhặt về làm của riêng cho mình.

Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa có đó, Thiên Chúa đã mạc khải về Ngài nhưng chỉ những ai thành tâm tìm kiếm mới được gặp Ngài.

Có những lúc Thiên Chúa xuất hiện chỗ này hoặc chỗ khác, có những lúc Thiên Chúa ẩn mình. Có những lúc Thiên Chúa nói trực tiếp, có những lúc Thiên Chúa nói gián tiếp. Có những lúc người ta cảm giác như Thiên Chúa đi đâu đâu rồi nhưng thực sự Thiên Chúa vẫn có đó trong thế gian này.

Việc Con Thiên Chúa cất tiếng khóc chào đời để cứu độ nhân loại cũng vậy, đâu phải một ngày một bữa mà Giêsu xuống thế gian. Một chặng đường dài của lịch sử, Con Một Thiên Chúa đã được tiên báo qua miệng của các ngôn sứ, qua những người trung gian của Thiên Chúa.

Trở về với cái bối cảnh Bêlem ngày nào, chúng ta sẽ thấy rõ chuyện này.

Đấng Mêsia được loan báo trong Cựu Ước. Sự xuất hiện của Đấng Mêsia đã làm đảo lộn cả thế giới và rồi mỗi người một cách nghĩ, mỗi người một cách kiếm tìm. Chỉ biết là Mêsia đến nhưng không biết đến ngày nào và đến ở nơi đâu. Các ngôn sứ hình như có nói về cái mảnh đất nhỏ bé Bêlem nhưng mấy người chịu tin vì Bêlem là cái chi chi để mà Mêsia đến.

Bêlem ngày nào đó cách đây hơn hai ngàn năm được cái vinh hạnh là đón Đấng Cứu Thế trần gian cất tiếng khóc chào đời. Phải nói rằng Bêlem chẳng là gì cả so với những vùng đất tên tuổi. Bêlem nhỏ bé đến độ chẳng ai thèm để ý đến, thèm ngó ngàng đến ấy vậy mà lần này Bêlem được nổi tiếng.

Cũng để thoả mãn trí tò mò, để an tâm hơn với cái lời đồn đại vua dân Do Thái sẽ xuất hiện thì vua dân Do Thái hỏi các thượng tế và kinh sư. Tưởng các thượng tế và kinh sư không biết chuyện này nhưng các thượng tế và kinh sư trả lời một cách mau mắn câu hỏi của nhà vua về chuyện Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." Trả lời quá nhanh với câu hỏi hóc búa! Cũng đúng thôi vì những kinh sư và thượng tế là những người nghiên cứu rất kỹ về Đấng Mêsia và ngong ngóng Đấng Mêsia ngự đến.

Vốn dĩ kém lòng tin cộng với sự lo lắng về ngai vàng của mình Hêrôđê bí mật mời các nhà chiêm tinh đến hỏi cho ăn chắc. Ông không thể tin được Mêsia đến ngay cái thời của ông và sợ nhất là vua dân Do Thái chào đời ấy sẽ làm cho ông mất ngai thế là ông làm ra cái vẻ tốt bụng, ông đã mời các nhà chiêm tinh đến để hỏi và còn làm bộ làm tịch nếu như gặp "Người" thì chỉ cho vua biết để vua "bái lạy".

Sau khi rời khỏi dinh thự Hêrôđê thì ánh chỉ đường cho những nhà chiêm tinh lại xuất hiện để chỉ đường cho các ông. Nhờ ánh sao soi đường các ông đã đến được nơi cần đến. Các ông đã gặp Hài Nhi và thân mẫu của Hài Nhi. Kèm theo lời chào, lời thăm hỏi đó là lễ vật dâng lên Hài Nhi.

Một lần nữa, các nhà chiêm tinh được báo cho biết con đường để đi về sau khi gặp Hài Nhi. Các nhà chiêm tinh phải đi về bằng con đường khác chứ không được đi về bằng cái con đường cũ mà các ông đã đi.

Các nhà chiêm tinh, Thánh Kinh không nhắc đến là người nào, dân tộc nào nhưng có lẽ họ là dân ngoại. Họ không theo tôn giáo nhưng họ say mê nghiên cứu vũ trụ, họ nghiên cứu về cuộc đời. Căn cứ vào những gì được báo mộng, căn cứ vào những diễn tiến trong cuộc đời và họ đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian. Khởi đầu chắc có lẽ cũng do tò mò, do muốn tìm hiểu sự thật xem có đúng với những gì được tiên báo không nhưng mọi việc diễn ra trước mắt của các ông không có gì có thể chối cãi được. Hài Nhi Giêsu và Mẹ Ngài sờ sờ bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Thấy vậy và ắt hẳn các ông đã tin.

Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Các nay không còn ở trong sách vở, ở trong lý thuyết, ở trong những điều tiên báo nữa mà là sự thật. Sự thật về Ngôi Hai đã được mạc khải nhờ Tin Mừng. Sự thật ấy, việc mạc khải ấy đòi hỏi sự cộng tác, sự tìm tòi của con người. Phần Thiên Chúa, Thiên Chúa từ ngàn xưa đã có và hiện tại cũng đang có. Phần con người, con người phải mất công đi tìm để đáp lại tiếng của Ngài.

Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Êphêsô mới nhắc nhớ chúng ta điều ấy: "Anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô thế nào. Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa". Ep 3, 2-3a5.6

Qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn dùng Thần Khí và các thánh Tông Đồ và các ngôn sứ để mạc khải về Ngài. Chúng ta được may mắn hơn dân Do Thái ngày xưa là ngày nay chúng ta được mạc khải quá rõ ràng về Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện ra bằng cách này hay cách khác, bằng ánh sao này hay ánh sao khác trong cuộc đời chúng ta là những biến cố trong cuộc đời chúng ta. Chuyện quan trọng là chúng ta có nhận ra ánh sao soi đường ấy hay không mà thôi.

Giữa biết bao nhiêu con người thời của Hêrôđê, thời của các thượng tế và kinh sư, thời của các nhà chiêm tinh và của biết bao nhiêu người Do Thái thì chỉ có những nhà chiêm tinh đã được nhận thấy Thiên Chúa một cách nhãn tiền. Ơn phúc ấy đòi hỏi sự góp công, sự tìm tòi và nhờ ơn Chúa.

Chúng ta xin ơn Chúa cho chúng ta cũng biết bắt chước như các nhà chiêm tinh để chúng ta có một lòng say mê tìm kiếm Thiên Chúa như họ. Và, trong cái hành trình tìm kiếm Thiên Chúa ấy có những lúc khó khăn là bị mất dấu do mất ánh sao lạ hay là sự đe doạ của những Hêrôđê thời đại nhưng nếu vững tâm và vững tin thì sẽ được gặp.

Và khi gặp Ánh Sao Soi Đường, khi có Ánh Sao Soi Đường trong cuộc đời của ta, ta cũng nên chăng bắt chước những nhà chiêm tinh là chia sẻ Ánh Sao mà chúng ta bắt gặp trong cuộc đời của anh chị em đồng loại chung quanh ta. Thiên Chúa vẫn muốn, vẫn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là một ánh sao nho nhỏ để cho người khác được xem thấy. Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta chỉ cho mọi người thấy Ánh Sao Soi Đường đích thực chính là Ngài.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Ánh Sao Soi Đường chỉ đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta luôn đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta không bao giờ phải lạc bước giữa cuộc đời đầy phong ba bão táp này và cũng nguyện xin Ánh Sao Soi Đường ban ơn cho chúng ta để chúng ta được chiêm ngắm vinh quang mà Thiên Chúa hứa cho những ai Ngài yêu thương, Ngài ân thưởng.

 

61. Lễ Hiển Linh

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.

1. Ngôi sao của hy vọng.

Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.

2. Ngôi sao thần bí

Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.

Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!

3. Ngôi sao dẫn đường.

Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.

Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.

4. Ngôi sao của vui mừng.

“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).

Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.

Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.

 

62. Chúng tôi đến bái lạy Người - Lm. Trầm Phúc

Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ của ánh sáng, ngày kính nhớ việc Chúa cho dân ngoại nhìn thấy ánh sáng vinh quang của Ngài, và kêu gọi họ hiệp thông với Ngài.

Thánh Mat-thêu viết sách Tin Mừng của ngài cho những giáo dân người Do Thái mới theo đạo, để chứng minh cho họ biết rằng, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang đợi trông. Vì thế, ngài nhắc đến những biến cố lịch sử của Cựu Ước và các tiên tri. Chúng ta không thể nói đến tất cả những biến cố lịch sử đó, nhưng chỉ căn cứ vào trình thuật của Thánh Sử để suy nghĩ về biến cố trọng đại này, để hiểu những gì Chúa muốn nói với chúng ta.

Trình thuật cho thấy ba nhà đạo sĩ mà chúng ta quen gọi là Ba Vua, cũng là những nhà chiêm tinh, là những người xem đường vận chuyển của ngôi sao tinh tú để đoán vận mạng của thế giới. Chúng ta cũng không thể biết ba đạo sĩ này là những người nào, có phải là vua không hay chỉ là những nhà khoa học thời bấy giờ, điều đó không quan trọng. Họ thuộc những sắc tộc khác nhau, cùng nhìn thấy một ngôi sao lạ đặc biệt hơn những ngôi sao họ thường thấy, và theo quan niệm thời bấy giờ, họ cho rằng, ngôi sao ấy là điềm báo cho biết một vị vua thật vĩ đại vừa mới ra đời.

Họ đã lên đường tìm kiếm vị vua lạ thường ấy. Đây là một chuyến đi mạo hiểm, lâu dài và không kém gian khổ. Nhưng họ vẫn ra đi, bất chấp mọi trở ngại có thể xảy ra.

Đi từ ba phương trời khác nhau, họ đã gặp nhau và cùng đi với nhau. Nhưng khi đến Giê-ru-sa-lem, vì sao biến mất. Họ tưởng rằng đã đến nơi. Hỏi thăm, không ai biết. Có lẽ có ai gợi ý và chỉ dẫn họ đến với vua Hê-rô-đê.

Họ nói: “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương đông nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe nói thế, Hê-rô-đê bối rối. Có lẽ ông đã tự hỏi: ông vua nào? Hê-rô-đê là người Do Thái, nên ông biết Thánh Kinh; ông sực nhớ rằng: đúng thế, Đấng Cứu Thế phải đến, và Ngài đến rồi chăng? Ông cho mời các thầy thông luật và các tiến sĩ đến và hỏi riêng họ xem Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu? Họ nói: “Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ tại Bê-lem như lời Kinh Thánh đã viết”.

Hê-rô-đê bối rối, lo âu. Dân Giê-ru-sa-lem xôn xao. Giờ đây họ mới nghe nói đến Đấng Cứu Thế mà họ và cha ông họ đã trông đợi từ lâu, hôm nay đã đến. Nghe một tin trọng đại như thế, họ xôn xao rồi thôi, không mấy người nghĩ đến. Hê-rô-đê, ngược lại, ông chú ý đặt biệt đến ông vua mới sinh này và cặn kẽ hỏi thăm các nhà đạo sĩ đến ngày tháng ngôi sao đã mọc lên và bảo họ đến Bê-lem, điều tra cẩn thận về Hài Nhi và khi về sẽ cho ông hay. Ông sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh…, nhưng với cây dao găm…

Thánh Mat-thêu muốn cho chúng ta thấy sự vô tình của dân thành Giê-ru-sa-lem và thiện chí của những đạo sĩ.

Hê-rô-đê run sợ vì nghĩ rằng ngai vàng của ông sẽ bị đe dọa. Lịch sử đã cho thấy, vào cuối đời ông, vì sợ mất ngôi nên ông đã dìm triều đình trong biển máu.Thế gian là như thế. Không vua nào mà không sợ mất ngôi, và họ không ngại giết tất cả những ai có thể đe dọa ngai vàng.

Vua Giêsu không như thế. Ngài là Vua Tình Yêu, Ngài dám bỏ tất cả vinh quang thần linh của Ngài để đến cứu vớt chúng ta.

Cha Karl Rahner nói: “Lễ Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa đến tìm con người, lễ Hiển Linh là lễ con người đi tìm Thiên Chúa”.

Chúng ta có tìm Chúa không?

Chúng ta đã có Chúa rồi thì phải, chúng ta không cần phải tìm kiếm gì nữa. Làm như Thiên Chúa là một kho tàng, chúng ta đã nắm trong tay rồi, cất kỹ ở đâu đó và chúng ta không phải tìm kiếm gì thêm.

Chúng ta giống như dân Do Thái, tự mãn vì họ đã có Lề Luật, Giao Ước, và xem như được bảo đảm về mọi mặt (như thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma). Nhưng họ không giữ được hồng ân đã ban cho họ.

Những người ở xa, không được biết Chúa lại ra công tìm kiếm và họ đã tìm thấy.

Chúng ta đã lãnh nhận đức tin như một hồng ân nhưng không.

Đừng để muối lạt đi”. Đừng để ánh sáng trong tâm hồn chúng ta lụi tắt. Hãy nuôi ngọn lửa đức tin bằng sự trung thành, bằng cố gắng tìm kiếm.

Đức tin không phải là một bảo vật chúng ta có sẵn mà là một sự sống cần được nuôi dưỡng để lớn lên và trưởng thành. Phải luôn tỉnh thức để vâng theo những thúc bách của Chúa Thánh Thần, vì con người xác thịt của chúng ta nặng nề, ngại cố gắng, chỉ mong sống nhàn hạ dễ dàng.

Các Thượng tế Do thái và Pha-ri-sêu, là những người nằm lòng Kinh Thánh, vẫn không hay biết “giờ Chúa đến viếng thăm họ”. Họ đinh ninh rằng, họ là “con cái Ab-ra-ham, là dân thánh” của Chúa, họ không cần phải cố gắng hơn.

Con đường tìm Chúa không dễ. Ba nhà đạo sĩ cũng trãi qua nhiều thử thách, mất phương hướng khi ngôi sao biến mất, nhưng họ không dừng lại hoặc bỏ cuộc; trái lại, họ vẫn tiếp tục nghe theo tiếng thúc bách trong lòng. Và vì vậy, họ đã được ân thưởng. Những đạo sĩ này chính là của đầu mùa của dân ngoại đã tìm được ánh sáng.

Phải, Chúa Giêsu chính là Ánh Sáng thật, không lụi tàn theo thời gian. Ngài là Ánh Sáng ban sự sống. Giáo Hội đã chọn hai bài đọc Cựu Ước trong sách tiên tri I-sa-i-a để đọc trong lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy rõ hồng ân Chúa ban cho chúng ta trong mùa Giáng Sinh, qua người Con Một.

Trong lễ Giáng Sinh, Giáo Hội nói lên niềm vui Chúa ban: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng”. Tiên tri cho thấy thời thiên sai sẽ có hòa bình và tự do: không còn ách nô lệ, không còn chiến tranh, vì “một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Trong lễ Hiển Linh, lời tiên tri nói đến vẻ huy hoàng rực rỡ của Giê-ru-sa-lem: “Giê-ru-sa-lem rực sáng lên “vì vinh quang của Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Chư dân sẽ đi về ánh sáng của ngươi. Mọi nguồn giàu sang phú túc sẽ tuôn tràn đến ngươi. Vàng với trầm hương sẽ được đem đến cho ngươi, và muôn dân sẽ ca tụng Chúa”. Giê-ru-sa-lem trần gian không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”, nhưng Giê-ru-sa-lem mới sẽ thành nơi quy tụ của muôn dân. Giáo Hội chính là Giê-ru-sa-lem mới đó.

Điều này chứng tỏ ý định cứu độ của Chúa, không dành riêng cho một dân tộc hay cho một số người nào, mà cho tất cả mọi người không trừ ai. Thiên Chúa mời gọi mọi người vào niềm vui cứu độ của Ngài. Chúa sử dụng tất cả mọi tạo vật để chuyển tải sứ điệp của Người.

Đối với các đạo sĩ, Chúa dùng ngôi sao. Còn chúng ta? Chúng ta có thấy trên nền trời tâm hồn một ngôi sao nào không? Chúng ta có tìm kiếm không? Chúng ta có chú ý đến vì sao đang chiếu sáng trên đỉnh núi kia không? Đó là ngôi sao của Tình Yêu giáng thế. Hay chúng ta chỉ chú ý đến những vì sao trần thế: ngôi sao bóng đá, ngôi sao màn bạc, ngôi sao nhạc rock?...

Cầu xin cho một ngày nào đó, chúng ta nhận thấy có một vì sao nhỏ, nhưng khiến chúng ta quên hết mọi sự, để lại mọi sự sau lưng và lên đường tìm kiếm đó là em bé Bê-lem. “Em bé này rồi sẽ ra sao, vì tay Chúa đã đặt trên em?” Ngài là Ánh sáng chiếu soi trong đêm tối của trần gian, Ngài là Tình Yêu.

Tình yêu ư?

Đúng thế, bản thể Ngài là Tình Yêu. Em bé này sẽ tan xương nát thịt thôi, vì tình yêu là như thế. Vận mạng của em là như thế, không thể khác được. Thiên Chúa Tình Yêu đã trở thành em bé Tình Yêu. Nhiều người sẽ yêu em, nhưng cũng có nhiều người sẽ giết em, vì họ không thể là tình yêu.

Em bé Bê-lem đang mời gọi chúng ta, không chỉ chúng ta mà hết mọi người. Đến lượt chúng ta, hãy trở nên những vì sao nhỏ, nhỏ thôi, nhưng là những vì sao hướng dẫn mọi người quanh ta về với Thiên Chúa Tình Yêu. Muốn thế, chúng ta hãy yêu thương. Ánh sáng của tình yêu mới đủ sức chinh phục con người. Chúng ta không thể được cứu rỗi linh hồn một mình, vì Chúa không chỉ cứu chúng ta mà thôi. Ngài muốn muôn dân phải được dự vào bữa tiệc yêu thương của Ngài, và chúng ta chính là những người có nhiệm vụ đem mọi người vào bàn tiệc Vua Trời.

Em bé Bê-lem vẫn có mặt nơi đây, nơi bàn thờ này. Ngài đến vì chúng ta và cho chúng ta. Ngài là của ăn để chúng ta lớn lên và trưởng thành trong niềm tin, nhờ đó chúng ta đủ năng lực trở nên những người mời gọi những anh em khác vào ca tụng Chúa với chúng ta.

 

63. Ánh vinh quang – Trầm Thiên Thu

Lễ Hiển Linh trước đây được gọi là lễ Ba Vua. Tuy nhiên, sự thật họ không phải là những ông Vua mà là các chiêm tinh gia, các đạo sĩ đến từ Đông phương, cũng không phải chỉ có ba ông mà nhiều ông. Với con mắt "nhà nghề", họ đã nhân biết đó là Ánh Sao Lạ, ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã phải tức tốc lên đường đi tìm, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa Thánh Thần.

Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết và nhân loại đã nhận biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai. Lời cầu nguyện "xin cho Danh Cha cả sáng" đã hiện thực.

Ngôn sứ Isaia nói: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi" (Is 60:1-2). Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng.

Vì thế, "chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông" (Is 60:3-4). Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, thế mà lại được làm con của Thiên Chúa, vì Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt chúng ta. Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: "Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60:5-6).

Toàn thể nhân loại hân hoan qua lời cầu nguyện: "Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn" (Tv 72:1-2). Công lý rất cần, có công lý mới khả dĩ có hòa bình đích thực, có công lý thì người nghèo mới được tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Chính Chúa Giêsu đã đến thực hiện công lý. Vì thế, chắc chắn "triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất" (Tv 72:7-8). Đó là vương quốc hòa bình, mỗi công dân đều sống trong hạnh phúc.

Từ khắp nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ "các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự" (Tv 72:10-11). Đức Kitô là Vua Công Lý, "Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ" (Tv 72:12-13). Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công đồng Vatican II.

Thánh Phaolô nói: "Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây" (Ep 3:2-3). Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo.

Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: "Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3:5-6). Vì thế, chúng ta không có lý do gì để "chảnh" hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai.

Thánh sử Mátthêu kể: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2:2). Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê". Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời" (Mt 2:6).

Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài" (Mt 2:7). Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại "đểu thật" chứ không "đểu giả", lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị lừa thì "chuyện đã rồi". Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình có "lệch pha" hay không, vì ai cũng có thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình "tốt lành" nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm.

Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. Thực ra vua Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy đâu, ông ta tính "đường dài" hơn, chơi "nước cờ" cao hơn thôi. Chứ nếu ông ta không tính xa thì ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị "cẩu đầu trảm" rồi.

Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi.

Thấy một Em Bé ngọ nguậy, thế mà họ sụp lạy. Lạ thật! Đó là đức tin của họ. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có tin và sụp lạy Hài Nhi như họ? Có lẽ "hơi bị khó". Nhưng mấy chiêm tinh gia kia không đắn đo, không tính toán, không ngập ngừng, thấy và sụp lạy ngay. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ lại nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát khỏi "nanh vuốt" của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu!

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con sống ngay lành, tâm địa tốt lành, biết nghĩ tốt cho người khác chứ không suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Amen.

 

64. Lễ Giáng Sinh của muôn dân

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.

Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.

Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.

Thưa anh chị em,

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.

Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.

Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.

Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.

May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.

Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.

May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.

Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!

 

65. Ánh sao lạ

Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:

Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.

Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.

Thực vậy, như chúng ta thường xác quyết:

- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.

Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những người con cái Chúa.

Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.

Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.

Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,

Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.

Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.

Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.

 

66. Ánh Sao Nhiệm Mầu

(Suy niệm của Lm An Phong, OP)

Các đạo sĩ ở phương Đông đã nhận ra một vì sao lạ; nhưng chính Hêrôđê và dân cư ở Giêrusalem lại không nhìn thấy. Các đạo sĩ nhìn thấy ánh sao và biết rằng "Vua dân Do Thái mới sinh"; còn dân của Chúa, bao năm mong chờ Đấng Cứu Tinh lại không nhận ra điều gì cả. Các đạo sĩ từ phương Đông đã "đến để triều bái Người"; còn Hêrôđê lại dò hỏi để tìm cách giết Người.

Cái nghịch lý của ánh sao là như thế. Ánh sao đó xuất hiện cho những người thành tâm thiện chí, soi đường cho những người khát khao muốn tìm sự thật; nhưng ánh sao đó lại biến mất trước những người chỉ mải mê với cuộc đời của mình, ánh sao đó làm bối rối và xôn xao đối với những người đang lo xây dựng "ngai vàng" cho cuộc đời mình.

Ánh sao nhiệm mầu đó không phải là ánh sao bình thường, nhưng là dấu chỉ của Thiên Chúa tỏ bày cho con người. Dấu chỉ đó không chỉ hạn hẹp cho những người "Do Thái", cũng như không phải chỉ những người "có đạo" mới nhìn thấy được. Thiên Chúa "Hiển Linh" là Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho mọi người, cho những người chưa biết Chúa. Các đạo sĩ phương Đông là đại diện cho những người thành tâm thiện chí ở khắp nơi trên thế giới.

Người ta không thể chờ một ánh sao lù lù hiện ra trước mặt để chỉ cho biết Chúa đến. Nhưng chính thái độ mở lòng ra, tâm tình chờ đợi, lòng tin tưởng vào Chúa sẽ giúp người ta nhận ra những lời nhắn nhủ của Ngài, sự chỉ dẫn sáng suốt của Ngài, tình thương và hồng ân của Ngài.

Chúa đã đến và Ngài vẫn đang đến. Chúa đã tỏ bày ánh sao của Ngài cho các đạo sĩ và Ngài vẫn luôn tỏ bày ánh sáng nhiệm mầu của Ngài cho những ai chuẩn bị để đón nhận.

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho chúng con

biết phát hiện ra quyền năng của Chúa trong thế giới.

Xin cho chúng con biết nhận ra bàn tay của Chúa trong lịch sử.

Xin cho chúng con

sống với Chúa trong cuộc sống thường ngày.

Lạy Chúa Giêsu, nếu con có con mắt Đức Tin,

chắc hẳn con sẽ nhìn thấy Chúa không ở đâu xa.

Nếu con có đôi chân của lòng Trông Cậy,

con sẽ bước đi trong bàn tay nâng đỡ của Chúa. Và

Nếu con có trái tim của Đức Mến,

con sẽ có thể yêu Chúa nơi mọi người xung quanh con.

Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố để con nhận ra

Chúa đang Hiển Linh trong chính cuộc sống của con.

 

67. Đi Tìm Gặp Chúa

(Suy niệm của Lm An Phong, OP)

Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba nhà Chiêm tinh đến từ phương đông, theo dấu ngôi sao lạ, để "sấp mình thờ lạy" Người, đồng thời "lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến" lên.

Cử hành lễ Hiển Linh là cử hành việc Thiên Chúa đến với dân ngoại. Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai biết tìm kiếm và đón nhận Người.

Đời sống chúng ta là một hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa. Đã là hành trình thì chắc chắn sẽ có những khó khăn, vất vả, nhưng cũng có những lúc bình an, hạnh phúc. Trên hành trình này, Chúa sẽ là niềm vui, niềm hy vọng, vì vinh quang Chúa xóa tan mây mù, bóng tối và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, làm cho "mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng" (Is 60,4). Trên hành trình này, Thiên Chúa đã dùng Thần Khí của Người để cho chúng ta được "thừa hưởng gia nghiệp, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6). Như thế, hành trình này sẽ là hành trình của niềm vui và hy vọng.

Đời sống chúng ta là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa vốn là Đấng "ẩn giấu", tức là Người chỉ tỏ hiện rõ ràng cho những ai thành tâm tìm kiếm Người. Các Kinh sư và cả thành Giêrusalem đã không nhận ra Vị Cứu tinh vừa xuất hiện tại Belem, vì họ có não trạng hẹp hòi, thiếu quảng đại. Còn ba nhà Chiêm tinh đã khám phá nơi hài nhi bé nhỏ chính là Đấng Thiên Chúa gởi đến, vì họ thành tâm tìm kiếm. Trong lịch sử Giáo hội, một Phanxicô đã nhận ra Chúa hiện diện nơi các tạo vật (Trường ca tạo vật), Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận ra Chúa nơi những mảnh đời rách nát "họ đã sống không ra người, cần cho họ chết cho ra người"... Tận điểm của hành trình tìm kiếm là gặp gỡ. Ba nhà Chiêm tinh đã đến Belem, đã gặp được ĐấngCứu thế, đã quì xuống thờ lạy Người. Đời sống kitô hữu là một hành trình gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc mỗi ngày. Sống đức tin thực sự là sống đức ái thực sự. Đức ái thực sự là phục vụ vô vị lợi. Sự phục vụ vô vị lợi dẫn đến những cuộc gặp gỡ. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa nơi con người. Thiên Chúa hiện diện nơi từng biến cố, từng sự kiện, từng con người...

Như thế, đời sống kitô hữu là đời sống đi tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong hoàn cảnh, môi trường hiện tại. Đời sống đó là một hành trình tràn đầy niềm vui và hy vọng, vì có Thiên Chúa đồng hành.

Lạy Chúa,

Xin cho lòng con bình an đón nhận ngày vừa sáng lên.

Xin giúp con luôn tựa nương vào ý Ngài.

Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài

trong mỗi giờ phút của ngày hôm nay.

Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.

Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay

với một tâm hồn thanh thản.

Xin Chúa hướng dẫn tư tưởng và tâm tình của con

trong mọi lời nói và hành động.

Xin dạy con biết cương quyết và khôn ngoan khi hành động,

mà không khiêu khích người khác

hoặc làm cho họ buồn tủi.

Xin cho con sức mạnh

để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.

Xin Chúa định hướng ý chí con.

Xin dạy con cầu nguyện.

Xin Chúa cầu nguyện trong con. Amen.

 

68. Ngôi sao sáng

(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)

Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ quý giá các 'Đạo Sĩ' dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Matthêu 2,11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc; nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà "Thông thái" hay "Đạo sĩ" hoặc "Chiêm tinh" dịch từ chữ 'Magi' (số nhiều của chữ 'magus') là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American Bible dùng chữ 'Magi'; có những bản dịch khác dùng chữ 'Wise Men' (những Nhà Thông Thái).

Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2, 1-12), các 'đạo sĩ' đã được ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị 'Cứu Tinh' mới sinh ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ "Phương Đông" (tức là từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.

Hai Bài đọc trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái.

Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60, 1- 6) đã báo trước việc 'Vinh quang Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.' Bài Đọc II trích trong thơ Ephêsô (3, 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc nhân loại.

Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này gọi là 'The Epiphany' gốc từ chữ Hy Lạp 'Epiphaneia'có nghĩa là 'sự tỏ hiện').

Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các 'đạo sĩ' đến để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.

Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các 'đạo sĩ' cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Tinh. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.

Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta noi gương các 'đạo sĩ': biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc sống phong phú, đầy đủ.

Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv... Đó là những thói xấu thế gian, những thói xấu biến chúng ta thành những 'ngôi sao lạc' dẫn đưa vào nơi tăm tối lầm lỗi.

Chúng ta, tất cả đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu, tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.

Xin Chúa 'thắp sáng lên trong chúng ta' ngọn lửa tình yêu để chúng ta nhận ra 'con đường ngay thẳng', 'con đường công chính' và dám dấn thân đến với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.

 

69. Suy niệm của Lm An Phong, OP

THIÊN CHÚA TỎ HIỆN CHO NHỮNG TẤM LÒNG CHÂN THÀNH TÌM KIẾM NGƯỜI

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Ba nhà khôn ngoan theo dấu sao lạ tìm đến Be Lem và nhận ra Hài nhi, vua dân Do Thái.

Hẳn là chúng ta có thể nhận ra mình nơi hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa.

Hẳn là vị Thiên Chúa vốn "ẩn giấu" chỉ tự bộc lộ cho những ai chân thành tìm kiếm Người.

* Cuộc đời là một cuộc hành trình, là một cuộc lên đường tìm kiếm, tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm an bình, tìm kiếm tất cả những gì làm cho cuộc sống tốt hơn. Với tiếng khóc oe oe chào đời, con người đã là kẻ lên đường; và tất yếu mọi bước đường đời cũng là những cuộc lên đường đi tới. Đã sống làm người là phải đi tới và đi tới mãi, không còn có thể quay đầu thoái lui nữa.

Như thế, hạnh phúc, chân lý, bình an, hy vọng… cũng chỉ đến với những ai sẵn sàng lên đường trong tâm trạng khắc khoải kiếm tìm quê hương đích thực "Lạy Chúa; tâm hồn con khắc khoải cho đến khi nghỉ an trong Chúa" (thánh Augustinô). Có lẽ mỗi người chúng ta đều mang trong mình hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa. Bởi lẽ đức Tin chính là một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, không phải là tin vào một số lý thuyết; và đức Tin chỉ là một quà tặng cho những ai sẵn sàng mở tâm hồn ra để đón nhận.

* Ý nghĩa căn bản của mầu nhiệm hiển linh cũng là ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể: mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra. Nhưng ngay khi tỏ mình ra, Thiên Chúa vẫn là một Thiên Chúa ẩn giấu; Ngài ẩn mình nơi một con người, một trẻ bé bình thường; Ngài ẩn giấu trong một hình bánh rượu; Ngài hiện diện cách ẩn giấu nơi nào có hai ba người tụ họp nhân danh Ngài; Ngài ẩn giấu nơi những người nghèo…

Thiên Chúa vẫn luôn là như thế và Ngài vẫn còn đang ẩn giấu dưới thiên hình vạn trạng trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ "hiển linh" với những tâm hồn bé thơ, những người dám lên đường tìm kiếm, những người biết mở tâm hồn ra để đón nhận; và những người đó sẽ nhận ra Ngài đang ẩn giấu ngay trong những dáng vẻ bình thường của cuộc sống.

Ôi lạy Chúa,

Có phải Chúa đã cho người mù nhìn thấy

và kẻ câm nói được?

Con van nài Chúa thêm một lần nữa!

Xin hãy mở mắt con ra cho con thấy;

Xin hãy mở tai con cho con nghe rõ hơn;

vì con vẫn thường muốn giả điếc làm ngơ.

(Michel Quoist)

 

70. Một ngôi sao để đi theo

(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)

Một ngày lễ đầy màu sắc.

Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược nữa…

Hai sứ điệp.

Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:

Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is 60,3-4: “Chư dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp lại…”).

Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để cứu ông!

Hai áp dụng cụ thể.

Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.

Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.

Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.

Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?

home Mục lục Lưu trữ