Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1373406

BÀ MUỐN SAO THÌ ĐƯỢC VẬY

Bà muốn sao thì được vậy

Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái của Đấng Messia, con vua Đavít và rất đông người Kitô giáo Hy Lạp (ngoại giáo) của Đức Kitô. Vì số người Do thái Kitô giáo ít còn Hy Lạp thì đông nên Đức Giêsu trong Phúc Âm và Giáo Hội là Đức Kitô.

Điểm của đoạn Phúc Âm là "lòng tin". Không phải do thái hay dân ngoại. Lòng tin làm phép lạ. Chúa nhậm lời vì thấy lòng tin. Có lòng tin là tín hữu, là môn đệ, là được Chúa quan tâm, là được nhậm lời. Nhưng đức tin phải tự chứng minh qua nhiêu thử thách. "Thiên Chúa thử thách Abraham đủ cách để coi ông có thật lòng thờ Chúa hay không".

CHÚ GIẢI

Có một người đàn bà Canaan: bà ngoại đạo, không phải Israel.

Kêu lên rằng: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi: Kêu theo kiểu Israel. Bắt chứoc người Israel, họ đang mong đợi một Đấng Messia, con vua Đavít..

Nhưng Người không đáp lại một lời: kêu chưa đúng. Messia là của Do thái. Bà nầy không phải Do thái. Giáo Hội không kêu vậy mà kêu "Đức Kitô" của mọi người không phân biệt Israel hay Hy Lạp (khi viết Phúc Âm thì các Kitô hữu đầu tiên là Israel rồi Hy Lạp đông dần lên).

Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Israel: Con vua Đavít là của Israel, là danh xưng quen thuộc của ngưòi Israel với niềm hy vọng Người sẽ tái lập nhà Đavít và một triều đại thịnh vượng cho Israel.

Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi: Lời cầu xin mà mọi tín hữu thường dùng không phân biệt Israel hay dân ngoại. Đúng rồi.

Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn: Thử thách cuối cùng làm phát sinh đức tin. Thiên Chúa thử thách vì muốn ban ơn chứ không vì sở thích. Không có lòng tin thì không thể có gì. Thử thách có bài bản chứ không lung tung không biết đâu mà rờ. Ngưòi chỉ lập lại cái cách mà người Do thái coi dân ngoại là chó, heo. Ngưòi không như vậy. Bà nầy biết nên không tự ái. Thử thách là để cho thấy đức tin. Thấy đức tin mới cho.

Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được hưởng những mảnh vụng từ bàn ăn chủ rơi xuống: Chó con sẽ chết. Một cách trả lời thản nhiên, chấp nhận. Ơn cứu độ bắt đầu từ ngưòi Do thái, nhưng không chỉ cho thiểu số Do thái mà phải lan rộng đến mọi người.

Lòng tin của bà mạnh thật: Bà hiểu vấn đề và Lời Chúa và đã áp dụng đúng. Vấn đề trước hết là hiểu bản văn Lời Chúa để áp dụng đúng như Chúa muốn. Đó là tin.

Bà muốn sao thì được vậy: Tin sao thì được vậy. Tin không đúng thì không được. Hãy để ý điều nầy. Phải hiểu đúng để tin đúng. Không phải cứ tin mà phải tin cho đúng.

Cách đọc Lời Chúa đơn giản nhất và hiệu quả nhất là nghiên cứu chuyên môn để hiểu đúng bản văn rồi áp dụng dúng thì chắc chắn hiệu quả vì là Chúa muốn vậy. Nhưng không dể. Các công trình nghiên cứu cho tới nay chỉ tham vọng tìm được nghĩa gần nhất với ý tác giả Phúc Âm.

Đoạn Phúc Âm nầy không khó. Điểm cốt yếu dể nhận ra. Đó là: Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao được vậy. Thiên Chúa muốn ban ơn, sẳn sàng ban ơn. Nhưng điềư kiện rất rõ ràng là lòng tin. Là điều kiện tất yếu, không thể thiếu. Là điều kiện đủ không cần gì thêm. Phải biết đúng diều Chúa muốn để tin cho đúng và làm cho đúng. Phải nhờ những nhà chuyên môn hướng dẫn. Nhưng ngừơi ta lại sợ học Phúc Âm. Tự đọc làm sao hiểu. Tại sao có hiện tượng "tôn giáo cực đoan"? Vì hoặc không đọc hoặc tự đọc không hiểu đúng ý Chúa. Biết đúng ý Chúa thì tin rất dễ.

Phêrô sợ và chìm. Theo suy nghĩ riêng thì sợ. Thầy đây đừng sợ. Suy nghĩ theo ý Chúa thì không chìm. Người Do thái coi ngưòi ngoại là chó, heo. Nhưng Thiên Chúa thì không. Hiểu mới tin. Fides clamat intellectum. Intellegas ut credas (Augustin). Nguời ta không tin vì không hiểu vì con ngưòi có trí khôn để hiểu. Hiểu mới có xác tín. Phải chịu khó nghiên cứu. Phải làm hết sức để hiểu Lời Chúa. Còn lại Thánh Thần sẽ bổ khuyết cho. Không thể chỉ xin "ban cho con một đức tin anh dũng" mà có.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con chịu khó nghiên cứu và suy niệm để hiểu Lời Chúa vì như thế mới có được lòng tin mạnh thật và được như ý.


 

12. Chó con cũng được ăn…

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.


 

13. Suy niệm của Anmai

"Dân ngoại" có lòng tin mạnh hơn quân "Giudêu"

Tất cả những người "bén duyên" với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những "người ngoại" ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những "người ngoại" tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người "ngoại" bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người "ngoại" xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.

Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: "Thưa Cha! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon!". Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một "dân ngoại" thời hiện đại.

Nếu có dịp, ai muốn "tai nghe mắt thấy" thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những "dân ngoại" khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.

Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: "Cha Bửu Diệp mắc cười lắm! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người "lương" ("ngoại giáo") không à! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít". Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của "người ngoại" vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà "có đạo" mà ta thường thấy.

Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho "dân ngoại" nhiều hơn con nhà "có đạo". Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà!

Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị "ném đá" vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho "người ngoại" đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha - con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.

Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: "không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con". Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó! Chúa Giêsu kỳ quá! Không! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ "ngoại giáo" này! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ "ngoại giáo" này đã phá vỡ được sự "cứng cỏi" của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người "ngoại" này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Lòng tin của người phụ nữ "ngoại giáo" này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.

Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là "con nhà có đạo", là quân "Giudêu". Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào? Nó còn nồng thắm như cái "thuở ban đầu lưu luyến ấy" khi mới theo Chúa hay không?

Phải nói rằng như người ta vẫn nói: "gần chùa gọi bụt bằng anh". Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu? sâu baon nhiêu? rộng bao nhiêu? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào?

Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?

Chẳng nói đâu xa, trong giới "luật sĩ và biệt phái" thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của "luật sĩ và biệt phái" đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính "luật sĩ và biệt phái" không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.

Hình ảnh người phụ nữ "ngoại giáo" hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ "luật sĩ và biệt phái" thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.

Chúng ta - quân "Giudêu" - có dám tin vào Chúa như người phụ nữ "ngoại giáo" hôm nay không? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như "người ngoại" thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.


 

14. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phê-rô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn tin mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Ca-na-an hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.


 

15. Đức tin là một lộ trình

Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng hàng ngàn người, trong số những người bị chôn vùi trong đống đổ nát có mẹ con bà Suzanna may mắn nằm gọn trong một khoảng trống của những bức tường sụp đổ. Lương thực họ có được là một hủ mứt nhỏ, nhưng chẳng bao lâu hủ mứt hết sạch, đứa con nói với bà mẹ: "mẹ ơi con khát", bà mẹ không biết tìm đâu ra nước cho đứa con, nhưng tình mẫu tử đã thôi thúc bà nẩy ra một hành động táo bạo, bà đưa tay nhặt lấy miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay cho máu chảy ra rồi đưa lên miệng cho đứa con 4 tuổi mút, nhưng không lâu thì đứa con lại kêu lên nữa, bà cắt ngón thứ hai, rồi ngón thứ ba... nhưng may mắn lại đến với mẹ con bà là đội cứu hộ tìm đến và đưa hai mẹ con ra khỏi đống đổ nát an toàn, nhiều người đến chúc mừng và hỏi thăm động lực nào khiến bà làm chuyện đó? Bà chỉ trả lời "tôi muốn con tôi được sống". Báo chí đã nhiều ngày ca tụng tình mẫu tử và sự hy sinh của bà mẹ xứ Armênia này.

Hôm nay thánh Matthêu cũng giới thiệu cho chúng ta một người mẹ xứ Canaan chấp nhận và hy sinh mọi sự chỉ vì đứa con, nhưng Chúa Giêsu không khen ngợi tình mẫu tử, mà Ngài lại khen ngợi về đức tin. Tại sao một người ngoại giáo mà lại được Chúa Giêsu khen ngợi về đức tin?

Thật vậy, Đức Giêsu khen ba ta vì những nguyên nhân sau:

1. Đức tin đến từ việc nghe nói

Điều chắc chắn người phụ nữ Canaan này đã nghe nói về Con Người Giêsu, về những phép lạ Ngài làm, về những lời rao giảng của Ngài... vì danh tiếng của Người lan rộng ra khắp vùng (Mc 3,8). Người phụ nữ này với một tia hy vọng là gặp được ông Giêsu để xin một phép lạ cho con gái bà. Còn chúng ta có được đức tin là ngay từ nhỏ đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu từ trong gia đình, từ trong khu xóm, họ đạo... nhưng tôi có nói cho những người ngoại giáo dang sống chung quanh tôi biết về Chúa Giêsu không? Họ chính là những người Canaan thời đại ở quanh ta.

2. Đức tin có được là nhờ sự kiếm tìm

Người phụ nữ Canaan sau khi nghe về Chúa Giêsu, bà luôn luôn nghe ngóng về tin tức với hy vọng sẽ gặp để xin một phép lạ cho con gái bà. Khi Chúa Giêsu tới Tyr và Sidom thì bà vội vã ra khỏi Canaan mà đến để xin Người "Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi..." danh hiệâu này bà biết được cũng là nhờ nghe nói. Trước lời kêu xin của người phụ nữ này, Chúa Giêsu không những lặng thinh mà con lên tiếng chối từ "Ta được sai đến với những con chiên lạc nhà Ísrael mà thôi". Sự thinh lặng và thái độ chối từ của Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ phải thắc mắc, vì thầy mình vừa dạy "Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho" thế mà hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà này thì thầy mình lại chối từ. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Hằng ngày tôi chạy đi tìm Chúa để xin hết ơn này đến ơn khác, nếu được nhận lời thì coi như là việc của Chúa phải làm, còn Chúa thinh lặng, hay chối từ thì ta buồn phiền, giận ghét, bỏ đạo hay chạy theo những thế lực trần gian, hay còn tệ hơn nữa là chạy theo tà thần. Riêng người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay thì vẫn khiêm tốn, không tuyệt vọng, không than phiền, không thắc mắc...bà không những kêu xin bằng miệng, mà bà còn kêu xin bằng cả con người. Trước sự khiêm tốn đó làm cho Chúa Giêsu không thể chối từ được, nên Ngài dẫn bà vào cuộc thử thách.

3. Đức tin cần được thử thách

Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng "không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con", một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với "con cho" cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên "Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống". Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu "phải bó tay" mà thốt lên "Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy".

Đứng trước những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có chấp nhận hay kêu ca? Phải chăng nhiều lần tôi có thái độ hoán hận Thiên Chúa vì những khó khăn tôi gặp phải. Lúc đó tôi không đủ khiêm tốn để nhận ra ý Chúa trong những thử thách, mà tôi muốn Chúa phải làm theo ý của tôi. Chúng ta đã nghe nói nhiều về Chúa, đã đi tìm Chúa trong suốt thời gian qua, nhưng tôi có hiểu được ý Chúa chưa? Trong đời sống, tôi có đủ khiêm tốn để chấp nhận cho Chúa thử thách không? Mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình và hãy tín thác đời mình cho Chúa. Chúng ta phải tin rằng: "Chúa không bao giờ chơi xấu" Ngài biết sức chịu đựng của ta. Vậy mỗi người hãy biết sống khiêm tốn như người phụ nữ Canaan và dùng lời kêu xin như một lời nguyện tắt để ta có thể kêu lên Chúa bất cứ lúc nào trong ngày: "Lạy Chúa, xin thương xót con", "Lạy Chúa, xin thương gia đình con", "Lạy Chúa, xin thương xót họ đạo con", "Lạy Chúa, xin thương xót Giáo Hội Việt Nam chúng con". Amen!


 

home Mục lục Lưu trữ