Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1370655

BẢN TƯỜNG TRÌNH CỦA GIÁM MỤC

Bản tường trình của giám mục

(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone)

 

Một linh mục du lịch bằng xe lửa qua Ái Nhĩ Lan đang hút một điếu xì gà. Tại một trạm xe, vị Giám mục nổi tiếng ở Dwyer của địa phận Limerick đang đứng trên bực thềm đợi một chuyến xe khác. Ngài thấy vị linh mục hút thuốc, liền phê bình: “Cha thân mến, cha hút thuốc trước công chúng làm gương xấu cho người Ái Nhĩ Lan”. Vị linh mục đáp lại “Tôi không thấy gì là gương xấu khi hút một điếu xì gà”. Và vị linh mục hỏi tiếp” “Xin được phép hỏi: Ngài là ai?”. Câu trả lời: “Tôi là Giám mục O. Dwyer địa phận Limerick. Hơi bối rối, vị linh mục kính cẩn nhìn vị Giám mục một lát rồi khi xe từ từ rời bến. Ngài lẩm bẩm: “Đức Cha có chức vụ cao, Đức Cha cố gắng chu toàn”.

Vâng, Đức Giám mục của chúng ta “có chức vụ cao”. Ngài là Đấng kế vị các Tông đồ. Công việc của ngài thánh thiện và khó khăn. Một bổn phận của ngài là báo cáo đều đặn trực tiếp cho Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay kể rằng: Các Tông đồ trở về với Chúa Giêsu và kể lại cho Người tất cả những gì các ông đã làm và đã giảng dạy. Một cách tương tự, Đức Giám mục năm năm một lần báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình trạng địa phận của ngài và sự liên đới với chính quyền dân sự. Cứ 10 năm Đức Giám mục đích thân đem báo cáo về Roma. Bản báo cáo này gồm: tình hình tôn giáo của địa phận. Số họ đạo, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giáo lý viên, học sinh Công giáo trong trường Công giáo, học sinh Công giáo trong trường công lập, số nhà thương, viện dưỡng lão, số hôn phối, tân tòng, số người rửa tội, số người chết, mọi vấn đề liên quan đến đời sống thiêng liêng. Bản báo cáo cũng bao gồm lời xác nhận chính thức về sự điều hành địa phận: giới trẻ Công giáo, báo chí địa phận, hoạt động từ thiện, đời sống gia đình, việc truyền bá đức tin và những nhân viên cùng ủy ban giúp sức Giám mục.

Ngài cùng báo cáo về tình hình tài chính nữa. Các bạn biết rằng, mỗi năm cha sở phải báo cho Đức Giám mục tình hình tài chính và thiêng liêng của họ đạo. Tới luợt Đức Giám mục báo cáo đầy đủ cho Đức Thánh Cha.

Bởi vì, những bản báo cáo này từ khắp thế giới, nên Đức Giáo Hoàng – Đầu hữu hình của Giáo Hội, am tường tình hình diễn biến trên thế giới. Bạn và tôi có phần sống động trong bản báo cáo đó. Đức Thánh Cha quan tâm đến mọi phần tử trong gia đình nhân loại khắp mặt đất. Vì thế mà Franklin Roosevelt nài nỉ được đích thân làm quan sát viên cạnh Vatican.

Đức Giêsu sai phái các Tông đồ, và các Ngài báo cáo lại cho Chúa. Đức Giáo Hoàng sai phái các Giám mục, các ngài báo cáo lại cho Đức Giáo Hoàng. Đó thực là trở về sinh hoạt của các Kitô hữu lúc đầu.

Bản tường trình chính thức này cho những lời trong kinh nguyện Thánh Thể II ý nghĩa đặc biệt: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu. Để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Gioan Phaolô II, Đức Giám mục… giáo phận chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ. Bạn hãy cầu nguyện lời kinh này với ý nghĩa đó.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

 

 

 

 

37. Suy niệm của Noel Quesson.

HÃY LUI VÀO NƠI THANH VẮNG VÀ NGHỈ NGƠI.

 

Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do Chúa. Thánh Gioan Vianney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vianney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể; phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.

Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn. Nếu mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.

Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.

Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.

Lạy Chúa, xin tạo điều kiện cho chúng con được trở về với Chúa mỗi ngày, mỗi tuần trong việc gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Kinh và qua bí tích hòa giải; nhờ đó chúng con lãnh nhận được mọi ơn cần thiết cho cuộc sống phục vụ hôm nay.

 

 

 

 

 

38. SNLC/643 – Mục tử.

 

Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị Mục Tử của chúng ta.

Chúa Giêsu đã sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để thực hiện những việc Chúa đang làm: “Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ, xức dầu và chữa lành cho các bệnh nhân”. Khi trở về, họ hết sức phấn khởi về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu đã thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm của chủ nghĩa duy hoạt động, họ không còn thời giờ để ăn nữa. Vì vậy, Chúa bảo họ: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.

Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị mục tử nhân lành bảo các môn đệ hãy nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của Thần Khí. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón nhận sức sống từ Thiên Chúa.

Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ vội vã đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người đã giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng Mêsia.

Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt động. Họ đang ngây ngất với những thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là “các tôi tớ phục vụ Lời”, nếu họ muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa Giêsu, Thầy của mình.

Lạy Chúa Giêsu, là vị Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của Chúa.

 

 

 

 

 

39. CSTM/170 – Nghỉ ngơi.

 

Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đavid để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.

Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, cần phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.

Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.

Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mukedi, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bênarét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?” Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?” Mukedi thưa: “Thưa thầy con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.

Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.

Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, rađiô, tivi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?” Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phanxicô Xaviê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.

Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? Sẽ đi về đâu? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Kitô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.

Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.

 

 

 

 

 

40. Kiểm thảo.

 

Các con hãy vào nơi vắng vẻ.

Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng đồng thời cũng để kiểm điểm lại, sau những cuộc hành trình truyền giáo đầy gian nan vất vả.

Với chúng ta cũng thế, giữa dòng đời huyên náo, bon chen và ồn ào với những âm thanh thừa thãi, chúng ta cũng hãy dành lấy những giây phút thinh lặng, để cầu nguyện và kiểm điểm về cuộc sống của mình, từ tư tưởng, lời nói cho đến việc làm, xem có điều chi sai quấy và đi trái với lệnh truyền của Chúa.

Sau đây, tôi xin gợi lên một vài điểm để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và xét mình.

Thứ nhất là về đời sống cá nhân:

Người ta thường nói:

– Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.

Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt đựng những sai lỗi của người khác. Cái giỏ phía sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và lên tiếng phê bình chỉ trích gắt gao những sai lỗi của người khác. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa.

Vì vậy, người ngoài thường nhìn thấy rõ những khuyết điểm của chúng ta, còn chính chúng ta lại không nhìn thấy.

Hai người chửi nhau, đánh nhau và có khi kiện nhau, thì mấy khi có người nhận mình đã sai lỗi. Có những người không ưa chúng ta, thì kêu ca và trách móc, bảo chúng ta là thế nọ thế kia, nhưng chính chúng ta lại không nhìn thấy và không nhận lỗi. Mẹ chồng nàng dâu ai cũng bảo mình là phải, vì thế mới có mâu thuẫn, xích mích va chạm và chiến tranh.

Crexley là một tên cướp nổi tiếng ở Nữu ước với biệt hiệu là hai súng vì trong mình hắn lúc nào cũng có hai khẩu súng. Một hôm bị cảnh sát bao vây trên một cao ốc. Một tay hắn bắn lại, còn một tay thì nguệch ngoạc viết một hàng chữ như sau:

– Dưới lớp áo này, trái tim tôi vẫn ngập tràn tình thương và không muốn hại ai.

Trong khi đó, tòa án kết tội hắn là một tên giết người không biết gớm tay.

Bởi đó, phải biết dừng lại để kiểm điểm xem mình là ai và như thế nào, đồng thời đánh giá đúng mức dư luận người khác nghĩ về mình. Bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:

– Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thầy ta.

Thứ hai là về đời sống gia đình.

Vợ chồng có hòa thuận đoàn kết và yêu thương, hay ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, để rồi luôn có sự xích mích đôi co.

Với con cái, có biết lưu tâm dạy dỗ và giáo dục, nhất là về phương diện đạo đức và luân lý, như dạy bảo kinh bổn, nhắc nhở làm những việc thiêng liêng hay là chúng ta lại làm ngơ và thả lỏng.

Có một câu danh ngôn đã khuyên những bậc làm cha làm mẹ như sau:

– Thà rằng, hiện giờ con cái phải khóc vì được cha mẹ dạy bảo, còn hơn là sau này chính cha mẹ phải khóc vì con cái mình ngang bướng ngổ nghịch.

Thứ ba là về đời sống xã hội:

Chúng ta có biết tránh đi những chuyện gây bất hòa cho bà con lối xóm, như thả gà vịt, trâu bò, phá phách hoa màu người khác? Có biết tránh đi thái độ bênh con cái, có bé xé ra to và thổi phồng những chuyện con nít hay không?

Khi hàng xóm có việc như ma chay cưới hỏi, chúng ta có biết chia vui sẻ buồn, giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy hay không? Cùng sống trong một giáo xứ, chúng ta có biết góp phần xây dựng cho công ích, hay chỉ đứng ngoài làm giám độc, giám xúi chứ không dám làm. Tay chúng ta không làm, nhưng miệng chúng ta thì chỉ toàn phun ra những lời phê bình chỉ trích.

Chúng ta có biết yêu thương đùm bọc lấy nhau hay chia thành năm bè bảy mối, vu oan tố giác kẻ khác, cuối cùng cũng chỉ là làm cỗ cho thiên hạ xơi. Chúng ta có biết thông cảm, hòa giải và xích lại gần nhau, hay mượn cơ hội để trả thù và báo oán.

Sau cùng là về đời sống đạo đức.

Chúng ta có siêng năng đọc kinh tối sớm, xưng tội rước lễ, hay thảng hoặc mới tới nhà thờ. Chúng ta có thực sự là một tín hữu biết sống niềm tin của mình hay chúng ta chỉ là những kẻ mang danh hiệu Kitô hữu, có tên trong sổ Rửa tội mà không hề sống đạo.

Đó chỉ là mấy điều gợi ý để chúng ta kiểm thảo và nhìn rõ con người của mình, vì như người xưa vốn thường khuyên:

– Này bạn, bạn hãy biết mình bạn.

 

 

 

 

 

41. Bốn vị mục tử – Lm. Mark Link, S.J.

 

Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo được hành triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ xem ông như vị anh hùng, người xướng ngôn đồng thời cũng là mục tử của họ. Nếu không có ông, vào những năm ấy đám dân da đen có lẽ chả khác gì đám dân bơ vơ lạc lõng được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Đám dân này được ví như bầy cừu không ai chăn dắt. Cũng giống như Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài thuở xưa, King và các đồng sự ông thường khó được yên thân đi tìm cho mình một chốn an bình vắng vẻ để nghỉ ngơi. Chẳng hạn, một đêm nọ, sau một ngày làm việc mệt nhoài trong vùng Montgomery thuộc bang Alabama, King leo lên giường ngủ bên cạnh bà Coretta vợ ông. Lúc này bà đã ngủ say. Nhưng ông vừa mới chợp mắt thiêm thiếp thì chuông điện thoại vang lên. Ông vội choàng dậy ngay để khỏi làm bà Coretta thức giấc. Lúc bấy giờ một giọng nói giận dữ bên đầu dây kia vọng ra: “Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh nữa, bắt đầu tuần tới xin ông vui lòng đừng bén mảng tới Montgomery nữa”… Nói thế rồi kẻ gọi điện cúp máy ngay. Bất thình lình bao nhiêu nỗi sợ hãi chụp xuống trên người Luther King như một toà nhà đang đổ xuống. Lòng can đảm của ông hầu như bị tiêu tan. Ông đứng dậy đi vào nhà bếp pha một ly cà phê uống cho ấm dạ, đoạn ngồi xuống lặng lẽ suy nghĩ phương cách thoát ra khỏi cảnh ngộ ở Montgomery mà không mang tiếng là một kẻ hèn nhát.

Lúc bấy giờ với chút ít can đảm còn sót lại, ông gục đầu khấn xin Chúa bằng những lời sau đây: “Lạy Chúa, con đang đảm nhận sứ vụ mà con nghĩ rằng chính đáng, nhưng giờ đây con vô cùng sợ hãi. Dân chúng đang mong chờ con lãnh đạo, và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì chính họ cũng sẽ trở nên yếu hèn nhát đảm. Nhưng con đang ở nẻo đường cùng và chẳng biết phải làm sao đây. Con không thể nào một mình đương đầu nổi trách nhiệm này nữa”.

Đoạn nổi bật nhất trong lời cầu nguyện của Tiến sĩ King là câu này: “Dân chúng đang trông chờ con lãnh đạo họ và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì họ cũng sẽ trở nên nhát đảm”. Nếu cần mượn lại cách diễn đạt của bài Phúc Âm hôm nay, lời cầu ấy có thể diễn tả cách khác như sau: “Họ sẽ trở nên như bầy chiên không người chăn”.

Tất cả các cha sở cha phó, các giáo sư, các bậc cha mẹ đều có thể dùng những lời cầu nguyện trên của tiến sĩ King để áp dụng cho chính mình. Thực thế, có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy không thể nào vác nổi gánh nặng đè trên chúng ta. Có nhiều lúc trong đời chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: “Cha ơi, nếu có thể được xin cất chén đắng này xa con” (Mt 26:39)

Trong những cơn khủng hoảng như thế này, chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên làm điều Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta nên làm điều Martin Luther King đã làm. Chúng ta nên làm điều các Kitô hữu luôn luôn làm, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa.

Ngay sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài trong vườn Giêtsêmani, thì theo lời kể của thánh Luca: “Một thiên sứ từ trời hiện đến an ủi đỡ nâng Người” (Lc 22:43). Và ngay sau khi Tiến sĩ King cầu khấn cùng Chúa vào cái đêm đáng ghi nhớ ở Montgomery đó, ông nói rằng ông đã cảm nhận được “sự hiện diện nâng đỡ của Chúa mà trước đó ông chưa hề cảm thấy”.

Bài đọc này quả thực rõ ràng đối với chúng ta khi chúng ta cảm thấy bị đè bẹp dưới một gánh nặng nào đó, chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu và Martin Luther King dâng lời cầu nguyện lên cùng Chúa.

Một trong những vị chỉ huy quân đội Liên Bang trong cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ là tướng Sickles. Ông kể cho chúng ta biết ngay trước trận đánh ở Gettysburg, Tổng thống Lincoln cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên vai mình. Lập tức ông cầu nguyện với Chúa. Chính Lincoln đã nói về lần cầu nguyện ấy như sau: “Chưa bao giờ tôi cầu nguyện hăng say đến thế. Phải chi tôi có thể lập lại nguyên vẹn lời nguyện này. Tôi cảm thấy mình cần phải đặt tất cả niềm tín thác nơi Thiên Chúa tối cao. Chỉ một mình Ngài mới có thể cứu đất nước khỏi sự diệt vong sau khi quì gối đứng lên, tôi cảm thấy lời cầu xin đã được Chúa chấp thuận. Tôi chắc chắn rằng lời cầu nguyện đã có kết quả”. Cũng một cách thức tương tự nhưng hơi khôi hài hơn, Harry Truman đã kể cho các phóng viên sau ngày đầu tiên nhận chức Tổng thống của ông: “Các bạn thân mến, nếu các bạn đã từng cầu nguyện thì xin hãy cầu nguyện cho tôi lúc này đây. Tôi chẳng bíết quí bạn đã từng bị bó cỏ khô nào đè trên người chưa, chứ nếu các bạn hỏi tôi về những gì đã xẩy đến cho tôi ngày hôm qua, thì tôi xin thưa là tôi đã cảm thấy như mặt trăng, các vì sao và các tinh tú đổ sụp xuống trên tôi vậy”.

Khi cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên mình, cả bốn vị lãnh đạo: Chúa Giêsu, Abraham Lincoln, Harry Truman, Martin Luther King đều đã làm cùng một hành vi, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Và cả bốn vị đều được Chúa ban lòng can đảm và sức mạnh để tiếp tục bổn phận hướng đạo dân chúng. Đó là một sứ điệp thực tiễn đối với chúng ta. Có thể tóm tắt như sau: khi nào cảm thấy gánh nặng đè xuống trên mình, chúng ta cũng phải biết cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta như Ngài đã từng nâng đỡ bốn vị mục tử nói trên.

Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại Thánh vịnh đáp ca ngày hôm nay:

Chúa là mục tử tôi, tôi nào thiếu thốn chi. Ngài hướng dẫn tôi qua đường chính nẻo ngay vì danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn gánh nặng, tôi cũng không nao núng. Vì Chúa bước đi cạnh tôi. Ngài củng cố và tăng sức mạnh cho tôi. Khi đời tôi bước vào buổi xế chiều như mặt trời xế bóng, Ngài sẽ mang tôi vào nhà Ngài, để tôi được sống với Ngài muôn đời muôn kiếp.

 

 

 

 

42. Nghỉ ngơi.

 

Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.

Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn chúng ta nhiều, nhưng chúng ta cao quí hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? tại sao chúng ta quí trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?

Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.

Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.

Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi, chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ sáng ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.

Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng nhọc mệt ấy… Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.

Vì thế, có người đã nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị áp huyết cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…

Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.

Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giãn, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.

 

 

home Mục lục Lưu trữ