Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1371029
BÁNH SỰ SỐNG ĐẾN TỪ TRỜI
Khát Trường Sinh
Ai trong chúng ta cũng muốn mình sống lâu và trẻ hoài. Nếu có cách gì làm cho mình khoẻ, trẻ và sống lâu thì chúng ta không ngại thử ngay.
Vào thế kỷ thứ 16 khi Kha Luân Bố tìm ra miền đất mới thì có tin đồn rằng miền đất mới có suối nước thần nếu ai tắm và uống nước đó sẽ trẻ trung hoài. Ponce de Leon đã quyết định đóng tầu đi thám hiểm đến miền đất mới để tìm giòng suối trẻ trung đó.
Hoàng Đế Chin của Trung Hoa, người xây Vạn Lý Trường Thành cũng rất sợ già và sợ chết. Một hôm người cận thần tâu trình rằng ở bên Biển Đông có hòn đảo địa đàng. Người dân trên đảo đã khám phá ra bí mật của sự sống trường sinh. Hoàng Đế liền cho lệnh chất vàng bạc châu báu lên tầu và khởi hành đi về Biển Đông để trao đổi lấy thuốc thần trường sinh.
Những ai coi phim tầu cũng rất quen thuộc với giấc mơ đi về miền núi xa xôi hoang vắng nào đó để tìm cho đuợc củ sâm ngàn năm. Củ sâm đó có sức làm cho người ta phục hồi sức sống, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu không chết.
Trẻ trung và sống lâu hạnh phúc là giấc mơ của con người ở mọi thời đại. Con nguời luôn luôn mong muốn sống mãi sống hoài. Nếu bị bệnh là lo tìm Thầy chạy thuốc. Nếu có khiếm khuyết về dung mạo hay hình dáng thì lo tìm cách sửa trị hoặc che đậy đi. Nhưng xưa nay chưa có ai thực hiện được hoài bão sống trường sinh như thế. Chỉ có một người hứa với chúng ta bí mật sống trường sinh và người đó đã thực hiện được. Vị đó là chính Đức Giêsu Kitô.
Bánh Sự Sống Từ Trời
Đức Giêsu đã qủa quyết với những người theo Ngài: “Ta là Bánh Hằng Sống bởi trời xuống… Ai tin vào ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống… Ai ăn bánh này thì khỏi chết, nhưng sẽ sống đời đời. Bánh ta ban là chính thịt ta để cho thế gian được sống” (Gio. 6:41-52).
Ponce de Leon đã vất vả thám hiểm tới miền đất mới để tìm giòng suối nước có sức làm trẻ trung, nhưng chẳng thấy. Hoàng đế Chin đến hòn đảo ở biển đông với vàng bạc châu báu để tìm đổi lấy bí mật trường sinh, nhưng chẳng có. Nhiều người tìm uống các dược chất để hy vọng có sức khỏe lâu bền, nhưng rồi cũng chết. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đến thánh đường này để nghe lời Chúa về sự sống đời đời, và để được ăn bánh trường sinh Đức Giêsu hứa ban. Chúng ta không phải vất vả trèo non lội suối hay đi đâu xa để tìm kiếm thuốc trường sinh. Chúng ta không phải bỏ tiền mua dược phẩm để được sống trường sinh. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là suối nước trường sinh đang hiện diện với chúng ta nơi đây, và chúng ta có thể tiếp nhận Ngài miễn phí. Tiếp nhận Ngài là chúng ta tiếp nhận sự sống đời đời. Tiếp nhận Ngài là chúng ta được bổ sức cho tinh thần sống.
Elia Được Dưỡng Sức
Elia trong bài đọc thứ nhất, đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng trong lúc buồn chán đó Thiên Thần của Chúa đã đến đánh thức ông dạy để được nuôi dưõng bằng bánh bởi trời. Ông đã nghe lời của Thiên Thần Chúa, chỗi dạy ăn bánh, và ông đã được bồi dưỡng có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình đi về núi thánh của Thiên Chúa. Giống như Elia, nhiều lần trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối vì những cám dỗ và tội lỗi, vì những nặng nợ vất vả trần thế. Chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần của Thiên Chúa qua Giáo Hội thức tỉnh chúng ta. Chúng ta cần chỗi dạy để nghe lời Chúa, và được bổ dưỡng bằng của ăn hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta có đủ sức cho cuộc hành trình đức tin. Chính lúc chúng ta thấy mệt mỏi vì phải thức khuya dạy sớm, làm việc nhiều giờ, vì vất vả lo lắng trong cuộc sống, là lúc chúng ta cần thức tỉnh, và chỗi dậy, để tiếp nhận của ăn hằng sống. Của ăn có khả năng nuôi dưỡng sức mạnh và bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta trên con đường đi về núi Thánh.
Dấu Có Sự Sống
Thêm vào đó, nguyên việc tin tưởng và tiếp nhận Đức Kitô là Bánh Sự Sống từ trời chưa đủ bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời trong mình. Tiếp rước Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta cần phải trở nên giống như Ngài. Chúng ta cần phải cố gắng sống như lời khuyên dạy của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác… Anh em hảy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau.” Thanh trang tâm hồn chúng ta bằng những nhân đức ấy; rồi biết lắng nghe lời của Thiên Chúa và thường xuyên đến thánh đường tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách sốt sắng là chúng ta có sự sống trường sinh trong mình ngay từ bây giờ. Sự sống đó chúng ta có thể cảm nghiệm được và những người chung quanh chúng ta cũng có thể nhận thấy nơi chúng ta.
59. Lương thực trên đường lữ hành
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Bánh và Nước
Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng cháy, đói khát, vất vả. Họ muốn quay lại Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã ban bánh Manna từ trời rơi xuống cho họ ăn và nước từ tảng đá hóa cương chảy ra cho họ uống.(x Đệ Nhị Luật 8,2-3,14b-16a).
Tiên tri Elia tìm đến núi Horeb còn gọi là Núi của Thiên Chúa để trốn thoát sự truy lùng của Vua Ai cập. Ông phải mất 40 ngày đêm đói khát trong hoang địa đến độ kiệt sức và nản chí nói “Đủ rồi đó Chúa ơi! Chúa cất mạng tôi đi”. Nhưng Thiên Chúa đã sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông để ông đủ sức tiến về núi Thánh (x I Rg 19:7)
Những người ăn Manna và cả Elia ăn bánh của các Thiên thần, thảy đều đã chết. Đúng như lời Chúa Giê-su nói hôm nay: “Ta là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6,58)
Thịt và Máu
Bánh và Nước của Cựu Ước là hình ảnh tiên báo Chúa sẽ ban loại Bánh và Nước mới trong Tân Ước, chính là Thịt và Máu của Chúa Giê-su, như chính Chúa đã nói: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời . Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã thực hiện điều Ngài đã nói trên đây, khi Ngài cầm tấm bánh, nâng chén rượu đọc lời chúc tụng và trao cho các tông đồ: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình ta, sẽ bị nộp vì các con” “Hãy cầm lấy mà uống vì nầy là Máu ta, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Ngay sau đó, Ngài còn ủy thác cho các tông đồ “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Đó là lễ phong chức linh mục đầu tiên trong Hội Thánh Công Giáo.
Như vậy, ngay sau lời truyền phép của Linh Mục, bánh và rượu đã trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su cho chúng ta ăn và uống để được sống đời đời.
Sự Sống Đời Đời
Nếu Manna đã nuôi dân tiến về Đất Hứa, thì Mình Thánh Máu Thánh Chúa là của ăn của uống cho chúng ta đủ sức tiến về quê trời, về sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy, chính là cung lòng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ấy vậy, mà chúng ta vẫn gọi Mình Thánh Máu Thánh Chúa là “của ăn đàng”, của ăn trên đường đi. Và khi rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, có thể nói, chúng ta rước lấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị trong lòng.
Nếu nhờ Bánh Thiên Thần mà Elia đã đủ sức vượt khỏi sự truy lùng của Vua Ai-cập, thì những ai yêu mến và siêng năng rước lễ cũng đủ sức thắng vượt những cơn cám dỗ, những sự truy lùng của sa tan, của tội lỗi, để xứng đáng hưởng sự sống đời đời.
Sự sống đời đời mà chúng ta nhận lãnh nơi Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giê-su, không chỉ là sự sống sau cái chết phần xác, nhưng còn là sự sống trong linh hồn ta ngay lúc nầy, khi còn sống trên dương thế. Đó còn là sự sống đầy tình bác ái huynh đệ của con cái Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giải thích rằng: cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, chúng ta cùng trong một thân thể của Chúa Giê-su Kitô. “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. (x.1cor 10,16-17)
Lương thực trên đường lữ hành
Theo Thánh Phao-lô, cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, cùng sống trong một thứ “Lương Thực trền đường lữ hành về Quê Trời”, mà từ nhà đạo thường gọi là “Của Ăn Đàng”, chúng ta sống trong cùng một “thân thể”. Vậy nếu Mình Máu Thánh Chúa Giê-su đã trở nên của ăn đàng cho bạn, cho tôi, và trở nên mối dây hiệp nhất tôi bạn và mọi người trong cùng một nguồn sống, thì thiết nghĩ, bạn và tôi cũng phải trở nên “của ăn đàng” cho mọi người.
Tình yêu thương nhau, lòng bác ái, sự khiêm tốn phục vụ anh em là tấm bánh bẻ ra cho đời, là hình ảnh sự sống đời đời đang sống động trong cuộc đời dương thế
Những cố gắng hy sinh của cha mẹ đến độ gầy hư đi, hao mòn đi để bảo đảm cho con cái sự sống phần xác, chắc chắn sẽ mang một ý nghĩa thánh thiện, ý nghĩa hy tế, nếu những hy sinh ấy kết hiệp ước muốn của Chúa Giê-su là chia sẻ của ăn đàng cho nhau, chia sẻ tình yêu cho nhau.
Một chiếc bánh, một chén cháo, một tô hủ tiếu, một viên thuốc, một viên gạch, một tấm áo, một tấm chăn, một vài trăm ngàn đều… có thể có giá trị thánh thiện, và thiết tưởng, chỉ có giá trị thánh thiện khi ta cho đi với sự thôi thúc tự bên trong của Tình Yêu Chúa Giê-su Thánh Thể: Tình yêu đòi dâng hiến, đòi cho đi vì hạnh phúc của người khác.
Thánh Thể Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng, của ăn đàng cho linh hồn, đã cụ thể sống động thành những của ăn phần xác, thành cơm bánh, thành áo mặc, thành nhà cửa, thành thuốc men, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, thành những của lễ dâng trong thánh lễ thường ngày mà bạn và tôi đang cử hành trên hành trình dương thế.
Thánh Phaolô còn cụ thể tấm bánh bẻ ra ấy bằng một đời sống yêu thương, hiền hòa: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,30) và “hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta”. (Ep 5,2)
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa đã ban Thịt và Máu Chúa cho linh hồn chúng con được sống và sống đời đời. Xin cho chúng con biết sống trước đời sống phục sinh ngay trên dương gian này bằng việc vui lòng trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống, bằng tình yêu thương, bác ái và hiệp nhất huynh đệ trong Chúa. Amen.
60. Đường lên Núi Chúa
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Đời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến với con người. Biết bao người đã không leo đến đỉnh núi… Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải con đường sáng dẫn đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu đã đi vào một trần gian đầy những con người thiển cận. “Chúa họ thờ là cái bụng.” (Pl 3:19) Đi từ nhu cầu cấp thiết và căn bản nhất, Đức Giêsu muốn mạc khải về chính bản thân: “Tôi là bánh từ trời xuống,” (Ga 6:41) để đem lại sự sống vĩnh cửu. Quả thực, “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6:51) Nói khác, để lên “núi của Thiên Chúa,” (1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang lại sự sống đời đời.
Chính nguồn gốc và năng lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho “người Do thái xầm xì phản đối,” (Ga 6:41) vì họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức tin này vượt quá nhận thức về thực tại và nguồn gốc tầm thường của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì trước khi đón nhận nước và manna trong sa mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). “Xầm xì là một điển hình về ‘lòng bất tín.'” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong tục thời đại. Nói khác, đó là phản ứng của con người tự nhiên.
Rõ ràng đức tin không phải là thái độ tự nhiên. “Không phải con người, nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong công cuộc cứu độ.” (Life Application Study Bible 1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi sáng, không ai có thể tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có thể đi đến một lựa chọn quyết liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu. Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy.” (Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp điển hình. Ông đã từng chống đối quyết liệt niềm tin vào Đức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn thân theo Chúa.
Trên hành trình về nhà Cha, nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh liệt. Trước hết, họ “được Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54:13; Gr 31:34) để có thể đặt tất cả niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Những tia nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con người chứng tỏ mức độ tự do cao cả nhất. Thực tế, không phải cứ biết là tin. Đức Giêsu chứng minh: “Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” (Ga 6:45) Có nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe, đón nhận những gì hợp sở thích và quyền lợi riêng. Họ “thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3:31)
Trái lại, “chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Đạt tới đỉnh cao ấy, con người phải trải qua một hành trình rất dài, dài hơn “cuộc hành trình lên núi Khôrếp” (1 V 19:4) của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có lương thực? Thực tế, không có một thứ lương thực trần gian nào có thể giúp con người đi đến cùng đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái đã cho Đức Giêsu thấy: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết.” (Ga 6:49)
Không có bánh trường sinh là chính Đức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa? Không những “ai ăn (bánh này) thì khỏi phải chết” (Ga 6:50), mà còn “được sống muôn đời” (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy, Đức Giêsu trở thành lương thực vô cùng cần thiết. Người còn nói rõ: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà Cha. Muốn được thế, Đức Giêsu “đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt,” (Ep 5:2) và trở thành “bánh hằng sống” (Ga 6:51) bổ dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia, “bánh hằng sống” có khả năng làm cho tín hữu “sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6:44)
Như thế “bánh hằng sống” vừa là của ăn đàng vừa giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành trình trần gian, nhờ “bánh hằng sống”, người tín hữu có khả năng “bắt chước Thiên Chúa” (Ep 5:1) để “sống trong tình bác ái.” (Ep 5:2) Nói khác, nhờ “bánh hằng sống”, các tín hữu hiệp nhất với nhau. Thật thế, “bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1 Cr 10:17)
Hiệp nhất lớn nhất tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể. Thật vậy, “cầu nguyện đem lại niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của Người. Đây là sức mạnh lời cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn cứu độ.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín hữu liên kết với Chúa Cha và “có thể đón nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn vẹn sự sống của Người.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Không được “bánh hằng sống” ấy bổ dưỡng, không thể có sức mạnh vượt qua những cơn đau buồn và sẽ “lâm vào cảnh cô độc và chết chóc, vì Chúa là nguồn sống.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, “bánh hằng sống” là một mối lợi lớn nhất giúp người lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.
61. Một Chúa Kitô đến trong xác thịt
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh: Bánh Sự Sống đây chính là bản thân Người, và việc ăn bánh đây, trên hết và trước hết, là tin vào Người. Tuần này, tiếp tục cùng đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mạc khải hơn nữa về Bánh Sự Sống: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống”, một lời minh định làm thính giả hết sức thắc mắc và đầy kinh hoàng, thậm chí trong cả thành phần môn đệ của Người, như bài Phúc Aâm hai tuần nữa cho thấy. Thật vậy, tất cả những điều Người mạc khải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và tuần này cũng như tuần sau đều là một mầu nhiệm, mầu nhiệm thần linh vượt tầm mức hiểu biết tự nhiên của con người, một mầu nhiệm chỉ có đức tin mới thấu triệt, một mầu nhiệm chỉ có chính Đấng mạc khải mới làm cho con người chấp nhận dù không hiểu. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định “không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không cho phép”.
Đúng thế, một đàng con người trần gian hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu triệt được Thiên Chúa, đúng như Ngài là, nếu chính Ngài không tỏ mình Ngài ra cho họ biết. Thế nhưng, chính lúc Ngài tỏ tất cả bản thân của Ngài ra qua Con Người Giêsu Nazarét thì nhân loại, qua dân Do Thái, cũng không thể nào hiểu nổi: Làm sao Thiên Chúa có thể trở thành một con người? Thiên Chúa thực sự cần phải hóa thành nhục thể vô cùng thấp hèn hay sao? Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Thiên Chúa hay sao? Đó là lý do trong bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này dân chúng đã đặt vấn đề về nguồn gốc của Đấng công khai tuyên nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”, ở chỗ, trước mắt họ Đấng ấy chỉ là một con người như họ, đã từng sống với họ, một con người có cha mẹ anh chị em họ hàng họ đều quen biết, thế mà họ lại nghe Người phán Người từ trời mà xuống.
Nếu trước thời điểm và biến cố Lời Nhập Thể con người tự bản chất hướng về tín ngưỡng có khuynh hướng đa thần và tôn thờ ngẫu tượng thế nào, thì sau khi “ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người càng ngày càng bớt mê tín dị đoan, càng bớt đa thần như vậy. Tuy nhiên, sau khi “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), một hiện tượng tôn giáo khác đã xuất hiện, trực tiếp liên quan đến Kitô giáo và thuộc nội bộ Kitô giáo, đó là, con người càng văn minh khoa học lại càng trở thành vô thần, lại càng trở nên thành phần phản Kitô, anti-christ, tức là thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (x 2Jn 7; 1Jn 4:2), hay không chấp nhận Con Người Giêsu là Đức Kitô. Hiện tượng này hiện nay đã quá hiển nhiên ở thế giới Tây Phương, thế giới Kitô giáo, một thế giới đã từng truyền bá đức tin, truyền bá hạt giống Kitô giáo khắp nơi trên thế giới, nhất là vào thời kỳ tân thế giới cuối thế kỷ 16, lại là một thế giới đang phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, đang sống như không hề có Thiên Chúa. Họ chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống, bằng cách dẹp bỏ lề luật tự nhiên và luân lý của Ngài, như việc hợp thức hóa vấn đề ly dị và phá thai, mà còn thay thế Ngài bằng các thứ ngẫu tượng hiện đại là chủ nghĩa duy nhân bản và duy thực dụng, chủ nghĩa chỉ biết pro choice theo quyền làm người vô lối của mình, chỉ biết cá nhân và hưởng thụ, như việc cho phép hôn nhân đồng tính phái và việc thực hiện các phương pháp tạo sinh ngoại nhiên (cấy thai, cloning v.v.).
Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (xem Mt 20:18-19; 16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen 3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!
Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Kitô hữu chúng ta có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản Kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn 2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn 7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt 24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt 24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt 16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem Mt 16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt 16:23), tức còn khuynh hướng phản Kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn 1:1), như các tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.
Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt 16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn 1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản Kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là 4 dấu hiệu cho thấy đâu là thành phần Kitô giả hay tinh thần Kitô giả, thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt, được thể hiện hay bộc lộ qua những dấu hiệu, thứ nhất, tỏ ra không tôn phục con người đại diện Người trên trần gian; thứ hai, tỏ ra không tôn kính Bí tích Thánh Thể; thứ ba, tỏ ra không tôn sùng Mẹ Maria là Vị đã thụ thai và hạ sinh Người; thứ bốn, tỏ ra không tôn trọng thành phần anh em hèn mọn của Người trong xã hội loài người, hay ghê tởm thánh giá đau khổ Chúa gửi đến cho.
Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản Kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.
Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản Kitô là họ không tin hay coi thường Bí tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản Kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản Kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.
Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản Kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil 3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) thực sự làm người nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), và Lời Nhập Thể thực sự là Bánh Sự Sống từ trời xuống, là Mạc Khải Thần Linh, thì quả thực, đúng như Người đã khẳng định: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống”. Vì qua xác thịt của Người, một Thánh Thể Vượt Qua, thế gian đã được cứu độ, một Giáo Hội đã được hạ sinh, một nhân loại sẽ được canh tân “trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24).
62. Suy niệm của Martin Vũ Thái Hiệp, OP
HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH, NGƯỜI SẼ BỒI DƯỠNG CHO
Kính thưa cộng đoàn!
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể. Đây là một mầu nhiệm cao cả vượt quá trí hiểu của con người khiến dân chúng không dễ dàng đón nhận. Trước sự cứng lòng tin của họ, Đức Giêsu không nản lòng. Ngài kiên trì cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ và trích dẫn hình ảnh bánh Manna trong Cựu Ước, để liên hệ đến Manna mới từ trời xuống là chính thịt và máu Người.
Lần mò tìm về lịch sử, theo tiếng Do Thái, từ Man-na có nguồn gốc là từ Man hu (có nghĩa là: cái gì vậy?). Vì suốt bốn mươi năm trong sa mạc, mỗi sáng Thiên Chúa cho một lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Thấy thế, con cái Israel hỏi nhau: “Man hu?” Nghĩa là: “Cái gì vậy?” (x. Xh 16,13-15). Rồi về sau dân Israel gọi bánh ấy là Man-na.
Có một nét gì đó tương đồng ở đây. Cũng thế, Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cực linh. Hẳn rằng chúng ta sẽ chẳng hiểu cho đủ mầu nhiệm ấy nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Lặng quì trước Thánh Thể, chúng ta cũng đã bao lần hỏi Chúa: Man hu, cái gì vậy?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con biết mắt phàm làm sao thấy được mầu nhiệm thanh cao. Vậy xin Chúa vén mở bức màn che khuất mà mặc khải cho chúng con hiểu thấu Thánh Thể tình yêu của Ngài, để lòng tin của con được thêm kiên vững. Xin tỏ cho trí hiểu non nớt của con biết máu thịt thực sự của Ngài trong Thánh Thể Chúa để lòng con thêm hớn hở vui mừng mỗi khi được đón Chúa ngự vào tâm hồn.
Lại nói về dân Israel, năm xưa dân Israel than trách với ông Môsê và Aharon vì ngày nào họ cũng chỉ được ăn một thứ bánh Man-na nhàm chán. Lúc này, họ hồi tưởng và ao ước được ăn thịt, cá, rồi cọng hành cọng tỏi… ở Ai Cập dù có phải làm nô lệ trong kiếp tù đày gian khổ. (x. Ds 11,4-6)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhân loại ngày nay cũng vậy. Người ta chán ngán việc đi lễ hằng ngày và chỉ được rước Thánh Thể Chúa dưới hình bánh miến đơn điệu. Lúc này, người ta lại thèm muốn những lạc thú trong cõi hồng trần giả dối, những cái hiện thực thấy được. Nếu năm xưa dân Israel muốn được ăn thịt hơn bánh Man-na Chúa ban, thì giờ đây nhân loại cũng hám danh, thèm lợi, thèm đi dự tiệc cưới, sinh nhật… hơn là đi tham dự thánh lễ và được hiệp thông trong tình yêu của Bí tích Thánh Thể. Quả thực, trái cấm nào cũng ngọt ngào và đường dẫn đến địa ngục bao giờ cũng bằng phẳng và thênh thang.
Hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải rằng Ngài là Bánh Trường Sinh từ trời xuống. Và ai ăn Bánh ấy sẽ được sống muôn đời. Quả thực, cái gì bởi đất mà ra thì thuộc về đất là cõi phù du tạm bợ. Ví như tiền tài, danh vọng, hay thậm chí là cả thân xác của chúng ta cũng có ngày sẽ trở về cát bụi, là nơi nó đã xuất phát ra. Trái lại, cái gì bởi trời mà ra thì thuộc về trời, là vĩnh cửu và viên mãn. Bất cứ cái gì bởi trời thì tốt đẹp.
Quả vậy, Đức Giêsu là bánh bởi trời, Ngài đã trở nên như nguồn lương thực vĩnh cửu nuôi dưỡng ta, cho ta được trường sinh và dồi dào luôn mãi. Mỗi ngày, chúng ta được Giáo hội mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh. Và nơi đây Giáo hội tái diễn lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể tình yêu.
Như dân Israel năm xưa trong sa mạc khát cháy được Chúa ban Man-na cho no thỏa, thì ngày hôm nay, lòng trí khô héo cằn cỗi của chúng ta cũng được chan chứa niềm phấn khởi vui mừng nhờ được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con được đến dự Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày, để hồn chúng con được no thỏa và được hạnh phúc viên mãn khi đón nhận chính thân thể thực sự của Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin Ngài thương thứ tha cho bao lần con hờ hững trước Thánh Thể Ngài. Xin cho con không cố hiểu để yêu, nhưng là luôn cố yêu để hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể hơn nữa. Xin ban cho chúng con thấy được tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể và cảm nghiệm được tình yêu chan chứa của Ngài; ngõ hầu chúng con càng được rước Chúa vào lòng, chúng con lại càng thêm yêu mến và khát khao Ngài hơn.
63. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao người Do-thái phản đối câu nói của Đức Giêsu: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ đã hiểu câu đó theo nghĩa tâm linh hay vật chất? Các câu diễn tả chân lý thâm sâu trong Kinh Thánh thường phải hiểu theo nghĩa nào?
2. Phải hiểu những từ “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay theo nghĩa nào? Có thể dùng thể chất với cách ăn uống thể chất để nuôi dưỡng và phát triển tâm linh không?
3. Trong đời sống Kitô hữu, phải “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu theo nghĩa tâm linh như thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tiền kiến sai lầm về những thực tại siêu việt (do hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất)
Chúng ta hiện nay biết Đức Giêsu là một con người siêu việt, là thần thánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa. Nhưng những người Do-thái xưa lại thấy Đức Giêsu là một con người rất tầm thường, vì Ngài xuất thân từ gia đình nghèo khó, lại kém học thức… “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” “Đối với họ, và cả chúng ta nếu ở vào trường hợp của họ, thật khó mà chấp nhận Ngài là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Lý do khiến họ không chấp nhận không phải là phi lý. Theo lẽ thường, họ không chấp nhận thì hữu lý hơn là chấp nhận. Họ hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: một người từ trời xuống có nghĩa là một người thật sự “từ trời xuống” hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không phải là một người sinh ra từ bụng mẹ. Họ hiểu “trời” theo nghĩa vật chất là bầu trời, không trung. Chính vì thế, họ không hiểu được chân lý thâm sâu trong câu nói ấy của Đức Giêsu. Họ không ngờ được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” (theo nghĩa vật chất) một chút nào.
Những câu nói lên những chân lý quan trọng trong Thánh Kinh đều cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hơn theo nghĩa vật chất. Trong lịch sử, Giáo Hội Công giáo đã bị “hố” nhiều lần vì hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất, để rồi về sau phải chỉnh lại cách hiểu của mình theo nghĩa tâm linh. Chẳng hạn việc hiểu trình tự sáng tạo vũ trụ và con người trong sách Sáng thế ký, việc hiểu câu Kinh Thánh Gs 10,12 đến nỗi đi đến việc kết án Côpécnic và Galilê…
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta lại gặp nhiều lần từ ngữ “từ trời xuống”: có từ được áp dụng vào Đức Giêsu, có từ được áp dụng vào bánh trường sinh. Nếu trong áp dụng trước người ta hiểu theo nghĩa vật chất thì bị sai lầm, ắt trong áp dụng sau việc hiểu theo nghĩa vật chất cũng rất có thể dẫn đến sai lầm. Điều quan trọng là chúng ta phải dựa vào sự kiện, vào thực nghiệm tâm linh trong thực tế đời sống, để biết hiểu theo cách nào là đúng. Chẳng hạn hai câu: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Chữ “chết” trong câu trước – ứng với việc ăn manna – buộc phải hiểu theo nghĩa vật chất, nghĩa là chết về thể xác. Còn chữ “chết” trong câu sau – ứng với việc ăn “bánh từ trời xuống” – buộc phải hiểu theo nghĩa tâm linh, vì không có ý nói đến cái chết thể chất, bởi chưa ai ở trần gian này thoát chết về thể chất cả, kể cả Đức Giêsu.
Tương tự, những câu trong bài Tin Mừng hôm nay như: “Tôi là bánh trường sinh”, “ai ăn thì khỏi phải chết”, “bánh hằng sống từ trời xuống”, “ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”, “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây”, sẽ thật là ngộ nghĩnh và phi lý nếu hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng sẽ trở nên hữu lý và đúng với thực nghiệm tâm linh khi hiểu theo nghĩa tâm linh. Những câu này chính là những chân lý quan trọng trong Kitô giáo mà mọi Kitô hữu cần áp dụng trong đời sống tâm linh để đời sống nội tâm được nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ.
2. Đức Giêsu là “bánh hằng sống từ trời xuống”
a) Cần phải hiểu câu này theo nghĩa tâm linh
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Chắc chắn, đối với chúng ta, những người Kitô hữu, lời Ngài nói ắt phải là chân lý. Và đây là một chân lý quan trọng đem lại sự sống và phát triển tâm linh cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải triệt để áp dụng chân lý này vào đời sống. Chắc hẳn không ai trong chúng ta hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không hiểu về thịt của Đường Tăng Tam Tạng. Chúng quyết tâm bắt cho được Đường Tăng để ăn thịt, với niềm tin tưởng rằng ăn thịt ông thì sẽ được sống lâu, thậm chí sẽ không chết. Tôi nghĩ: giả như có ai giết Đức Giêsu để ăn thịt Ngài (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” của Đức Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt” và “máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất, “của ăn” và “của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Tất cả những từ trên đều phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Và nếu hiểu theo nghĩa tâm linh, thì Đức Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Hiện nay, không ai có thể gặp hay tiếp xúc với Đức Giêsu bằng xương bằng thịt như các tông đồ ngày xưa cả. Nhưng Đức Giêsu vẫn luôn hiện diện thật sự trong tâm hồn ta (x. Ga 14:17.20.23.26). Sự hiện diện của Ngài hiện nay không phải là một sự hiện diện tại thế, mang tính vật chất, mà là sự hiện diện mang tính tâm linh. Điều ấy người Kitô hữu nào cũng biết và cũng tin như thế. Vấn đề còn lại mang tính thực hành là: làm sao để Ngài thật sự nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của ta?
b) “Ăn thịt” và “uống máu” Đức Giêsu thế nào?
Trước hết phải hiểu đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh là gì. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu. Bản chất của Đức Giêsu là gì? Hiểu và thường xuyên ý thức bản chất của Đức Giêsu là gì là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể “ăn” và “uống” Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là thần linh. Ngoài ra, Ngài còn là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. “Ăn” và “uống” Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên Ngài, nói cụ thể hơn là giống y như Ngài, trở nên một với Ngài. Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã mô tả: “Ai uống nước tôi cho (“nước” ở đây chính là bản thân Ngài) sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn “vọt lên”. Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này là: muốn cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, tức là ta “ăn” Ngài, thì không cách gì hữu hiệu hơn là thường xuyên ý thức về bản chất của Ngài và sự hiện diện thường hằng của bản chất ấy trong bản thân ta. Ý thức thường xuyên ấy là điều kiện tối cần thiết để bản chất của Ngài dần dần thấm sang bản chất của ta. Tương tự như hai bình liền nhau, cách nhau bởi một vách xốp: nước trong bình này từ từ thấm và chảy sang bình kia. Ý thức thường xuyên ấy làm cho vách ấy trở nên xốp để nước có thể thấm và chảy qua.
Đó là cách tôi hiểu đoạn Tin Mừng trên. Tôi hoàn toàn không bài bác những cách hiểu khác. Nhưng quả thật đời sống tâm linh tôi chỉ thật sự thay đổi và khởi sắc lên từ khi tôi hiểu và áp dụng bài Tin Mừng hôm nay theo cách này. Đó là thực nghiệm tâm linh của tôi mà tôi muốn chia sẻ với mọi người, để ai muốn thì cứ thử hiểu theo cách này xem. Tôi tin tưởng và hy vọng người ấy sẽ được biến đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đang hiện diện trong con chính là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn trí tuệ, nguồn thiện hảo… vô biên của toàn thể vũ trụ. Nguồn ấy đang hiện diện trong con với tất cả năng lực của một nguồn lực vô tận. Năng lực đa dạng trong nguồn ấy sẵn sàng tràn sang bản thân con với điều kiện con ý thức được bản chất và sự hiện diện của nguồn ấy trong con. Xin cho con thường xuyên ý thức được như vậy, để càng ngày con càng trở nên giống như Ngài, cũng là giống như Cha.
64. Bánh Ban Sự Sống
(Suy niệm của Tu sĩ Nguyễn Minh Tân)
Kính thưa cộng đoàn!
Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng êm xuôi như nước chảy một chiều; có lúc vui nhưng cũng không vắng những nổi buồn, khi thành công nhưng đôi khi thất bại, có lúc hăng say nhưng đôi khi chán trường…, phải chăng “đời là bể khổ?”. Ai trong chúng ta chẳng đã một lần cảm nhận được những ngày mệt nhọc, buồn rầu chán nản? trước mặt như có một khoảng trống không, sau lưng chồng chất cả một dĩ vãng nặng nề?
Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ
Dồn dập tư bề như nước bao la
Cận thân Chúa khiến lìa xa
Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm.
Đó cũng là trường hợp của nhà tiên tri E-li-a mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc một. Ông cảm thấy cô đơn mệt mỏi, bởi vì nhìn xung quanh, ông thấy dân chúng, dân của Thiên Chúa, càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lổi. Chỉ còn lại một mình, lẻ loi trơ trọi. Ông tự hỏi: chiến đấu, hăm dọa làm gì, khi mà Thiên Chúa cứ để cho mụ đàn bà tên là Gêzabel, vợ vua Achal làm mưa làm gió!, trong lúc buồn rầu, ông lên đường vào sa mạc, vừa đi vừa nói: “Lạy Chúa! đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông chúng con”, mệt mỏi quá, ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng và ngủ thiếp đi. Chúa biết, không gì làm ích cho vị tông đồ, thần kinh căng thẳng, cho bằng một giấc ngủ, và Chúa đã để cho ông có một giấc ngủ dài. Sau đó Chúa lại dọn cho một bữa ăn, nhờ bữa ăn đó mà ông có sức. Rồi Chúa dạy ông hãy đi lên núi Khô-rếp, núi thánh, nơi mà xưa kia Mô-sê đã được gặp gỡ Chúa và trở về với bộ mặt sáng chói.
Thưa cộng đoàn!
Đời sống của người tín hữu cũng là một chuyến đi lâu dài và vất vả. Câu chuyện tiên tri E-li-a là tiền ảnh một vị tông đồ khác là Phao-lô: “Anh em hãy đi, hãy chạy trong lòng mến”. Trong thư gửi Ê-phê-sô mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc hai, Ngài dạy phải bắt chước Thiên Chúa, gương mẫu của chúng ta: “Anh em hãy sống trong tình bác ái. như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tự hương thơm ngào ngạt”. Qua đây Thánh Phao-lô muốn ám chỉ rằng cuộc sống của chúng ta cũng như của Chúa Giêsu là một cuộc “đăng sơn”. Vậy! anh em chúng ta hãy để lại dưới chân núi những: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, thóa mạ…, để rồi cùng nhau hít thở bầu không khí trong mát trên đỉnh cao sơn: “Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô”. Tình yêu là làn gió mát, là sức mạnh để chúng ta tiến bước.
Thưa cộng đoàn!
Chắc chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, đó là phần đầu của bài giảng về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu; Người đã phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi thân xác tức là manna trong Cựu Ước, bánh thiêng liêng nuôi hồn tức Thánh Thể Chúa Ki-tô trong Tân Ước, và bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, đồng thời cũng là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban “Mình” làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn bánh đó.
“Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời”
Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa dần đến mầu ngiệm “bánh ban sự sống”. Thế nhưng dân chúng không chịu mở tai để nghe, mở trí để hiểu. Họ cứ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất, không khác gì cha ông họ kêu trách trong sa mạc ngày xưa. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả; sao bây giờ ông ta lại nó: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”. Thật vậy, Bánh Hằng Sống: đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phục sinh luôn mãi. Vì thế, chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống vinh quang.
Thưa cộng đoàn!
Nguồn gốc, nhân vị, quyền năng của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm; “Ngài bởi đâu mà đến?”. Thưa: chỉ có đức tin, một ân huệ của Chúa Cha, mới có thể trả lời cho chúng ta biết. Chúa Giêsu đã bác bỏ những luận điệu quá tự nhiên ấy, Ngài còn khẳng định rằng: “Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể mạc khải cho chúng ta Chúa Giêsu. Thánh kinh là con đường dẫn chúng ta đến với con Thiên Chúa; nhất là đến tột điểm hôm nay dưới hình ảnh Ngài là Bánh Hằng Sống. Để kết thúc bài giảng Chúa đã khẳng định rõ ràng, không úp mở: “Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống!”.
Xin cộng đoàn nhớ điều này: Phép Thánh Thể chính là biểu hiện và cũng là sự thật, tình thương của Ngài đã hiến mình vì chúng ta dưới hình bánh rượu. Như E-li-a buồn rầu, chán nản, Chúa đã dọn cho một bữa ăn để có sức đi lên núi Chúa; thì nay Chúa cũng dọn cho chúng ta, chính Thịt và Máu của Người để bồi dưỡng linh hồn và thể xác chúng ta qua Bí tích Thánh Thể.
Thưa cộng đoàn!
Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống; vì thế chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khỏe, bổn phận, vật chất…, để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta. Có một điều mà người Kitô hữu không thể sao lãng đó là: chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng đức tin của chúng ta chỉ có sự sống khi chúng ta không có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng và mến yêu tha thiết, vì phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam