Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 44
Tổng truy cập: 1371657
BỆNH PHONG CÙI
Bệnh phong cùi – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi vị bỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”.
Thế mà hai năm sau, với niềm tự tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khôn của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Tại đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
***
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc 1,40).
Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc 1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách. Chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy, người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế, Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thế xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra p hép lạ”.
Bí quyết trở nên hgùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: “In God We trust” (chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salesio nói: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen.
22. Niềm hy vọng - Trầm Thiên Thu
Niềm hy vọng là nhân đức trông cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42), và tất cả đều có thể: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Về đức cậy, Thánh TS Augustinô cho biết: “Đức cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời này là hư ảo, hy vọng tương lai là hạnh phúc. Người nào đem hy vọng của họ ký thác nơi chóng qua như mây khói ở đời này, đó là đi ngược lại đức cậy”. Còn Thánh TS Terese Avila xác định: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng ước vọng vĩ đại”.
Trong ca khúc “Tôi Muốn”, NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần gũi với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn là điều quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.
GIẢ THUYẾT
Chỉ vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn, khao khát. Bất cứ ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn, gần hay xa. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, ước muốn đơn giản và cụ thể là được khỏi bệnh. Ngày nay người ta rất sợ chứng ung thư, còn ngày xưa người ta “ngán” chứng phong hủi (cùi). Chính Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người nào hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt thì đó lại là phong hủi loang ra (Lv 13:42).
Hồi đó, các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46). Khổ thật!
Như vậy là khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, mặc dù là thời Tân ước, và mặc dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Lm Gioan Vianney phân tích: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”. Ôi, vẫn liên quan “cái tôi” đáng ghét!
Bệnh phong là laoị bệnh ghê gớm, ngày xưa là chứng nan y. Ngày nay, bệnh phong không còn đáng sợ, mà chứng nan y đáng sợ là ung thư hoặc HIV/AIDS. Tuy nhiên, đó là bệnh liên quan thể lý. Loại phong cùi, chứng ung thư hoặc HIV ghê gớm nhất chính là tội lỗi, thế nhưng có vẻ người ta lại… không sợ. Quái lạ!
Đối với các tù nhân, ngày được phóng thích giống như thoát khỏi địa ngục trần gian. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19), đó là điều chắc chắn, bởi vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững? (Tv 130:2). Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá bao la!
Thánh TS Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Giả sử bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng… “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, bởi vì Ngài hoàn toàn cho phép chúng ta trọn quyền tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!
Là phàm nhân thì ai cũng là tội nhân, vì đã có “vốn tội” rồi: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, Thánh GH tiên khởi Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Augustinô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu thực sự ước muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu chân thành xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay lập tức!
Tuy nhiên, có 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi” mà chúng ta cần phải lưu ý:
1. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách CAN DỰ VÀO TỘI LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC.
2. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách LÔI KÉO HỌ VÀO TỘI LỖI CỦA MÌNH.
Có những giả thuyết mãi mãi là giả thuyết, nhưng có những giả thuyết lại khả dĩ trở thành sự thật – một sự thật minh nhiên hoặc mặc nhiên.
SỰ THẬT
Người ta sẽ chú tâm hành động sau khi đã ước muốn, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật là khó chứ không hề đơn giản, thế nhưng ai cũng phải cố gắng thực hiện. Nếu cảm thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Thật tuyệt vời với cách nhận định của thi sĩ Paul Claudel (*) đậm “chất” đức tin: “Chúa xuống thế KHÔNG để diệt trừ khổ đau, cũng KHÔNG giải nghĩa khổ đau, mà để CHIA SỚT khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.
Trong các “mối khổ”, chắc chắn ai cũng biết rằng bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay tinh thần. Riêng bệnh phong thì bệnh nhân rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ về tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).
Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà chỉ muốn chứng tỏ lòng yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài chỉ vì tính nhỏ nhen, vì lòng ghen ghét. Con gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, tìm cách trù dập, hoặc “không ăn được thì đạp đổ”, đó là tình trạng tệ hại của con người vì “cái tôi” quá lớn, nó che khuất mọi tầm nhìn mất rồi. Đúng như một danh nhân đã nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”. Kinh Thánh nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần” (Cn 26:11).
Hữu xạ tự nhiên hương. Mùi hương thơm có sức lan tỏa. Tiếng lành cũng được đồn xa. Đèn sáng rất dễ nhìn thấy. Thế nên vừa mới ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa là Đấng trung tín, xin ban thêm các nhân đức cần thiết cho con, xin thanh tẩy và thánh hóa con bởi vì con ô uế nhưng thật lòng ước muốn được nên sạch, mặc dù bất xứng nhưng con thành tâm tín thác vào Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của nhân loại. Amen.
------------------
(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.
23. Ước vọng - Trầm Thiên Thu
Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen (1) gây ra. Vi khuẩn này không có bào tử nên nó không lây qua vật trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1-2 ngày. Vi khuẩn Mycobacterium Leprae và Mycobacterium Lepromatosis là tác nhân gây bệnh phong. Da thịt bệnh nhân thường nổi nhọt, lở loét, nặng hơn thì vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra,...
Bệnh nhân phong chịu đựng sự đau nhức vào những đêm trăng sáng, trăng càng sáng thì họ càng đau nhức vì vi khuẩn rúc rỉa, do đó mà Thi sĩ Phanxicô Hàn Mặc Tử (1912-1944) đã mong ước “khác người” khi ông thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho...” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co rút lại, khiến đôi tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Ước vọng của họ rất đơn giản: Khỏi bệnh. Họ khổ cả thể lý lẫn tinh thần vì bị mọi người xa lánh, kỳ thị. Ngày nay, bệnh phong đã trị được, nhưng người ta vẫn “ngại” khi tiếp xúc với bệnh nhân phong.
Bệnh phong xuất hiện từ xa xưa, thời Cựu Ước cũng đã có. Thời đó, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Kinh Thánh giải thích: “Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, nó bị vết thương ở đầu” (Lv 13:43-44). Các bệnh nhân hóa nạn nhân, vì họ không chỉ khổ thể lý mà còn khổ tâm, có thể nói đối với họ là điều sỉ nhục!
Thật vậy, vì thời đó người ta lập ra “quy chế người phong hủi”, khắt khe và tàn nhẫn lắm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:45-46). Ngày nay, cái quan niệm tàn nhẫn đó vẫn chưa thể “tẩy não” hoàn toàn được! Nếu có dịp đến Trại Phong Di Linh (2), bạn sẽ thấy các bệnh nhân phong thật đáng thương. Họ có vẻ ít nói với vẻ ngần ngại lắm. Có lẽ họ không dám tin rằng người đối diện với họ không ác ý, vì trong tâm trí họ đã in sâu “nếp nghĩ” rồi!
Phong cùi thể lý thật đáng sợ và đáng thương, nhưng phong cùi tâm linh còn đáng sợ và đáng thương hơn. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị chứng “phong cùi” này. Nhưng thật diễm phúc vì chúng ta có Đại Bác Sĩ Giêsu chữa trị. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Dạng diễm phúc này đôi khi chúng ta không để ý, nhưng thực sự là niềm hạnh phúc khôn tả, vì được Thiên Chúa chúc phúc.
Một khi cảm nhận được như vậy, chắc hẳn người ta không ngần ngại hoặc lần lữa đến với Bí tích của Lòng Chúa Thương Xót: “Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32:5). Sau đó, người ta còn chia sẻ với người khác về niềm vui thánh thiện: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo!” (Tv 32:11).
Có Chúa là có tất cả. Người có Chúa không còn ham mê điều gì khác ngoài Chúa, và họ làm gì cũng chỉ muốn tôn vinh Chúa. Đúng như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:31-33). Người biết sống vì Chúa thì cũng biết vì tha nhân, bởi vì thước đo lòng mến Chúa là lòng yêu người. Vả lại, ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20). Ước gì chúng ta khả dĩ mạnh dạn nói được như Thánh Phaolô khi chúng ta tâm sự với người khác: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Trình thuật Mc 1:40-45 nói về việc Đức Giêsu chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16). Một hôm, có người bị phong hủi đến gặp Ngài, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chữ “” ở đây không phải là nghi ngờ, mà chỉ là “một cách nói” mà thôi. Chắc hẳn người này đã rất khổ sở vì mắc bệnh phong đã lâu, khổ đủ thứ, và anh rất muốn được khỏi để không bị xã hội ruồng rẫy. Anh đến cầu xin với Chúa Giêsu, chứng tỏ anh rất vững tin vào Ngài, tin chắc Ngài là người có quyền phép vô song. Anh tin thật chứ không mê tín dị đoan hoặc xin theo phong trào như nhiều người ngày nay vẫn làm. Vâng, vấn đề quan trọng là niềm tin chân thành và vững vàng.
Nghe anh nói, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. Thật hạnh phúc cho anh vì ước muốn của anh hoàn toàn hợp ý Chúa. Thế nên ngay lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Anh đã được toại nguyện.
Nhưng Ngài nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. Chúa Giêsu bảo anh “coi chừng” vì anh có nói ra cũng chẳng ai tin, và những kẻ có quyền hành chỉ muốn tìm dịp để bắt giết Ngài. Tuy nhiên, làm sao anh có thể im lặng được, và anh không thể hoãn lại cái sự sung sướng ấy, thế nên vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.
Nhưng Ngài có đi đâu thì người ta cũng tìm cho bằng được, bởi vì họ đã tận mắt thấy anh chàng phong cùi hôm nào đã sạch hoàn toàn. Lạ quá sức! Và rồi dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài, đông như trẩy hội.
Ai cũng có những ước vọng, dù lớn hay nhỏ, ước vọng cho chính mình và cho người khác, nhất là cho những người thân yêu. Ước vọng có thể cao thượng, bình thường hoặc tầm thường. Thi văn sĩ kiêm lý luận phê bình Samuel Johnson (1709-1784, Anh quốc) nói: “Mỗi người đều giàu có hay nghèo khổ tùy thuộc tỷ lệ giữa niềm ước vọng và sự thỏa mãn của mình”.
Thiên Chúa biết rõ mọi ước vọng thầm kín của chúng ta (Tv 38:10). Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh kẻ mồ côi và người bị áp bức, khiến cho kẻ mang thân cát bụi, chẳng còn khủng bố ai” (Tv 10:17-18).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết cầu xin Con Một Ngài chữa lành “chứng phong cùi” tâm hồn của chúng con. Xin dẫn chúng con đến với những người nhỏ bé hèn mọn trong xã hội, trong Giáo Hội, để chúng con thông cảm và chia sẻ với họ bằng tấm lòng chân thành vì Danh Thánh Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
----------------------------
(1) Bác sĩ Armauer Hansen, người Na-Uy, đã phát hiện vi khuẩn gây bệnh phong vào năm 1873.
(2) ĐGM Cassaigne, thường được gọi thân thương là Cha Sanh, thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. Chính ngài đã lập Trại Phong Di linh (Djiring) năm 1929. Ngài sinh ngày 30-1-1895 tại Grenade (Pháp), thụ phong linh mục ngày 19-2-1925. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa Saigon, lễ tấn phong giám mục diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà ngày 24-6-1941. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor). Ngài qua đời lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973 và được mệnh danh là “Tông Đồ của Người Cùi”.
24. Ước muốn - Trầm Thiên Thu
Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42).
Trong ca khúc “Tôi Muốn”, cố NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.
NẾU MUỐN SẠCH…
Vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn. Ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, họ chỉ muốn được khỏi bệnh. Ngày nay người ta sợ chứng ung thư, ngày xưa người ta “ngán” phong (cùi). Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán (Lv 13:42).
Các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46).
Khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, dù là thời Tân ước, dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Gioan Vianney nói: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”.
Bệnh phong là bệnh ghê gớm, ngày xưa là nan y. Ngày nay nan y là ung thư hoặc HIV/AIDS. Nhưng đó là bệnh thể lý. Loại phong cùi, ung thư hoặc HIV ghê gớm hơn chính là tội lỗi, thế nhưng người ta lại… không sợ!
Các tù nhân, ngày được phóng thích đối với họ như thoát khỏi địa ngục. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19). Chắc chắn vậy, vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được!
Thánh Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!
Ai cũng có tội: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, thánh GH tiên khởi Phêrô, thánh Mađalêna, thánh Phaolô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay!
Thiết tưởng, chúng ta cũng nên lưu ý 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi”:
1. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.
2. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
… SẼ ĐƯỢC SẠCH
Khi ước muốn, người ta sẽ chú tâm hành động, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật khó, không hề đơn giản, nhưng ai cũng phải làm. Nếu thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Paul Claudel (*) có cách nhận định thật tuyệt vời: “Chúa xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.
Bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay “bệnh” tinh thần. Bệnh nhân phong rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ vì tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).
Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà vì yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài vì lòng ghen ghét. Gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, đó là tình trạng tệ hại của con người. Đúng như một danh nhân nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”.
Hương thơm lan tỏa. Tiếng lành đồn xa. Thế nên, vừa ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin thanh tẩy và thánh hóa chúng con vì chúng con thật lòng ước muốn được sạch. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
-------------------------
(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.
25. Hãy cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ)
Tin mừng Mc 1: 40-45: Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi...
Người phong cùi tiến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, nài xin Chúa chữa lành. Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phong cùi là kẻ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô uế như thế, kẻ ấy phải sống ngoài cộng đoàn của mình.
Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi.
Sách luật Môse nói như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, người phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, râu mép để dài và phải la lớn: Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46).
Trong Kinh Thánh, bệnh phong cùi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh tởm, gậm nhấm và làm biến dạng cơ thể người bệnh, mà nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo.
Kẻ mắc bệnh phong cùi bị xem như đã phạm trọng tội nên bị Chúa trừng phạt.
Một số giáo sĩ đương thời với Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh phong cùi được dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, sống trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam.
Từ thuở xưa, người phong cùi bị mọi người kể như là một xác chết không hồn. Bị phong cùi là ngay lập tức bị khai trừ, bị ruồng bỏ như một thây ma ô uế, nghĩa là không thể tương giao với Thiên Chúa cũng như với con người.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành thứ bệnh này. Ngài đã dùng như một hình phạt thì chỉ mình Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó. (x. cuộc đời Myria, em gái Môse trong Ds 12,1-16).[1]
Chính vì thế, người phong cùi đến với Đức Giêsu, quì gối xuống van xin Người, và nói với Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch.” Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh ta và nói với anh ta: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Ngay lập tức, bệnh phong cùi biến khỏi anh ta và anh ta được sạch.
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (Mc 1,44).
Anh ta đã không vâng lời Chúa Giêsu nhưng đã lớn tiếng rao báo lòng thương vô bờ bến của Chúa đối với anh. Và đây chính là cách bày tỏ tác động lớn lao của việc được chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng được khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu.
Một Mục Sư Tin Lành kể lại: "Ông được mời đến giảng Lời Chúa tại một trài cùi do cơ quan truyền giáo lập ra. Ông rất đắn đo, do dự vì ông không thích đến một nơi như vậy. Nhưng rồi vì lời mời quá nồng nhiệt tha thiết nên cuối cùng ông không thể từ chối. Ông nghĩ cử tọa là những người bị xã hội ruồng bỏ, ít học, nghèo nàn với cuộc sống của những con người như những vật phế thải nên không cần chuẩn bị bài giảng.
Ông đến nơi trước một ngày. Vừa 7g00 sáng, ông đã thấy họ mang Thánh Kinh đến nhà thờ trong trại, mặc dù theo chương trình, buổi thờ phượng 9g00 mới bắt đầu. Ông tò mò bước lần đến nhà thờ. Ông thấy họ cầu nguyện, họ tôn vinh rồi họ cầu nguyện. Ông thấy họ rất vui, bình an và rất hạnh phúc có lẽ hơn những người lành mạnh trong Hội Thánh của ông.
Tời giờ thờ phượng, họ như sốt ruột, ngóng chờ tôi và rất muốn nghe bài chia sẻ của tôi. Cầu nguyện khai lễ là một người cùi cao niên. Ông cảm tạ Chúa đã ban cho họ sự sống, ban cho họ thức ăn, quần áo mà không phải làm lụng vất vả như nhiều người khác. Ông cầu xin Chúa ban phúc cho những người hảo tâm đã thương yêu và giúp đỡ họ. Ông nài xin Chúa ban cho những ân nhân của họ có cuộc sống hạnh phúc.
Tôi cúi đầu khi nghe lời cầu nguyện. Lòng tôi bắt đầu tự hỏi.
Tại sao họ có sự bình an, hạnh phúc trong khi họ mang trong người chứng bệnh nan y? Biết bao nhiêu người lành lặn như tôi đã vô cùng chật vật tìm kiếm sự bình an, hạnh phúc như họ. Họ sống trong thiếu thốn, với nhu cầu tối thiểu nhưng họ rất bình an và vui thỏa. Tại sao họ có thể cám ơn Chúa khi đang mang trên mình một chứng bệnh nan y, bị xã hội ruồng bỏ? Những thắc mắc đó vẫn tiếp tục trong đầu tôi.
Sau đó họ tôn vinh. Họ hát bản nhạc” Hãy Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban”. Họ hát hết ba câu rồi họ tiếp tục tôn vinh trở lại. Họ hát say mê, say mê tôn vinh cho đến khi người điều khiển chương trình ra dấu chấm dứt thì họ mới ngưng hát.
Tôi thấy xấu hổ trước khung cảnh đầy hạnh phúc này. Tôi xấu hổ trước thái độ tôn vinh của họ. Tôi thấy tôi không xứng đáng đứng trên bục giảng để nói với một cử tọa tràn đầy hạnh phúc, tràn ngập sự bình an, thỏa lòng và nhất là hết lòng cảm tạ vì những hồng ân Chúa ban cho họ.
Mục Sư kể tiếp: “Dĩ nhiên bài chia sẻ của tôi là lời thú tội".
- Tôi xấu hổ vì tôi không "Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban" cho mà chỉ biết trông chờ những gì còn đang thiếu.
- Tôi xấu hổ vì tôi chỉ cảm tạ những gì tôi có mà người khác không có, trong khi họ cảm tạ Chúa vì những nhu yếu của con người như không khí, hơi thở, thức ăn cần dùng, quần áo giản dị, lành lặn và giấc ngủ an lành mỗi đêm.
Quả thật họ ý thức được thế nào là hành trang của một khách lữ hành, sống tạm ở thế gian rồi sẽ trở về với Chúa. Chúng ta biết mình là lữ hành nhưng sống như một người định cư vĩnh viễn. Mai này gặp Chúa, thật sẽ ngỡ ngàng, xấu hổ.
Người phong cùi đã lớn tiếng cám ơn Chúa Giêsu dù Chúa Giêsu đã cấm anh ta. Đây là một điều làm chúng ta phải suy nghĩ. Nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta phải loan báo Tin Vui cho những người khác. Trong thực tế, chúng ta đã nhận được rất nhiều ơn, nhưng chúng ta đã không nhận ra những hồng ân đó. Vậy chúng ta hãy tha thiết xin Chúa ban cho chúng ta nhận ra các ơn lành phần hồn phần xác mà mỗi ngày Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ hăng say đi loan báo Tin Mừng Tin Vui như người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
-----------------
[1] Jacques Hervieux: CN 6B TN
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam