Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1364643

BÌNH AN

Bình an

Nói đến các trường đại học nổi tiếng tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, người ta không thể không nhắc đến đại học Ateneo de Manila của các Linh mục Dòng Tên. Đây là một trong những trường cung cấp rất nhiều nhân tài cho nước Phi Luật Tân và di nhiên là đa số học sinh và sinh và sinh viên của đại học này đầy là thành phần khá giả trong xã hội.

Dưới chân trường học nằm trên một ngọn đồi này là một khu lao động nghèo mà có lẽ nhiều người không biết đến, và trong cái xóm nghèo nàn ấy có một cộng đoàn tu sĩ mà có lẽ nhiều người không biết đến, đó là cộng đoàn các tiểu đệ Charles de Foucaul, đa số các tu sĩ sống ở đây là người Việt Nam hoặc từng sống ở Việt Nam.

Một hôm, một Linh Mục Dòng Tên người Mỹ là giáo sư đại học Ateneo tình cờ đi lạc vào trong cái khu lao động ấy, điều làm cho ông ngạc nhiên là trong cái khu nghèo nàn đó lại có một người Bỉ, đây là một tiểu đệ đã sống ở Việt Nam gần 30 năm và đã bị trục xuất sau năm 1975. Sau một hồi trao đổi với nhau, vị linh mục người Mỹ mới hỏi người Bỉ như sau: Ông làm gì ở đây? Người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, tôi nấu ăn, tội giặt quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu lao động này.

Nghe thế vị linh mục người Mỹ như có vẻ tiếc rả sự hy sinh lãng phí của người Bỉ. Ông nói về mình như sau: Còn tôi, tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình. Tôi đi đây đi đó, tôi đào tạo những người hữu ích cho xã hội.

Cuộc gặp gỡ và đối thoại trên đây giữa hai vị tu sĩ trong Giáo Hội, có lẽ cho chúng ta thấy được một số những khía cạnh khác nhau trong công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Vị Giáo su người Mỹ trên đây là điển hình có một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo trong xã hội trên khắp thế giới, từ thành thị cho đến thôn quê, từ học đường cho đến các xưởng, từ đất Kinh đến miền thượng …nơi nào cũng cũng có những nhà truyền giáo ngày đêm hăng say truyền giáo và hoạt động. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động và rao giảng, thì cũng có những nhà truyền giáo sống giống như chứng nhân Tin mừng.

Việc tiểu đệ Charles de Foucaul người Bỉ trên đây có lẽ là tiêu biểu của không biết bao nhiêu nhà truyền giáo âm thầm lấy cuộc sống chia sẻ của mình như một chứng từ cho Nước Chúa. Tựu trung tích cực hoạt đồng hay âm thầm sống chứng nhân, cả hai hình thức đều có chung một sứ mệnh, đó là làm chứng cho Đức Kitô và mở mang và mở mang Nước Chúa. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi sơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các đồ đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin mừng. Ngài nói với các ông: “Các con đường mang theo túi, tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Như vậy, một cuộc sống siêu thoát một cuộc sống không lệ thuộc vào những của cải trần gian này, đó là biểu hiện tiên quyết của những chứng nhân Nước Trời.

Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương xứ sở của mình để đến một vùng đất xa lạ. Ra đi thiết yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đi đến với tha nhân trong tinh thần hòa giải, yêu thương, phục vụ quên mình. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh mà Đức Giêsu trao ban các môn đệ khi Ngài nói: “ Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này”. Hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông, tha thứ, đó là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo.

Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Điều đó có nghĩa là Giáo Hội phải thể hiện ý muốn của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo, nước của công lý, nước của hòa bình, nước của yêu thương, nước đó phải được tìm thấy trong Giáo Hội của Đức Kitô. Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu chúng ta tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó cũng có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống của chúng ta.

Người tín hữu Kitô sẽ chỉ là người có tên gọi, có danh nghĩa mà không có thực chất nếu cuộc sống của họ chưa thực sự là một chứng nhân của Nước Trời. Trong một xã hội nếu chỉ có những lời lẽ rêu rao và những khẩu hiệu rỗng tuếch thì con người chưa đạt được những thực tại của Nước Trời, hơn bao giờ hết người tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn, đó là trở thành những điểm tựa đáng tin cậy, những chứng từ sống động của những thực tại Nước Trời.

Chúng ta sẽ phải sống như thế nào để những người xung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như các người Do thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải thốt lên: “Xem kìa, họ thương nhau là dường nào”. Kitô giáo thiết yếu là một sức sống, sức sống ấy chính là Đức Giêsu Kitô, và sống đạo là sống bằng chính sức sống của Chúa Giêsu và truyền đạt sức sống ấy cho mọi người xung quanh. Chúng ta hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn để đón nhận sức sống ấy và chia sẻ sức sống ấy với tất cả mọi người qua mọi thế hệ.

 

7. Công việc

Một cơ quan thăm dò dư luận ở phương Tây vừa mới công bố một cuộc điều tra về vấn đề tín ngưỡng tại 15 nước Tây phương, trong đó có Mỹ và Nhật Bản. Kết quả cho thấy Mỹ là nước mà dân chúng mê tín nhất và tin vào Chúa nhiều nhất. Khi hỏi “có tin ở Thượng đế không?” thì 95% người Mỹ trả lời “có”, còn ở Châu Âu là 75% và Nhật Bản là 39%. Cuộc điều tra còn cho thấy phụ nữ tin vào Chúa và ma quỉ nhiều hơn nam giới.

Như thế thì bi quan hay lạc quan? nếu nhìn tổng thể và sâu rộng hơn thì một người Kitô hữu thức thời, có tinh thần trách nhiệm cao, chắc chắn không thể lạc quan về tình hình đạo công giáo trên thế giới ngày nay. Với nhận xét này, chúng ta suy nghĩ thế nào về những gì Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay?

Vẫn biết rằng, khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Chúa Giêsu bị hạn chết trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhớ đến mấy ông quê mùa, dốt nắt phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã trên 6 tỷ người mà mà chỉ có 1 tỷ rưỡi Kitô hữu. Tại sao Chúa Giêsu không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo?

Trước hết, vì hành động với con người nên Chúa phải sử dụng đường lối và phương pháp phù hợp với con người. Nghĩa là với quyển năng Chúa có thể hành động theo cách thức của Ngài, nhưng Ngài không làm vì con người còn phải chịu lệ thuộc vào những điều kiện có giới hạn, đang sinh sống trong một xã hội trần thế lắm ràng buộc, đầy thiếu sót.

Thứ đến, Chúa muốn những kẻ tin theo Ngài phải là những con người có tự do dân chủ, những thợ gặt tình nguyện, chứ không phải là những tên nô lệ hay tù nhân. Do đó, Nước Chúa hay Giáo Hội của Ngài phải là một tập thể bao gồm những phần tử biết làm chủ lấy đời mình để có thể tin tưởng, yêu mến hết tình, chứ không tập hợp những kẻ sợ sệt hay những cái máy vô hồn được điều khiển.

Cuối cùng, Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, khi Chúa Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiện là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.

Nếu mỗi người chúng ta đều hiểu thông suốt được như thế thì chúng ta phải hết sức cảm ơn Chúa vì Ngài dành cho chúng ta cái vinh dự lớn lao là được cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu nhân độ thế. Và nếu ¾ nhân loại ngày nay chưa nhận biết Chúa thì lỗi đó không phải do Chúa kém quyền năng, mà là do mỗi người công giáo chúng ta thiếu trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa trong việc mở mang Nước Chúa, từ chối vinh dự làm con hiếu thảo biết tha thiết đến việc của Cha trên trời. Như thế, sứ mạng truyền giáo là một sứ mạng quan trọng và cấp bách. Cho nên, sứ giả của Chúa phải mau mắn đem Tin mừng đến tận tay người nhận sớm hết sức có thể, không được để vương vãi hay trì trệ dọc đường vì ham việc trần thế hơn việc cứu rỗi anh em. Nói khác đi, người làm việc tông đồ là phải vội. Vội vì Chúa, vội vì phần rỗi của anh em, vội vì thời giờ Chúa ban cho mỗi người quá ngắn ngủi và vô cùng quí giá. Sự nôn nóng này của kẻ làm con Chúa biểu lộ một cuộc tranh đấu quyết liệt với tà thần để cứu cho được các linh hồn về cho Chúa. Do đó, người rao giảng Tin mừng không thể hành động như kiểu của những kẻ ăn không ngồi rồi, của những viên chức ngoại giao viếng thăm rườm rà, của những kẻ trà dư tửu hậu. Trái lại Chúa muốn con cái của Ngài phải nhanh tay lẹ mắt trong công việc cứu rỗi thiêng liêng như con cái thế gian hăng say mưu cầu lợi ích, chớp thời cơ làm giàu cho mình. Cuộc sống, việc làm, mơ ước, tình yêu, giải trí…tất cả đang bủa vây chúng ta khiến chúng ta càng ngày càng sao nhãnh, quên mất phần rỗi của mình và của anh em. Hãy nhớ rằng phần rỗi của ta gắn liền với phần rỗi của anh em. Nếu ta không lo lắng cứu vớt người khác thì chẳng có ai thương tình cứu giúp ta cả.

 

8. Anh em hãy ra đi.

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước.

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.

Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.

Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.

Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép.

Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau.

Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.

Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác.

Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.

Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.

Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.

Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.

Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối.

Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.

Gợi Ý Chia Sẻ

Muốn trở thành tông đồ cho người trẻ hôm nay, theo ý bạn, cần có những điều kiện gì?

Satan và sự ác vẫn hoành hành trên thế giới và trong từng tập thể. Chúng ta phải làm gì để chống lại? Bạn có thấy bóng dáng của Satan trong đời bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

 

9. Mừng vì được ghi danh Nước Trời – Lm. Anmai.

Nhớ lại một cha già trong nhà Dòng, gốc của Ngài là người Huế nên Ngài hay nói với những ai thăm Ngài rằng mỗi người hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa và sống “in như ri”. Giọng Huế rất hay với chữ “in như ri”. “In như ri” chính là chữ “In ri” (Vua dân Do Thái) được treo trên đầu Chúa Giêsu. Câu nói dí dỏm của Cha già xem ra mà hay đó chứ! Là kitô hữu, phải chăng mỗi người được mời gọi nhìn lên thánh giá Chúa và sống mầu nhiệm ấy.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhiều người đã kinh nghiệm và đã sống mầu nhiệm thánh giá ấy. Một trong những người đã sống mầu nhiệm thánh giá một cách trọn vẹn đó chính là Thánh Phaolô tông đồ. Khẳng định về kinh nghiệm của thánh giá hôm nay chúng ta được nghe Thánh Phaolô tông đồ nhắc lại: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian”.

Chẳng cần phải minh giải nhiều, chẳng phải nói nhiều, những người mang tên là kitô hữu đã biết khá nhiều về con người của Phaolô. Phaolô đã hơn một lần bay nhảy và đã hơn một lần bách hại đạo Chúa Giêsu. Phaolô đã bằng mọi cách diệt cho bằng được nhưng ai xưng mình là kitô hữu. Thế nhưng, sau khi được Thiên Chúa “mở mắt” cho thấy Ngài thì cuộc đời của Phaolô thay đổi hoàn toàn. Cứ đọc lại tất cả các thư của Thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy rõ cảm nghiệm của Ngài về Chúa Giêsu.

Phải nói rằng cuộc đời của Phaolô là một cuộc đời tuyệt vời. Trước khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô sống theo kiểu người đời nhưng khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô đã sống chết với con người mang tên Giêsu đó. Với Phaolô, đâu phải đơn giản để sống chết với Chúa Giêsu vì trước đó Phaolô là người bách hại Chúa. Khi cuộc đời của Phaolô thay đổi 180 độ thì chẳng ai tin được. Người ta đã cho rằng Phaolô là người giả tạo vì trước đó thì bắt Chúa còn sau thì lại rao giảng Tin mừng về con người mà trước đây mình bách hại. Vì Chúa Giêsu, Phaolô đã lội ngược dòng để minh chứng cuộc đời của mình thuộc về Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu – Nước Thiên Chúa lúc nào cũng đối nghịch với thế gian thì phải. Thế gian thì sống bất minh, sống gian tà, sống thiếu sự thật còn Nước Thiên Chúa là nước của sự thật, sự sống vĩnh cửu. Những ai sống vì Nước Thiên Chúa, sống với Nước Thiên Chúa, sống cho Nước Thiên Chúa thì bị người đời thoá mạ và ngược đãi. Không dừng lại ở thoá mạ, ngược đãi mà còn bị loại trừ ra khỏi thế gian này cho rảnh mắt.

Người bị loại ra khỏi thế gian mà ai ai cũng biết đó chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết trước chương trình của Chúa Cha dành cho Ngài và giờ của Ngài phải đến thế gian.

Thật sự ra Chúa Giêsu đã biết trước thế gian như thế nào nhưng vì Thánh ý của Cha nên Ngài vẫn đến. Chúa Giêsu đã đến thật và Ngài đã sống giữa thế gian này. Sống giữa thế gian, dẫu là Con Chí Thánh của Cha trên trời ấy nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ của thế gian dành cho Ngài. Chúa Giêsu là Chúa còn phải đón nhận đau khổ như vậy để rồi môn đệ của Chúa, những người theo Chúa cũng phải sống cái đau khổ như Thầy Chí Thánh đã sống.

Biết trước được những khó khăn ấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các ông: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này! ” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”

Sau khi nghe lời chỉ bảo của Thầy, các môn đệ đã ra đi và đã trở về và thưa chuyện với Thầy “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” Và rồi, Chúa Giêsu bảo với các môn đệ rằng: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống” Sau đó Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền năng để các ông có thể đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù. Tất cả thế lực của Kẻ Thù bày ra nhưng sẽ không làm được gì các môn đệ cả. Chúa Giêsu còn dặn dò thêm: “Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi”.

Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ rằng đừng mừng với cái chuyện quỷ thần khuất phục nhưng hãy vui mừng vì tên của các môn đệ, của những người theo Chúa sẽ được ghi ở Giêrusalem mới, ở Nước Trời. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc không giống như niềm vui của trần gian, của cuộc đời mà nhiều người tìm kiếm, theo đuổi. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc được ngôn sứ Isaia vừa nói qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe:

Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,

hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ,

hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô!

Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,

hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô,

để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,

được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang,

như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.

Vì Đức Chúa phán như sau:

Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả,

và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.

Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,

được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.

Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy;

tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.

Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,

thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.

Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết,

và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù.

Ở trong Giêrusalem Thiên Quốc, ở Thành Đô của Thiên Chúa thì những người yêu mến Thành Đô sẽ vui mừng, sẽ được bình an như trẻ thơ được bú no bầu sữa mẹ và sẽ được nâng niu trên đầu gối, được bồng ẵm bên hông như Mẹ hiền vậy. Khi ở Thành Đô thì những thù địch sẽ bị đẩy lui bởi cơn thịnh nộ của Đức Chúa.

Giêrusalem Thiên Quốc, Nước Trời luôn luôn nghịch lại với thế lực của ma quỷ, của thế gian, của sự ác để rồi những ai muốn vào Giêrusalem Thiên Quốc, muốn vào Nước Trời cũng phải sống như các môn đệ ngày xưa đã sống nghĩa là phải sống như chiên sống giữa sói rừng vậy. Thế nhưng, những ai tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong lòng bàn tay của Thiên Chúa thì tất cả những thế lực của ma quỷ sẽ không làm hại những người tin được. Kinh nghiệm ấy hết sức rõ ràng nơi cuộc đời của những người môn đệ thân tín, của các thánh nam nữ của Thiên Chúa, đặc biệt nơi các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa. Những môn đệ thân tín, các thánh nam nữ của Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa đã bị thế gian cấu xé, nghiền nát nhưng rồi trước mặt Thiên Chúa, các Ngài đã sống hết mình, hết lòng, hết sức, hết trí khôn cho Nước Trời, cho Thành Đô của Thiên Chúa nơi Thiên Quốc.

Chuyện quan trọng của người môn đệ, của người theo Chúa Giêsu đó là làm sao tên của mình được ghi ở trên Trời. Tất cả mọi chuyện, tất cả mọi sự rồi sẽ qua đi mà thôi. Giữa cái lựa chọn Nước Trời và trần gian này không phải là đơn giản, nhiều và nhiều người muốn chạy theo cái thế gian này để bỏ cái vinh quang Nước Trời mà Thiên Chúa mời gọi.

Nguyện xin Thầy Chí Thánh ban thêm ơn, ban thêm sức mạnh và đặc biệt ban thêm quyền năng cho những ai tín thác vào Chúa để rồi nhờ ơn Chúa những người đó có thể chống chõi tất cả những mưu mô của các thần để sau cuộc chiến ở cõi đời này thì những người ấy được vào hưởng nhan Thánh Chúa và được vào hưởng Giêrusalem Thiên Quốc như Chúa đã hứa ban.

 

10. Ra đi loan báo Tin Mừng – An Phong

Tin Mừng Chúa Nhật 14 Thường Niên C là trình thuật Đức Giêsu gởi các môn đệ lên đường sứ vụ… Người sai họ đi như “con chiên ở giữa sói rừng…, đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép… nhưng nói bình an cho nhà này” (Lc 10,4). Người sai họ đi “cứ từng hai người”, vì theo luật Do Thái, chứng từ hợp pháp phải dựa trên hai hoặc ba nhân chứng (Đnl 19,15). Trong Giáo hội sơ khai, “cứ từng hai người” như Phaolô và Banaba (Cv 13,2), Banaba và Maccô (Cv 15,39), Phaolô và Sila (Cv 15,40), Timôthê và Sila (Cv 17,4)… đã đi rao giảng Tin mừng với nhau. “Nếu vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì… hãy phủi bụi đất lại…” là một lời cảnh giác cho những ai không đón nhận Tin mừng. Hình ảnh các môn đệ trở về vui mừng và “Satan từ trời rơi xuống như luồng chớp” muốn nói lên việc rao giảng Tin mừng được thành tựu và các ngài đã thắng được Satan.

Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện thiết yếu cho những ai muốn đi rao giảng Tin mừng “không túi tiền, không bao bị, giày dép”. Họ phải là những người nghèo khó, khiêm tốn, và thậm chí yếu đuối, để có khả năng tin tưởng và bám víu vào Thiên Chúa. Họ được sai đến những nơi nguy hiểm, thiếu an toàn, nhưng lại nói lời bình an. Cơn cám dỗ về tiện nghi vật chất luôn đe dọa những người đi rao giảng Tin mừng. Cơn cám dỗ về ngại khó vẫn luôn làm những người đi rao giảng Tin mừng chùn bước. Như thế, người đi rao giảng Tin mừng “đừng khoe khoang về điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6.14).

Hơn thế nữa, “sự bình an của các con sẽ đến trên những ai đón nhận Tin mừng”. Người đi rao giảng Tin mừng là người có được sự bình an của Thiên Chúa. Từ đó đem sự bình an này đến cho người khác. Đem đến sự bình an của Thiên Chúa cùng với Nước Thiên Chúa đang đến gần chính là rao giảng Tin mừng. Mọi hình thức áp đặt, đe dọa, “rút phép thông công”, những cuộc thánh chiến… sẽ làm tiêu tan sự bình an. Bình an cho nhà này, cho ngôn ngữ, cho phong tục tập quán này, cho các truyền thống, các giá trị, các nghi thức phải là tâm niệm của những người đi rao giảng Tin mừng. Tin mừng cần được hội nhập, được sống trong một nền văn hóa của một dân tộc cụ thể, cùng với những phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc đó. Tin mừng chỉ có thể được đón nhận trong tình yêu và tự do.

Là kitô hữu, nhờ bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta là những người rao giảng Tin mừng cho mọi người chung quanh. Chúng ta được Thiên Chúa gởi đến để đem lại bình an cho người khác. Những người chung quanh chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận sứ điệp của chúng ta, nếu sứ điệp đó được loan báo cách vô vị lợi, nhẹ nhàng, trong tinh thần phục vụ. Chứng từ “cứ từng hai người” là hình ảnh yêu thương lẫn nhau, cộng tác với người khác, không ghen tương hay thành kiến, là một chứng từ mạnh mẽ, có giá trị làm cho Tin mừng dễ được đón nhận. Các kitô gữu đầu tiên tại Antiôkia đã từng gây ấn tượng tốt đẹp cho cư dân tại đó bằng nếp sống đoàn kết yêu thương nhau, khiến cư dân tại đó đã phải thốt lên “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Vào thời bách hại đạo tại Việt Nam, cha ông chúng ta đã được những người chung quanh gọi là “những người theo đạo yêu nhau”. Những chứng từ như thế có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn là “văn hay chữ tốt”.

Khi phải đối diện với những bất an toàn của cuộc sống, chứng từ lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng là một lời rao giảng tốt đẹp.

Phải chăng chúng ta đang rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ của mình?

Lạy Chúa,

ngày nay trên thế giới

còn nhiều người chưa đón nhận Tin mừng.

Chúng con xin Chúa gởi đến

những người rao giảng Tin mừng

đầy lòng yêu thương, nhiệt tâm tông đồ.

Xin cho chúng con trở nên những chứng nhân Tin mừng

bằng đời sống của mình.

home Mục lục Lưu trữ