Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1370740

BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN

BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN

Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.

Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.

Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.

Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.

1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.

Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.

2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.

Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.

3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.

Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.

33. Thiên Chúa Có Quyền Trên Sóng Nước _ Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Văn chương thường ví đời sống con người từ khi sinh đến khi chết, như một cuộc vượt biển, đi từ bên này sang bên kia. Và mặt biển trần gian không mấy khi phẳng lặng. Không những thường có gió, có sóng, mà nhiều khi còn nổi bão và sóng cuộn. Và không chắc thời buổi khoa học kỹ thuật cao ít sóng gió hơn những thời đại bè nứa và thuyền nan. Lịch sử thế giới những thập niên gần đây xem ra nhiều biến động và con người ở thời đại chúng ta cũng rất nhiều thử thách. Cụ thể ai có thể bảo: đời sống bản thân, gia đình và xã hội mình đang sống không có những nét bất ổn làm giao động tâm hồn?

Hôm nay Lời Chúa không những tỏ ra thấu suốt các nguy hiểm của đời sống con người, mà còn muốn đem lại bình an hạnh phúc cho tất cả chúng ta đang sống trong sóng gió của cuộc đời. Chúng ta lần lượt đọc lại bài sách Yob, bài Tin Mừng và bài thư Phaolô.

A. Thiên Chúa Có Quyền Trên Sóng Nước

Phụng vụ chọn bài sách Yob đi trước bài Tin Mừng hôm nay. Vì sao không chọn một bài khác? Cựu Ước không thiếu những đoạn sách tương tự. Nhưng sách Yob gợi ngay đến cuộc sống của một người gặp thử thách khác thường. Không những Yob đã trở thành biểu tượng mọi con người gặp đau khổ đớn đau, sách Yob còn chứa đựng mọi suy tư của con người muốn giải thích vì sao cuộc sống lại nhiều khổ đau vô lý như vậy. Các phát biểu nhiều và dài, nhưng chẳng hoàn toàn thuyết phục được ai khác, ngoài chính người đã dựng ra những lý thuyết giải thích kia. Cuối cùng, như không thể chịu đựng được nữa, những tư tưởng ngu xuẩn của những kẻ múa mép một cách tự đại, Thiên Chúa đã nói với Yob “từ cơn giông tố”.

Vì sao Người lại dùng giông tố làm bối cảnh? Văn chương Cựu Ước và ở thời của Yob không thể nào tưởng tượng được một cuộc hiển linh mà không thấy có sấm chớp, giông tố và khói lửa. Kể từ ngày mô tả Thiên Chúa ngự xuống trên núi Sinai giữa cảnh trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng, các tác giả Cựu Ước luôn diễn tả việc Chúa hiện ra hoặc với loài người kèm theo tiếng gió, tiếng sét, trong lửa, trong khói. Ðó là những bối cảnh đã trở nên quen thuộc.

Ở đây, “giông tố” đã là dấu báo hiệu cho việc Chúa hiện đến. Nó còn nói lên một ý nghĩa nữa. Nó muốn quét sạch mọi luân lý của loài người đã nói ra trước đây để cắt nghĩa vì sao hết sự dữ này đến tai họa khác đã ập xuống trên cuộc đời và thân thể của Yob. Chẳng lý lẽ nào có thể đứng vững trước chân lý của Chúa. Chúng đã tháo lui, rút chạy khi Người sắp mở miệng. Giông tố đã đến quét sạch mặt đất để cho Thiên Chúa xuất hiện. Và để tỏ ra Lời Người sắp nói là Chân lý, khác hẳn các suy tư của con người. Giữa tư tưởng của Người và luận lý của chúng sinh phải có một khoảng cách, một khoảng trống. Ðấng siêu việt không thể ngự đến giữa các vật tầm thường. Chân lý của Người không được xếp hạng chung với các tiếng nói của loài người.

Và quả thật, Người không phát biểu như bạn bè trước đây của Yob. Các người này đi thẳng vào những đau khổ của ông, lấy lẽ này lẽ khác ra mà giải thích. Họ và đối tượng họ giải thích cùng nằm trên một bình diện. Họ đứng cùng tầm mức với các điều họ muốn hiểu. Thiên Chúa thì không. Người siêu việt hơn hết thảy. Người đứng trên mọi sự. Người nắm đầu tất cả. Người bắt chúng phải trả lời, chứ không lờ mờ tìm hiểu chúng.

Thế nên, Người bảo Yob: “Hãy nai nịt như một dũng sĩ (để xứng đáng đứng trước nhan Người). Ta sẽ vặn hỏi ngươi và ngươi hãy cho ta hay: ai đã cài chắc then biển bằng hai cánh xếp, khi nó trào ra từ lòng mẹ; khi Ta phủ mây trên nó như áo quần và mây tối làm tã lót?”

Dĩ nhiên phải biết văn chương của thời Yob mới dễ hiểu những lời vừa nghe. Thời ấy, người ta có những quan niệm rất khác với chúng ta về vũ trụ. Ðối với họ, mọi vật đã từ “vực thẳm” đi ra. Biển cũng từ lòng sâu thẳm ngoi lên. Vực thẳm là lòng mẹ sinh ra vạn vật. Nhưng khi nước biển trào ra như vậy, làm sao nó lại đọng lại một vài nơi và không tràn ra lênh láng? Phải có người vạch ranh giới cho nó và đặt nó trong cửa kín then cài. Ai vậy, nếu không phải là tạo hóa? Người đặt định luật cho các vật để chúng không ngông cuồng và không có kỷ luật…

Viết như trên, tác giả sách Yob cũng cùng quan điểm với tác giả sách Khởi nguyên. Chúng ta quen tư tưởng của sách này từ chương đầu tiên. Ở đó, chúng ta thấy Thiên Chúa đã làm ra mọi sự, một cách thật đơn giản và quyền năng. Người phán hãy có vật nào là vật ấy xuất hiện. Người bảo nước dưới vòm trời hãy tụ lại một chỗ, để cho khô ráo lộ diện. Và đã xảy ra như vậy. Người gọi khô ráo là đất, còn khối nước tụ lại là biển.

Dĩ nhiên, một cách khoa học ngày nay không viết như thế, nhưng con người ở thời Yob không hiểu được văn khoa học thời nay. Ðàng khác sách Yob cũng như sách Khởi nguyên không muốn nói chuyện khoa học, nhưng chỉ muốn dạy đạo. Chân lý chủ yếu ở đây là biển rộng với các định luật của nó là tự Thiên Chúa sắp đặt. Tác giả thời bấy giờ phải dùng các hình ảnh vừa tầm mức của người đương thời để diễn đạt tư tưởng đạo đức. Ông phải mượn hình ảnh then cài và cửa khép hai cánh để nói lên định luật không cho nước lan rộng ra quá mức. Ðịnh luật này cũng do tạo hóa đặt định thôi. Do đó, người xưa nói đến cửa đóng then cài không cho nước thoát ra, và ngày nay chúng ta nói đến hấp lực của trái đất và mặt trăng điều hòa sức nước dâng lên dâng xuống, cũng vậy thôi xét theo quan điểm tìm hiểu: bởi vì cuối cùng vẫn phải nại đến ai làm ra cửa và ai đặt ra định luật. Người thời xưa mộc mạc và thi sĩ hơn người khoa học. Họ thấy sức mạnh của nước, nhưng đồng thời sức mạnh ấy được kiềm chế. Họ nghĩ phải có ai điều khiển đại dương. Họ suy tôn tạo hóa trong các kỳ công của Người.

Cũng như họ thấy mặt biển thường có mây. Họ nghĩ đến ngày sinh của con người phải có tã lót và con người không thể phô bày thân thể mà không mang quần áo. Họ suy biển cũng phải như vậy. Nên ở đây tác giả viết: Tạo hóa phủ mây trên nó như áo quần vá mây tối làm tã lót.

Chúng ta chia sẻ cái nhìn chân thực của tác giả. Chúng ta cùng tác giả nhìn nhận Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật, có quyền trên hết thảy. Người có quyền trên biển rộng. Nhưng điều này ăn nhằm gì với điều Yob đang muốn biết. Ông đang điên đầu vì chẳng hiểu sao mình khổ sở quá như thế này. Bạn bè của ông đã đưa ra những lời giải thích không thể chấp nhận được. Thiên Chúa muốn trả lời thế nào cho ông đây, khi nói đến quyền của Người trên sóng nước?

Sự thật Yob đã hiểu ngay Thiên Chúa muốn nói gì rồi. Ông và đồng bào của ông quá biết sức mạnh của nước, nhất là khi nó phá phách như trong truyện Ðại hồng thủy và truyện binh lính Pharaô chết hết khi nước vùi dập họ nơi Biển Ðỏ. Trong bão táp, sóng nước thật hung dữ. Biển trở thành biểu tượng cho nhiều sức mạnh nguy hiểm. Thế nên không phải chỉ ở Dothái, mà còn ở nhiều nơi, loài người vẫn ví cuộc sống nguy hiểm của họ ở đời này như cuộc vượt biển trăm bề hiểm nguy.

Vậy khi khẳng định uy quyền của Thiên Chúa trên sóng nước, tác giả sách Yob chẳng qua có ý quả quyết: sự dữ cũng dưới quyền của Chúa. Và kẻ gặp sự dữ hãy đến đặt niềm tin tưởng nơi Người.

Nhưng khốn nỗi nhiều khi Người lại như Ðức Yêsu cứ ngủ yên trong khi môn đệ gặp sóng gió dữ dằn. Thái độ của chúng ta như thế nào trong những trường hợp như thế?

B. Các Ngươi Chưa Có Lòng Tin Sao?

Marcô không phải là tác giả không biết kể chuyện. Lời văn của ông vắn tắt nhưng ngụ nhiều ý. Ông biết quá mặt nước mà các môn đệ của Ðức Yêsu sắp bơi thuyền sang, không phải là một đại dương hoặc một mặt biển rộng. Ðây chỉ là một cái hồ, tuy không rộng như chưa thể gọi là biển. Thế mà Marcô làm cho chúng ta thấy thuyền của các Tông đồ như đang vượt biển sóng to gió lớn. Tác giả muốn dùng câu truyện hôm nay để nói đến con đường gian nan nguy hiểm mà các Tông đồ sắp đi vào, và để báo trước cuộc đời của Hội Thánh sẽ phải lênh đênh sóng gió, và đời sống đức tin của mỗi người chúng ta phải lao khổ, hiểm nguy. Bài sách Marcô hôm nay vì thế cũng nằm trong viễn tượng chúng ta vừa trình bày khi nói về bài sách Yob. Cả hai đều muốn gợi lên cuộc đời đầy thử thách gian lao của con người.

Marcô lại khéo dùng vài từ ngữ để làm cho bối cảnh thêm đe dọa, bi đát hơn. Ông viết: “Ngày hôm ấy”. Từ ngữ này rơi vào tai những người am hiểu Kinh Thánh, lập tức có thể gợi lên viễn tượng về ngày chung thẩm, khi Thiên Chúa đến phán xét lành dữ trong hãi hùng và thẳng nhặt. Không có gì đáng sợ hơn những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy. Thế nên, khi đặt cuộc vượt biển của các tông đồ trong khung cảnh của “ngày hôm ấy”, Marcô đã mở ra một chân trời đe dọa. Không những thế, ông còn viết: “Lúc chiều đến”. Nghĩa là tối tăm sắp sửa ập xuống. Và ai biết trong bóng tối có những hung thần và nguy hiểm nào?

Chúng ta bảo: Các tông đồ không biết chọn thời điểm. Nhưng họ đâu có quyền lựa chọn. Khi đã nhận làm môn đệ Chúa Yêsu và hấp thụ mầu nhiệm Nước Trời như Người đã mạc khải qua các dụ ngôn hạt giống và hạt cải (đọc trong Chúa nhật trước), họ phải băng “qua bên kia”, tức là phải bỏ đời sống cũ, đi vào đời sống mới. Và đây là nếp sống môn đệ từ nay họ phải đi theo.

Nó không yên hàn. Chưa chi đã xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào thuyền, làm thuyền đã hòng đầy ngập. Marcô đã không tả dài hơn. Vì đây ông không có ý kể chuyện. Mọi người có thể tưởng tượng được hoàn cảnh của một thuyền nhỏ bỗng dưng gặp gió táp sóng cồn. Nó không chìm là may. Ai ai cũng có thể biết như thế. Ai ai cũng đã kinh nghiệm cuộc đời mình nhiều khi tròng trành trong gian truân. Không cần nói, ai cũng biết; nên Marcô tả bấy nhiêu cũng đủ rồi. Ông nói ngay sang việc cốt yếu.

Thuyền đã hòng ngập, mà Ðức Yêsu bây giời đang ở đàng lái, dựa trên ván véo mà ngủ. Người ở chỗ quan trọng vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Người lại nằm ngủ. Ðây không phải chỗ chúng ta khen Người có nếp sống bình dị, nằm đâu cũng ngủ được.

Ðối với Marcô, Người nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội Thánh đã sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong hiểm nguy. Thái độ lạ lùng, khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Người không biết chúng ta đang khổ sao? Người bất lực hay là đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”? Sự dữ này bởi đâu?

Không phải chỉ có thế. Marcô có những nét tả trong câu truyện này khiến chúng ta không thể không nhớ đến câu truyện Yona. Ông này cũng lấy tàu vượt biển. Tàu cũng bị sóng gió. Mọi người trên tàu đều thất kinh tìm cách chống cự. Duy mình Yona tìm chỗ vắng nhất đặt mình xuống ngủ. Và ngủ say ngon giấc nữa. Người ta cũng đến lay ông dậy, cũng nói với ông tương tự như các môn đệ hôm nay thưa với Ðức Yêsu. Nếu vậy thì dưới con mắt của Marcô, Ðức Yêsu đang ngủ không phải chỉ gợi lên hình ảnh về sự vắng mặt của Thiên Chúa trong lúc loài người khổ sở. Nhưng vì truyện Yona đã được chính Ðức Yêsu dùng để ám chỉ việc Người tử nạn-phục sinh, nên các nét tả của Marcô hôm nay hẳn cũng muốn báo trước những việc sẽ xảy ra sau này: Ðức Yêsu sẽ nằm chết trên thánh giá. Người nằm ngủ trong đau thương. Nhưng rồi Người sẽ chỗi dậy và trở thành “Chúa” trong mầu nhiệm Phục sinh. Cũng như hôm nay, tỉnh dậy Người quát bảo gió và biển: Nín đi, im đi! Và gió tắt biển lặng như tờ.

Như vậy chúng ta được phép nghĩ rằng, đối với Marcô không những thái độ yên lặng của Thiên Chúa trong các đau khổ của loài người, đã là điều khó hiểu cho tâm trí chúng ta; Người còn khiến chúng ta khó hiểu Người hơn nữa khi Người đã để cho Con Một Người nằm chết đau thương trên thập giá. Nhưng lại chính khi trở nên khó hiểu hơn hết, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta được cái chìa khóa để mở mầu nhiệm đau khổ ra. Người làm cho Con Một Người sống lại: Ðức Yêsu Kitô tỉnh lại truyền lệnh cho các lực lượng đối nghịch con người; Người tỏ ra là Chúa để môn đệ hoàn toàn tin tưởng. Biết được gió và biển phải vâng phục Người, từ nay họ không còn sợ chúng nữa. Những kẻ đã tin Người tử nạn-phục sinh, không còn sợ gì đau khổ nữa. Có thể họ vẫn chưa hiểu được vì sao Thiên Chúa lại như ngủ quên khi con cái loài người đang khổ sở và lâm nguy. Nhưng biết rằng Người có toàn quyền trên mọi sự dữ, họ có thể đặt hết tin tưởng ở nơi Người.

Ðó chính là bài học mà Marcô muốn đưa ra trong câu truyện này. Và cũng vì vậy mà Ðức Yêsu đã nói với các môn đệ: Các ngươi chưa có lòng tin sao? Chúng ta có thể bảo: Phaolô muốn áp dụng bài học ấy trong đoạn thư hôm nay.

C. Cũ Ðã Qua Ði Và Mới Ðã Thành Sự

Thánh tông đồ nhìn ngắm Chúa Yêsu nằm ngủ trên thập giá giữa bao đau thương khổ sở. Người hiểu Chúa đã chết vì mọi người. Và lòng mến của Chúa thúc bách người, khiến người xác tín rằng: Chúa đã chết vì mọi người, thì đừng ai còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Ðấng chết và sống lại vì họ. Và cho được như vậy mọi người phải chết, chết nơi con người cũ, chết nơi con người luôn nghĩ đến mình, để trở thành con người mới, con người sống cho Chúa Yêsu Kitô. Câu thánh Tông đồ nói: Cũ đã qua đi và này mới đã thành sự, có nghĩa là như vậy. Ai đã tin Chúa Yêsu đã chết và sống lại, thì phải chết đi con người cũ, để sống làm con người mới trong sự thánh thiện của Chúa Yêsu phục sinh. Một nền đạo đức học mới phải phát xuất từ đó. Nó có nhiều hệ luận, nhưng tất cả xây trên một niềm tin duy nhất, tin Chúa Yêsu Kitô đã chết và sống lại, đã từ bỏ con người trần gian của Người qua con đường hy sinh thánh giá để trở thành Chúa đứng trên mọi tạo vật. Nơi Người, đau khổ đã có ý nghĩa. Nó đã đưa Người đến vinh quang. Nó trở thành con đường cho những ai muốn theo Người, bước vào con đường này, người ta nhờ đau khổ sẽ dần dần giũ bỏ con người cũ, ích kỷ và xác thịt, để trở thành con người mới, bác ái và thần linh. Người ta không buồn phiền và nản lòng khi gặp đau khổ nữa; nhưng nhìn vào mầu nhiệm thập giá, người ta tin có Chúa đang ở với mình, cho dù bề ngoài xem ra Người đang ngủ, nhưng thật sự Người đã dùng chính sự yên lặng thánh giá để làm im gió và biển của thế giới đầy đau thương này.

Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm Thánh giá nơi bàn thờ. Dưới hai hình thức bánh rượu, vừa đơn sơ vừa bất động, biểu tượng cho sự lặng thinh của Thiên Chúa và cho việc Chúa Yêsu nằm yên trên thập giá, chúng ta tin có sự sống của chính Thiên Chúa. Người ban cho những ai tin mà đón nhận, chính sự sống của Người, để với ơn của Người họ được sức khắc phục mọi khó khăn đau khổ ở đời, khiến con người mới được xây dựng mỗi ngày mỗi kiên vững. Chúng ta hãy sốt sắng cử hành và tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể này, để khi ra về có thể nói được rằng: cũ đã qua đi và này mới đã thành sự. Và chúng ta sẽ sống giữa xã hội như những con người mới, với những tư cách mới.

34. Tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa _ Lm. GB Trần Văn Hào SDB

Văn chương Kitô giáo vẫn thường diễn tả cuộc lữ hành trần gian của chúng ta giống như con thuyền lênh đênh giữa biển khơi ngập đầy sóng gió. Nhiều bài thánh ca khá quen thuộc với những ca từ bình dân, chẳng hạn ‘Ngày tháng chơi vơi như thuyền nan giữa khơi’, hoặc ‘Mẹ ơi thế trần là nơi gian khổ, biển đời con gặp bao cơn giông tố’ khiến chúng ta dễ liên tưởng đến con thuyền mà bài Tin mừng hôm nay nói tới. Con thuyền chở Chúa Giêsu và các môn đệ, đang trực diện với một trận cuồng phong khiến nước ập vào. Các môn đệ thì hoảng loạn, còn Chúa Giêsu vẫn an giấc ngủ say. Hình ảnh con thuyền đó rất gần sát với cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.

Bão tố và những bầm dập trong cuộc sống

Giáo lý Phật giáo khởi đầu với xác quyết : ‘Đời là bể khổ’. Các học thuyết của hầu hết các tôn giáo khác cũng nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề khổ đau, thực tại nhức nhối nhất trong kiếp người. Trong cái nhìn Kitô giáo, đau khổ là hệ quả của tội lỗi do chính con người gây ra. Vì tội của Ađam, sự dữ đã thâm nhập vào trần gian. Con người phải nếm trải khổ đau và phải chết (x. Rm chương 5).Nhưng mầu nhiệm Thập giá và sự Phục sinh vinh thắng của Chúa Giêsu là đáp án tổng thể cho những vấn đề nan giải và hóc búa này.

Nhìn vào hình ảnh con thuyền chở các tông đồ đang lênh đênh giữa biển hồ Galilê trong cơn bão tố, chúng ta liên tưởng đến cuộc sống của chúng ta hôm nay với biết bao bầm dập và cay đắng. Nhiều khi chúng ta cũng rơi vào tình trạng chán nản và tuyệt vọng đến tột cùng. Khi một người thân thiết nhất trong gia đình bỗng nhiên gặp tai nạn và chết cách thảm khốc, khi người tình mà chúng ta đang xây đắp mộng ước tương lai bỗng lặng lẽ chia tay, hoặc khi công việc làm ăn đang thành đạt bỗng gặp những thất bại ê chề v…v…, tất cả đều là những kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta có thể đã từng nếm trải. Những biến cố ấy như những cơn lốc mạnh kèm theo bão tố, khiến chúng ta hoảng loạn. Tâm trạng của các tông đồ năm xưa cũng giống như thế. Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Marcô thuật lại biến cố và nêu bật một sự tương phản rõ rệt. Đang khi các tông đồ hoảng hốt, con mắt mở to vì khiếp hãi, Chúa Giêsu vẫn bình thản, đôi mắt Ngài vẫn khép chặt trong cơn ngủ say. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược với khung cảnh trong vườn cây dầu. Chúa Giêsu thì khiếp sợ khi đối diện trước cái chết, còn 3 người học trò thân tín lại say ngủ đến độ Chúa Giêsu đã nhắc nhở : “Các con không thể thức được với Thầy lấy một giờ hay sao ?”. Trong hình ảnh thứ nhất, các tông đồ hoảng sợ khi nhìn thấy cái chết đang cận kề trong gang tấc, trong khi Chúa Giêsu vẫn bình thản trong giấc ngủ sâu, vì Ngài là Đấng quyền năng, Đấng Hằng Sống, Đấng có thể khuất phục sự chết. Ngược lại, trong hình ảnh thứ hai, Chúa Giêsu thức để cầu nguyện trước giây phút hoàn tất mầu nhiệm hiến tế và tiến nhận cái chết. Khi mang thân phận con người, Chúa cũng sợ hãi đến độ mồ hôi và máu tuôn trào khi đứng trước cái chết kinh hoàng sắp tới. Ngược lại, ba môn đệ lại say sưa trong giấc ngủ vì các ông chưa thể tiến sâu vào mầu nhiệm Thập giá. Hai hình ảnh tương phản này cho ta thấy rằng đau khổ luôn gắn liền với kiếp nhân sinh và cao điểm là chính sự chết. Một nhà tu đức đã nói : “Chúng ta được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng khóc tiễn đưa của những người thân quen. Tiếng khóc đầu tiên đan nối với tiếng khóc cuối cùng trong cuộc sống, lột tả về mầu nhiệm đau khổ, luôn bám chặt với cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.

Chúa ở kề bên

Một vị thánh nọ đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, khi con gặp những sóng gió và thử thách, Chúa đang ở đâu ?” Để trả lời, Chúa cho chị ta thấy một thị kiến ghi lại những hình ảnh Chúa luôn cận kề bên chị. Những dấu chân in trên cát đã chứng minh điều này. Chúa luôn sánh bước bên chị, thể hiện qua những dấu chân của 2 người mãi ở bên nhau. Nhưng khi chị gặp khó khăn, chỉ còn lại dấu chân của một người, hình như Chúa đã bỏ rơi chị vào lúc đó ? Chúa nói với chị ta rằng : “Những lúc con gặp sóng gió như thế, con thấy chỉ còn lại dấu chân của một người, người đó chính là Ta. Chính Ta bồng ẵm con trên đôi tay của Ta”. Các tông đồ trên con thuyền đầy sóng gió đã quên mất Chúa Giêsu đang ở bên cạnh họ. Nhưng rồi các ông đã sớm nhận ra điều ấy và đánh thức Chúa dậy. Tương tự như thế, chúng ta cũng phải ‘đánh thức’ Chúa, phải ‘lay động’ để Chúa tỉnh dậy, tức là chúng ta phải đi sâu vào đời sống cầu nguyện hầu khơi lên cảm thức đức tin, nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Quyền năng của Thiên Chúa có thể dẹp tan những sóng gió và tình yêu của Ngài luôn phủ kín cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Cho dầu xấu xa hay tội lỗi đến mấy, mỗi người trong chúng ta vẫn luôn có chỗ đứng trang trọng trong con tim đong đầy yêu thương của Chúa, chỉ cần chúng ta biết trải lòng mình ra với sự tin tưởng. Chúng ta hãy học lấy bài học của các môn đệ năm xưa, luôn biết đánh thức Chúa dậy qua đời sống cầu nguyện, đặc biệt khi con thuyền đời ta ngập chìm trong bão tố. 

Đau khổ là quà tặng của Thiên Chúa

Điều này xem ra có vẻ nghịch lý và khó chấp nhận. Tác giả sách Khôn ngoan đã viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1, 13). Cái chết là tột cùng của khổ đau trong kiếp người và Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta phải đau khổ hay phải chết. Chúa Giêsu cũng đã từng nói : “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vậy, tại sao chúng ta lại dám khẳng định rằng, ‘Đau khổ là quà tặng của Thiên Chúa’ hay nói như Thánh Phaolô, ‘Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi’ (Pl 1,21)? Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc 1 hôm nay. Cả cuộc đời của ông Gióp là những chuỗi ngày đầy khổ đau và thử thách. Ông đã nguyền rủa ngày ông chào đời và trải nghiệm biết bao phiền muộn (Gióp chương 3). Nhưng ông đã tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và thâm tín rằng những khổ đau xảy đến với ông chính là quà tặng Thiên Chúa trao ban để giúp ông tôi luyện đức tin (bài đọc 1). Nhờ vậy, tâm hồn ông vẫn bình an cho dầu phải đối diện trước bao bão tố. Chúa phán với ông Gióp :“Các đợt sóng và các cơn bão táp chỉ được đến đây thôi và không được tiến xa hơn nữa. Đây là nơi các đợt sóng cao phải tan tành”. Quyền năng của Thiên Chúa thắng vượt tất cả sức mạnh của thiên nhiên cũng như sự dữ. Ông Gióp đã thể hiện niềm tin vào Đấng quyền năng cách tuyệt đối, và ông đã nêu cho chúng ta mẫu gương về sự kiên định trong niềm tin, mỗi khi chúng ta gặp thử thách.

Kết luận

Tờ báo Digest có viết lại một câu truyện mang tính răn đời như sau. Một bà cụ nọ khá đạo đức, sống trong một căn nhà ọp ẹp tại miền quê nghèo. Bỗng có cơn mưa to ập tới và mực nước ngày càng dâng cao. Bà cầu xin Chúa cứu bà khỏi chết. Nhóm cứu hộ đã cho một chiếc trực thăng và hai chiếc thuyền đến để đưa bà về nơi an toàn, nhưng bà nhất quyết từ chối và vẫn chờ Chúa đến cứu. Đám cứu hộ thất vọng bỏ đi và bà ta đã chết trong cơn lũ lụt. Khi đến trình diện trước mặt Chúa, bà trách móc : ‘Sao Chúa không đến cứu khiến con phải chết ?” Chúa trả lời: “Ta đã làm hết cách. Ta đã gửi một chiếc trực thăng và hai con thuyền cứu hộ đến mà con không nhận ra hay sao?”.

Chúa có nhiều cách thức để luôn hiện diện bên chúng ta trong những sóng gió cuộc đời. Chỉ cần chúng ta nhận ra Ngài và đánh thức Ngài dậy, giống như các tông đồ năm xưa.

35. Vũ trụ là một cuốn sách nói với chúng ta về Thiên Chúa _ ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố một thông điệp với tựa đề “Chúa đáng chúc tụng – Laudato sii”. Nội dung của thông điệp này là lời mời gọi mọi người nhận ra vẻ đẹp của vũ trụ và cùng nhau chung tay bảo vệ.

Trước đó, ngày 14-6, vị Chủ chăn của Giáo Hội đã nói trong bài huấn từ nhân dịp đọc kinh Truyền tin tại quảng trường Thánh Phêrô: “Thông điệp mà tôi sắp công bố ngỏ lời với hết thảy mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện để mọi người cùng đón nhận thông điệp này và ý thức trách nhiệm đối với ngôi nhà chung mà Thiên Chúa trao phó cho hết thảy” (Zenit 14-6-2015).

“Chúa đáng chúc tụng” là điệp khúc của “bài ca tạo vật” rất nổi tiếng do chính Thánh Phanxicô khó khăn biên soạn. Vị Thánh của người nghèo đã ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên hoàn vũ, và nhận ra, ngay cả những cây cỏ, chim muông, hoa lá… đều có ngôn ngữ riêng để ta tụng Chúa. Những tạo vật ấy đều do Thiên Chúa dựng nên, và như vậy, chúng là những anh chị em với con người.

Tác giả sách ông Gióp (Bài đọc I) đã ghi lại lời Chúa nói với ông Gióp về vẻ đẹp của thiên nhiên và sự tuần hoàn của vũ trụ do chính Chúa thực hiện. Ông Gióp là người gặp nhiều bất hạnh. Đang là người giàu có phong lưu, bỗng chốc mất hết con cái, của cải, bạn bè. Ông đang tìm một lời giải đáp cho đau khổ chồng chất ông phải chịu. Những bạn bè đến thăm chỉ đưa ra những lý luận phàm tục, không làm ông thỏa mãn. Chính lúc đó, Chúa hiện ra với ông để đem cho ông nguồn an ủi. Ngài tỏ cho ông biết, Ngài là Đấng quyền năng, đến đại dương hùng mạnh cũng phải vâng lời, vì chính Ngài vạch ranh giới cho chúng.

Đức Giêsu đã tiếp nối mạc khải của Cựu ước để chứng tỏ quyền năng thiên linh của Thiên Chúa nơi Người. Trong truyền thống Do Thái cổ xưa, biển khơi được diễn tả như một loài quái vật hoặc quỷ dữ. Biển cũng tượng trưng cho quyền lực của sự chết. Đối diện với cơn bão tổ trên biển hồ, các môn đệ tưởng mình như đã đến ngày tận số. Các ông kêu la hoảng loạn và kêu Chúa cầu cứu. Giữa cơn khốn khó của họ, Chúa Giêsu đã tỏ rõ quyền năng của Người đối với biển khơi. Với kiểu nói: “Người ngăm đe gió và truyền cho biển: ‘Im đi! Câm đi!’, Thánh Mác-cô muốn diễn tả biển khơi giống như một đối phương hùng mạnh đang tấn công các môn đệ. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến thế gian để trừ diệt quyền năng của sự chết. Người thiết lập trật tự mới trong ân sủng và bình an.

Phép lạ dẹp yên sóng gió là dịp để các môn đệ nhận ra quyền năng của Thày mình. Họ hỏi nhau: “Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Chúng ta ngạc nhiên trước câu hỏi này. Thế ra, từ khi theo Chúa Giêsu cho đến tận bây giờ, các ông vẫn chưa hiểu rõ Thày mình là ai. Chỉ đến khi chứng kiến phép lạ ngoạn mục, các ông mới ngỡ ngàng và thấy rằng Thày mình không phải là một người trần gian.

Trước sự an hòa của trật tự thiên nhiên vũ trụ, người tín hữu nhận ra có một bàn tay khôn ngoan sắp xếp điều khiển. “Bàn tay” ấy chính là Thiên Chúa, Đấng quyền năng vô song. Ngài dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng. Công trình sáng tạo là tác phẩm của tình thương Thiên Chúa.Vũ trụ là một cuốn sách nói với chúng ta về Thiên Chúa.

Môi trường thiên nhiên đang bị con người vô tâm tàn phá nghiêm trọng. Cùng với môi trường thiên nhiên, môi trường đạo đức cũng băng hoại do bị lây nhiễm lối sống phi đạo đức. Nhiều người viện cớ “cuộc sống hiện đại” để coi thường những chuẩn mực đạo đức truyền thống. Họ muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì họ tự cho mình có thể tự quyết định được tương lai. Lịch sử đã chứng minh, một xã hội vắng bóng Thượng đế sẽ rơi vào nguy cơ bị hủy diệt.

Thông điệp “Chúa đáng chúc tụng” là mời gọi mỗi người cùng xét mình trước mặt Chúa về trách nhiệm đối với cộng đồng xung quanh trong cách ứng xử của cá nhân cũng như tập thể.

Cuộc đời này cũng được sánh ví như đại dương bao la mà mỗi người chúng ta đang cố gắng chèo chống để vượt qua. Trong cuộc “vượt biển” này, có biết bao sóng gió thử thách vây bọc chúng ta. Có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa vắng bóng trong cuộc đời, giống như các môn đệ kêu van với Chúa: “Thày ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Khi kêu lên những lời đó, các ông nghĩ rằng Chúa đang ngủ và bỏ rơi các ông. Tuy vậy, vào lúc các ông đang gặp gian nguy, Chúa đã can thiệp. Biển trở lại an bình, và niềm vui cũng trở lai với mọi người.
Hãy chúc tụng Chúa là Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ và thiên nhiên xinh đẹp, đông thời cộng tác với Chúa để tình nhân ái được nhân lên xung quanh chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc đời.

36. Thử thách trong cuộc đời _ ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?

2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?

3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?

37. Hãy tin vào Chúa _ Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có đôi khi trong cuộc sống chúng ta không hiểu tại sao sóng gió lại đến với chúng ta. Sóng gió cứ dồn dập như muốn nhận chìm chúng ta. Nó khiến chúng ta chao đảo, chơi vơi giữa bể khổ trần gian. Lúc đó , chúng ta cầu mong một phép lạ. Chúng ta cầu mong Chúa đến cứu giúp chúng ta. Nhưng dường như Chúa vẫn ở xa chúng ta. Chúa vẫn  để chúng ta một mình chơi vơi giữa trăm bề khổ đau.

Sách Cựu Ước đã từng nói về câu chuyện bi thương của ông Gióp. Ông Gióp là một người giàu có và có lòng kính sợ Thiên Chúa, nhưng rồi bao nhiêu tai nạn dồn dập đã xảy ra trên đời sống ông: con chết, tài sản tiêu tan và chính ông mắc phải một chứng nan y không thuốc thang nào chữa trị được. Vợ ông đã không thông cảm lại còn lên tiếng chế nhạo, còn những người bạn thì cho rằng ông tội lỗi đầy mình nên mới nên nông nỗi đó! Thế mà, ông vẫn trung kiên với niềm tin vào Chúa. Ông vẫn có thể nói lên trong những hoạn nạn rằng: “Chúa biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng”

Đây là một đức tin “có thể chuyển núi dời non”. Đây là đức tin có thể chuyển họa thành phúc. Quả thực, ông Gióp sau những thử thách thì phong ba bão tố cũng yên hàn. Ông đã được Chúa ban lại những gì đã mất. Chúa không bỏ quên những ai tín trung với Ngài.

Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay.  Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không kêu cầu Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.

Các ông đã chạy đến thưa Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.

Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao: “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.

Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Hãy tin rằng Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.

Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.

38. Quyền năng của Chúa _ Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Chỉ những ai từng đi biển mới thấy thế nào là sức mạnh của sóng gió. Trước sức mạnh của sóng biển, một con tàu cũng chỉ như chiếc lá mong manh, và sức của con người thì không thể chống đỡ được. Nhiều cư dân vùng biển không biết bằng cách nào có thể khống chế được sức mạnh từ đại dương. Vì thế, họ cho rằng đó là sức mạnh đến từ thần biển và họ cúng bái thần biển như thần linh.
Khác với các dân tộc chung quanh thờ cúng thiên nhiên như thần mặt trời, thần biển, thần đất hoặc các con vật, thì dân Israel ngay từ xa xưa đã nhận ra rằng : Thiên Chúa Israel tôn thờ là chúa tể của trời đất, là thần của các thần, là Đấng quyền năng vượt trên mọi vật mọi loài. Sách Gióp đã tuyên xưng niềm tin ấy. Ông Gióp là người trung tín với Thiên Chúa, là người giàu có ; thế nhưng, Thiên Chúa đã để cho Satan hành hạ ông, để thử thách sự trung thành của ông với Thiên Chúa. Tuy có những lúc ông dường như cảm thấy chao đảo, nhưng ông vẫn tin Thiên Chúa là Đấng ban cho ông tất cả, thì Ngài cũng có thể lấy đi tất cả từ nơi ông. Đoạn trích trong bài đọc một hôm nay, Thiên Chúa đã cho ông Gióp thấy quyền năng của Ngài là Đấng tạo dựng và điều khiển vũ trụ. Chúa nói với ông : Cửa đại dương ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào ? Đường ranh giới của nó chính tay Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài. Ta phán : sóng chỉ đến đây thôi, không được xa hơn nữa, nó phải vâng nghe.

Câu chuyện Tin Mừng thuật lại :  Sau một ngày Chúa Giêsu và các môn đệ vất vả với công việc, Ngài  cùng với các ông lên thuyền băng qua bên kia Biển Hồ. Thình lình, một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền. Chúa Giêsu đang ở đàng lái dựa đầu vào gối và ngủ. Trong lúc sợ hãi, các môn đệ đã cầu cứu Chúa : Thầy ơi ! Chúng ta chết mất ! Chúa Giêsu chỗi dậy ngăm đe sóng gió : Im đi ! Câm đi ! Lập tức, gió yên biển lặng. Qua câu chuyện, các môn đệ đặt câu hỏi : Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng phải vâng lệnh ? Đặt câu hỏi như thế, cũng có nghĩa là các môn đệ đã dần nhận ra Thầy của các ông là Đấng quyền năng hơn hẳn các Rabi khác. Không chỉ tin Ngài là Đấng quyền năng, Tin Mừng còn minh chứng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng, sắp đặt vũ trụ trời đất, có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên, Ngài chỉ cần ra lệnh là sóng yên biển lặng.
Câu chuyện hôm nay còn muốn diễn tả nhiều ý nghĩa giáo lý sâu xa hơn nữa. Người Do Thái cho rằng, biển không chỉ là nơi có sóng gió tự nhiên, mà còn là nơi cư ngụ của thủy thần hà bá, của ma quỷ và thần dữ, là kẻ chuyên làm hại con người qua những trận sóng gió. Vậy mà hôm nay, đứng trước cuồng phong sóng biển, Chúa Giêsu chỉ cần ra lệnh “Im đi ! Câm đi !” là nó phải im lặng. Điều này có nghĩa : Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên ma quỷ và các thứ thủy thần, Ngài buộc nó im là nó phải im ; Ngài ra lệnh câm miệng là nó phải vâng theo, không còn dám há miệng để nuốt chửng con người nữa. Uy quyền ấy chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi, như thế, hẳn Đức Giêsu phải là một vị Thiên Chúa.

Con thuyền có Chúa Giêsu và các môn đệ còn là hình ảnh của Giáo Hội. Các môn đệ là người chèo chống, những cơn sóng dữ là khó khăn bách hại. Các ông phải đương đầu với những cách thức tấn công mới của ma quỷ. Các môn đệ nhiều khi cũng rơi vào sợ hãi, các ông cảm thấy bó tay trước những sóng gió. Câu chuyện muốn nhấn mạnh : những lúc khó khăn như thế, không có nghĩa là Chúa Giêsu vắng mặt, trái lại, Ngài vẫn hiện diện cùng với Giáo Hội, chỉ có điều Ngài đang nghỉ ngơi phía đàng lái của con thuyền. Dù có khó khăn thử thách thì chính Chúa Giêsu vẫn là người đang lái con thuyền Giáo Hội, chỉ cần các môn đệ tin tưởng chạy đến đánh thức Chúa dậy, kêu cứu với Ngài : Chúa ơi, xin cứu chúng con ! Chúa sẽ chỗi dậy dùng quyền năng của Ngài để đem lại cho con thuyền Giáo Hội sự bình an.

Để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa, các môn đệ phải tin. Chúa Giêsu đã trách các ông : Sao nhát thế ? Anh em vẫn chưa có lòng tin hay sao ? Mặc dù đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, được nghe những giảng dạy của Ngài, nhưng các môn đệ dường như chưa xác tín mạnh mẽ Thầy của các ông chính là Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ làm ngơ trước những khó khăn của các ông. Khi gặp sóng gió, các môn đệ đã tỏ ra quá sợ hãi. Cũng rất may là các ông còn nhớ đến Chúa, kêu cứu Chúa : Thầy ơi ! Chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao ? Tâm trạng của các môn đệ cũng giống như tâm trạng của nhiều tín hữu khi gặp khó khăn. Họ kêu cầu Chúa chưa hẳn vì lòng tin, mà chỉ để trách Chúa. Dầu vậy, Chúa vẫn ra tay cứu giúp các ông, trả lại cho các ông sự bình an.

Chỉ sau khi Chúa phục sinh và được lãnh nhận Thánh Thần, các Tông đồ mới được biến đổi hoàn toàn để trở nên những con người của đức tin, trở nên chứng nhân của niềm tin vào Chúa Giêsu là Đức Chúa. Các ông tin rằng, các ông không hoạt động một mình, nhưng hoạt động trong sự hiện diện của Chúa Kitô và với sự soi sáng của Thánh Thần. Vì vậy, các Tông đồ đã trở thành những con người miệt mài rao truyền quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu-Kitô. Thánh Phaolô đã chia sẻ với cộng đoàn Corintô : Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi. Đó chính là động lực thúc đẩy ông và các Tông đồ căng buồm ra khơi để loan báo Tin Mừng. Các ông đã nhận ra Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng tuyệt vời khi làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, và chính Ngài cũng làm cho tất cả những kẻ tin vào Chúa Giêsu cũng sẽ được sống lại như Đức Kitô. Chúa Kitô được Thiên Chúa Cha tôn vinh là Đức Chúa qua cái chết và sống lại. Ngài là Đấng làm chủ sự sống và sự chết, ma quỷ và thần chết không làm gì được Ngài nữa. Ngài sẽ ban tặng sự sống cho những ai hết lòng tin theo Ngài.

Chúa Giêsu Kitô là thiên Chúa quyền năng vẫn đang hiện diện trên con thuyền là mỗi gia đình. Ngài đang hiện diện ở đàng lái để điều khiển con thuyền gia đình của mỗi chúng ta. Đừng bao giờ ngăn cản quyền năng của Chúa. Chúng ta sẽ trở thành kẻ ngăn cản quyền năng của Thiên Chúa khi chúng ta cậy dựa vào sức mình, khi kiêu căng vì nghĩ rằng tự tôi có thể giải quyết được tất cả, làm nên tất cả mà không cần ơn Chúa. Con thuyền gia đình của mỗi người cũng đã nhiều lần bị sóng gió vùi dập. Chúng ta đừng sợ hãi, hãy tin vào sự hiện diện quyền năng của Chúa. Những khi bị sóng gió vùi dập, đừng ngại chạy đến đánh thức Chúa để cầu cứu : Thầy ơi ! Cứu gia đình con với ! Chúa sẽ ra tay để bảo vệ chúng ta.

Cuộc đời của mỗi người cũng là một chiếc thuyền lênh đênh trên biển đời. Hãy mời Chúa Giêsu bước lên chiếc thuyền cuộc đời của mình bằng việc siêng năng đến với Chúa qua việc dâng lễ, cầu nguyện và để cho lời của Chúa hướng dẫn con tuyền cuộc đời mỗi người. Con người thường bị cám dỗ cậy dựa vào sức mình : người giàu cậy dựa vào tiền bạc vì cho rằng tiền bạc có thể giải quyết được tất cả, người trẻ bị cám dỗ cậy dựa vào khoa học và kỹ thuật vì cho rằng nó là chìa khóa của thành công, người khác thì cậy dựa vào thế lực quen biết… Nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì tất cả những cái chúng ta cậy dựa ấy sẽ không thể giải quyết được những khó khăn của cuộc sống và càng không thể đương đầu được với những mưu mô cám dỗ của quỷ ma.

Xin Đức Maria giúp chúng ta noi gương Mẹ, nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài đang làm chủ và điểu khiển mọi loài cũng như làm chủ và hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Amen.

– Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …

– Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…

– Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…

Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?

Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).

Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).

Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.

39. Muốn có đức tin mạnh, cần phải thử thách _ Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân! 

Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.

Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.

1/ Địa lý của Biển HồGalilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ

Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.

Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó. 

Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ. 

Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”(Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! ” ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4, 41).

2/ Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia”cách an toàn

Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta: 

Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ  được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy. 

Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin. 

Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.

Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.  

Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô… đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).

Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến. 

Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.

Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an. 

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.

40. Những đợt sóng _ Trầm Thiên Thu

Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.

Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!

Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,…), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,…), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,…).

Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng vềđâu?”.

Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.

Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).

Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).

Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đãban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!

Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).

Thánh Phaolô cho biết: Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).

Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đãchết và sống lại vì mình”.

Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!

Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!

Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).

Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.

Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.

Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?

Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.

Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,… dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

41. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ _ Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” 

Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.

Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).

Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)

Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!

Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. A-men.

42. Suy niệm của Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Có một câu chuyện về đôi vợ chồng có 6 người con. Như mọi cha mẹ, đôi vợ chồng này cảm thấy cần có một ngày sống riêng với nhau, cho nên họ dặn dò và chuẩn bị con cái chu đáo cẩn thận ở nhà. Sau đó họ lái xe tới một cái hồ, vui hưởng thời giờ và tâm sự với nhau trên một du thuyền nhỏ.

Gió thổi nhè nhẹ và không bao lâu từ từ đưa chiếc du thuyền xa bờ ra giữa hồ. Đang lúc hưởng những giây phút thoải mái, thình lình bầu trời đổi thành sám vì những đám mây đen kéo đến. Gió nhè nhẹ bây giờ trở thành những cơn gió bão, tạo nên những làn sóng lớn và dữ dội đập vào thành thuyền làm cho chiếc du thuyền chao đảo.

Chỉ sau mấy giây phút sau đó, chiếc du thuyền bị đắm và biến mất dưới những ngọn sóng lớn chập chờn. Đôi vợ chồng lấy hết sức bám chặt vào hai chiếc phao cứu cấp nhỏ. Sau 4 tiếng đồng hồ chiến đấu với những cơn sóng lớn dữ dằn và chịu đựng khí hậu lạnh buốt, họ cảm thấy quá mệt mỏi, hết sức, đuối hơi, và nghĩ rằng giây phút cuối cuộc đời của họ gần đến.   Lấy hết tất cả sức cuối cùng còn lại, họ cùng nhau cầu nguyện và sau đó buông tay nhau ra để mặc cho những ngọn sóng đưa đẩy.

Năm tiếng sau đó, người chồng thoi thóp, nửa tỉnh nửa mê, trôi nổi trên mặt hồ. Anh lấy hết sức gọi tên người vợ, nhưng không có tiếng trả lời, và anh cảm thấy mất hết hy vọng. Anh nghĩ tới sự đau đớn lúc phải nói với các con mẹ của chúng đã chết chìm, và có cảm giác kinh hoàng không biết mình có thể sống sót không.

Trong lúc nguy khốn đó, anh nghĩ tới một câu trong Thánh vịnh 50 “Hãy kêu cầu Ta trong ngày cùng khốn, Ta sẽ giải thoát, và ngươi sẽ làm hiển danh Ta.” (Tv. 50, 15) Anh bắt đầu kêu cầu Chúa với tất cả lòng tin và cậy trông vào chủ quyền của Chúa. Sau đó một sự kiện xảy ra, trong lúc giọng nói của anh từ từ yếu đi và nhỏ dần, một chiếc thuyền cấp cứu đã nhìn thấy anh và tăng tốc chạy đến. Trong khi anh được dìu kéo lên thuyền từ dòng nước giá lạnh, anh hỏi những người cấp cứu có tin tức gì về vợ anh không.   Họ trả lời không. Họ không có tin tức và không nghe thấy gì về vợ anh.

Thình lình, một sự lạ thường xảy ra, họ nhìn thấy hình dáng của vợ anh ở khoảng cách xa xa đang trôi nổi trên mặt hồ. Khi đến nơi, họ thấy người vợ đang run cầm cập vì giá lạnh nhưng còn sống. Sau đó là giây phút trùng phùng trong nước mắt, và họ cùng chung trong lời cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa.

Khi về nhà, vợ chồng và những người con tụ họp lại, tiếp tục cầu nguyện dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Họ cảm tạ Chúa, không những đã cứu thoát họ khỏi chết, mà còn lôi kéo vợ chồng và gia đình đến gần Chúa, và với nhau một cách khắng khít hơn, kết quả sau một cơn nguy khốn trong cuộc đời.

Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện đôi vợ chồng trên đây có một sự tương đồng với câu truyện trong bài Tin mừng hôm nay. Trong hai câu truyện đều có những người có cảm giác kinh hoàng sợ hãi cho tính mạng trong một cơn bão tố trên biển hồ. Cả hai câu truyện đều có những người trong lúc đối diện với sự kinh hoàng và cơn khốn khó đều kêu cầu Chúa giúp đỡ, và được Chúa nghe lời và cứu chữa. Đức tin của họ được củng cố, trở nên vững mạnh hơn, kết quả của một kinh nghiệm khốn khó, sóng gió trong cuộc đời.

Hai câu truyện trên cũng gởi đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, và sứ điệp này có 2 khía cạnh mà chúng ta thường quên và cần được nhắc lại. Thứ nhất, hai câu truyện trên đây là sứ điệp nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống sẽ có những cơn khốn khó, sóng gió xảy ra, nhưng lôi kéo chúng ta đến gần với Chúa và với nhau hơn. Tôi xin nhấn mạnh có những trường hợp xảy ra lôi kéo chúng ta đến với Chúa và với nhau hơn, vì không phải trường hợp nào cũng có kết quả như vậy, sự thật, có những trường hợp ngược lại. Một sự khó khăn hay cơn sóng gió xảy ra trong cuộc sống có thể tách rời và đưa chúng ta xa Chúa, mất đức tin và xa nhau hơn, làm cho cha mẹ, vợ chồng, con cái bất hòa, đưa tới cảnh ly dị, con cái lâm cảnh khốn khổ, xa lìa anh chị em, thân nhân bạn bè, thậm chí xa cả cộng đoàn giáo xứ nữa.  

Và tới đây chúng ta nhận thấy, cả hai câu truyện trên đây cho chúng ta bài học quan trọng và giúp chúng ta phân biệt được một sự khác biệt to lớn. Sự khác biệt mà một sự khó khăn, một cơn sóng gió trong đời lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và gần nhau hơn, hay tạo nên một khoảng cách, cách biệt chúng ta xa Chúa và xa nhau hơn là cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải ý thức rằng không phải bất cứ sự cầu nguyện nào, nhưng là cách cầu nguyện mà Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện. Cách cầu nguyện Chúa dạy là chúng ta đặt trọn niềm tin nơi Chúa và trong thánh ý của Chúa cho chúng ta. Đó là cách cầu nguyện mà chính Chúa Giê-su đã làm gương cho các môn đệ và cho chúng ta khi Chúa cầu nguyện trong vườn Giệt-si-ma-ni, Chúa thưa với Chúa Cha “Lạy Cha …. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” (Lc. 22, 42)

Chúng ta phải biết rằng một sự cầu nguyện mà không có ý nguyệnn hay một niềm tin nhận biết Thiên Chúa biết những gì tốt đẹp cho chúng ta, thì thật sự không phải là lời cầu nguyện. Một cách cầu nguyện không phải là một sự cầu nguyện chính đáng nếu chúng ta có thái độ coi Chúa như là một người tôi tớ, bắt Chúa phải vâng theo ý muốn của chúng ta, phải nghe lời chúng ta phán bảo, hay làm những điều chúng ta mong muốn ngay. Đây là biểu hiệu lòng ích kỷ và không có lòng tin thật.   Chúng ta phải có thái độ và lòng tin Chúa là người Cha nhân từ và yêu thương chúng ta như một người mẹ hiền, hay một người cha nhân từ, như chúng ta mừng ngày Hiền phụ hôm nay. Chúng ta phải tin Chúa biết điều gì tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống sẽ có những khó khăn, thử thách, sẽ có những cơn bão hay giống tố xảy đến. Những sự kiện này có thể lôi kéo đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, hay ngược lại làm chúng ta xa cách Chúa, và sự khác biệt là cầu nguyện, nhưng là sự cầu nguyện mà Chúa dạy chúng ta cầu nguyện như Chúa phán: “Lạy Cha …. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt trọn niềm tin, cậy trông và phó thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chứ không phải chỉ lúc gặp khó khăn hay sóng gió mà thôi.

home Mục lục Lưu trữ