Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1366040
BỎ HẾT MỌI SỰ MÀ THEO CHÚA
Trang Tin Mừng này, như nhiều trang khác, dưới vẻ bề ngoài hời hợt kể về một giai thoại của đời sống Đức Giêsu thật ra là một trang về giáo hội học hay thần học về Giáo Hội.
Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa
Trước tiên, tôi nhìn ngắm quang cảnh cụ thể. Rồi tôi thử tưởng tượng. Đức Giêsu ở giữa một đám đông. Người nói. Đám đông lắng nghe Người. Người không nói bất kỳ điều gì: Người nói Lời Chúa. Nhà thần học Luca nói với chúng ta đó là vai trò đầu tiên của Giáo Hội: việc rao giảng! Điều mà Giáo Hội cố gắng thực hiện chính.Đức Giêsu đã bắt đầu điều đó. Sự rao giảng của Giáo Hội là sự kéo dài việc rao giảng của Đức Giêsu và có cùng một nội dung.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Lời Chúa, lòng khao khát được lắng nghe Lời Ngài.
Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông
Quang cảnh cụ thể và hiện thực. Nhưng cũng là quang cảnh có tính tượng trưng sâu sắc. Chiếc thuyền tạo ra một khoảng cách; giữa Đức Giêsu và đám đông, như thế nhấn mạnh vẻ uy nghi nào đó của Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy. Và “thuyền đó là thuyền của Simon “tức Phêrô” Giữa đám đông các môn đệ, Luca thong thả nhận ra một vài người sẽ trở thành “nhóm mười hai mà Đức Giêsu gọi là các Tông Đồ.” (Lc 6,12)…và trong nhóm mười hai này, Luca còn nhận ra Simon là trọng tâm của bài tường thuật và được gọi đích danh sáu lần trong trang Phúc âm này. Vì thế, đây là cơ cấu chủ yếu của Giáo Hội mà Đức Giêsu mong muốn.
Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội có thể làm cho chúng ta vui mừng hay khó chịu. Dọc dài theo lịch sử, các giáo hoàng và các giám mục có thể đã đóng những vai trò trần tục theo hình ảnh các ông hoàng của thế gian này, hỡi ôi! Nhưng về mặt thần học, chính Đức Giêsu thiết lập cơ cấu tông truyền của Giáo Hội. Trong Giáo hội, các vị có chức tránh trước tiên không phải là một thủ lĩnh, một bề trên trong phẩm trật, một người chấp chính, mà là một người phục vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng Phục vụ trong bí tích. Giáo sĩ là một dấu chỉ, một Bí tích của Đức Giêsu Kitô. Giữa đám đông các môn đệ có linh mục là dấu chỉ rằng chúng ta không chinh phục ân sủng và Lời Chúa, nhưng chúng ta tiếp nhận Lời từ một Đấng khác. Thánh chức đại diện cho Đức Kitô quả là một trách nhiệm đáng sợ. Ngày hôm nay, chẳng phải chúng ta có khuynh hướng nguy hiểm là đánh giá thấp “lời giảng dạy” của Giáo Hội, là bác bỏ khỏi Giáo Hội khía cạnh bí tích, mầu nhiệm, thiêng liêng đó sao? Để chỉ nhìn thấy con người đang nói mà quên đi Đấng mà người ấy đại diện và biểu thị một cách hiệu lực đó sao? Công đồng dám khẳng đinh: “Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ Người hiện diện trong con người thừa tác viên. Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh. Ai rửa tội chính là Đức Kitô rửa. Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác” (S.C 7). Chúng ta có cầu nguyện để các Giáo hoàng, các Giám mục, các linh mục đóng đúng vai trò ấy hay không?
Chiếc thuyền ấy của Simon, neo trong cái vũng nhỏ ở Ca-phác-na-um; tôi thích tưởng tượng nó như một chiếc thuyền cũ kỹ tồi tàn mà khắp mọi chỗ có những mảnh ván đóng đinh chong vào để lấp kín những chỗ hư hại… một chiếc thuyền rất phàm nhân, rất bình thường, rất nghèo hèn! Nhưng Đức Giêsu đã bước lên chiếc thuyền ấy và từ đó Người nói! Ôi! Chiếc thuyền mẫu nhiệm, Giáo Hội của Người, và Lạy Chúa, nó vừa rất con người và cũng rất thánh thiêng…
Giảng xong, Người bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá
Bản dịch theo mặt chữ thì tốt hơn và nói rằng: Ra chỗ nước sâu hay đúng hơn: “Ra chỗ nước trên vực thẳm “eis to bathos” ‘ tiếng Hy Lạp. Từ tiếng Bathos có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp “bathiscaphe”: Chiếc tàu lặn của Cousteau để thám hiểm các vực sâu dưới đáy biển. Đối với dân Sêmít, dân cư của các vùng đất khô cằn, biển là nơi đáng ngại nhất, biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật trong hỏa ngục (St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1). Nghề biển là một nghề nguy hiểm. Oi có biết bao thủy thủ, thuyền trưởng “bị nuốt chửng, nhận chìm” vào cái hàm mở rộng của biển cả!
Như thế, Đức Giêsu nói một cách tượng trưng điều này: “Con thuyền của Simon, Giáo Hội của Ta, hãy tiến vào nơi hiểm nghèo của biển cả, vào nơi hiểm nghèo của thế gian, hãy rời bỏ sự an toàn của bờ bến; hãy tiến lên trên vực thẳm”. Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết mạo hiểm.
Ông Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.
Sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn vượt quá những sứ mạng của con người: Người môn đệ chân chính lắng nghe “lời” Chúa dù lời đòi hỏi người ấy những điều xem ra phi lý.
Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm
Luca nhấn mạnh đến tính chất phi thường của việc đánh cá siêu phàm ấy: Lưới rách, một sự giúp đỡ cần thiết, người ta đổ cá đầy “hai” thuyền, thuyền sắp chìm!
Giáo Hội chỉ có thể thành công nhờ tin vào Lời của Đức Giêsu. Thế thì Simon tư tế phải nhớ lại thôi! Trên mảnh đất chuyên môn của mình Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông những giới hạn của mình: Vì thế, ông không là gì cả nếu không có Người. “Chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì cả!” Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
Đó là ý nghĩa mẫu nhiệm của sự thất bại: giai đoạn đau khổ và khiêm hạ để chúng ta từ bỏ chính mình và đem lại cho chúng ta cơ hội giải phóng mình khỏi những ảo tưởng vẫn làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của mình. Như thế, có chẳng lúc, chúng ta được mời gọi phải thực hiện một bước liều của đức tin: để hoàn thành các bổn phận nghề nghiệp của chúng ta, để yêu thương chồng mình để chấp nhận một đứa con, để chịu đựng một thử thách… hay hoàn toàn đơn giản, để chịu đựng một ngày của cuộc sống khô cằn trong đó chúng ta vất vả mà không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tiến lên trên vực thẳm”, phải liều mình với một cử chỉ điên rồ mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta! Hỡi Giáo Hội! Tại sao bạn còn nghi ngại?
Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc
Ở đây Luca dùng trước biệt danh “Phêrô” mà sau này Đức Giêsu sẽ đặt cho ông Simon (Lc 6,14). Cũng vậy, Luca dùng trước danh hiệu “Chúa” (“Kurios” trong tiếng Hy Lạp) sẽ là danh hiệu của Chúa phục sinh trong vinh quang (Lc 24,3 – 24,34).
Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy một sự run sợ lạ lùng, đây là nền tảng hầu như phổ biến của tình cảm tôn giáo trong mọi tôn giáo trên thế giới. “Khốn cho tôi, tôi là một con người có đôi môi ô uế”. Isaia đã nói (6, 1) khi nghe thấy các thiên sứ kêu lên: “Thánh! Thánh! Thánh! Lạy Chúa là Thiên Chúa hoàn vũ” Chúng ta còn nhớ những người dân ở Nadarét xin Thiên Chúa làm những phép lạ! Còn người môn đệ chân chính lại sợ hãi trước phép lạ và cầu khẩn Thiên Chúa tránh xa mình. Xin Chúa trách xa con, Phêrô khẩn khoản nài xin. Con là kẻ tội lỗi. Sau này khi nghe tiếng gà gáy, ông sẽ còn khám phá một cách sâu xa hơn tình trạng tội lỗi của mình! à thì ra người ta không thờ phụng nhân cách trong Giáo Hội, cũng không tôn thờ giáo hoàng. Con người mà Đức Giêsu đã yêu cầu đại diện Người tức vị giáo hoàng đầu tiên là một “con người tội lỗi”. Trước đó, Phêrô là trưởng nhóm”, ông tin tưởng vào kiến thức và kinh nghiệm của mình. Nhưng cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đã cho ông thấy sự nhỏ bé của ông. Đức Giêsu chuẩn bị ông trở thành thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Người bằng cách làm cho ông ý thức sự vô nghĩa của mình. Thánh Gioan khi kể lại sự đánh cá mầu nhiệm đã đặt nó sau sự Phục Sinh (21,1,19) và câu chuyện chấm dứt bằng việc nhắc đến Phêrô đã ba lần chối Chúa, và bằng sự tín nhiệm của Đức Giêsu đem lại cho người tội lỗi ấy một sứ mệnh!
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy
Ở đây trong quá trình câu chuyện, Luca kể lại cho chúng ta tên những người khác như để làm nổi bật Phêrô trước đó.
Và các người bạn ấy của Phêrô được kể ra để nói rằng họ chia sẻ niềm kinh ngạc lạ lùng của Phêrô là cũng là những người sẽ có đặc ân đáng sợ là bộ ba chứng kiến (Phêrô, Giacôbê và Gioan) sự sống lại của một bé gái (Lc 8,51), sự biến hình trên núi (Lc 9,28), sự hấp hối trong vườn cây dầu (Mt 26,37).
Ngày nay, sự sợ hãi mà điều thánh thiêng gây ra dường như biến mất. Nhưng đó không phải là sự biến mất. Đó là một sự di chuyển: Khi người ta mất đi sự kính sợ Thiên Chúa, thì người ta bị mọi thứ hốt hoảng và sợ hãi xâm chiếm: nguy cơ nguyên tử, sự mất quân bình đủ loại sự mỏng dòn mới về tâm lý, sự lo lắng trước tương lai.
Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: Đừng sợ
Đó là lời an ủi mà trong Kinh Thánh các thiên sứ luôn luôn nói với những con người sững sờ vì sự hiện diện thánh thiêng (Lc 1,13-30 – 2,10). Đó cũng là lời mà Đức Giêsu sẽ luôn luôn nói sau khi Người sống lại (Mt 28,10; Kh 1,17).
Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
Theo hình ảnh tượng trưng của biển cả được khai triển bên trên, vấn đề là “cứu sống những con người khỏi vực thẳm quỷ quái”: Đó là vai trò của Giáo Hội. Nhân loại là mồi ngon của những sức mạnh đáng sợ muốn nuốt trửng nhân loại. Bạn”hãy là “kẻ đánh lưới người”, bạn hãy cứu họ!
Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người
Phép lạ thật sự không phải là đánh cá ngoài khơi xa mà là đánh cá trong các tâm hồn; họ đã chọn lựa sự liều lĩnh ấy của Đức tin để theo Đức Giêsu và bỏ hết mọi sự.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ƠN GỌI CỦA CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Ơn Gọi”, hay đúng hơn: “Ơn Thiên Triệu”.
Is 6: 1-2a, 3-8
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ I-sai-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của mình từ một thị kiến uy nghi hùng vĩ xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vào năm 740 trước Công Nguyên.
1Cr 15: 1-11
Trong đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc lại ơn gọi đặc biệt mà thánh nhân đã lãnh nhận từ chính Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ngài đã biến đổi thánh nhân từ một kẻ bách đạo cuồng tín trở thành một Tông Đồ nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
Lc 5: 1-11
Thánh Lu-ca thuật lại câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi: ngay liền sau mẽ cá kỳ diệu, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan đáp trả lời mời gọi của Chúa Giê-su, họ từ bỏ mọi sự mà cất bước đi theo Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 6: 1-2a, 3-8)
Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã đọc bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Giê-rê-mi-a; Chúa Nhật này, chúng ta đọc ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a. Hai bài tường thuật được viết theo văn phong rất khác nhau và hai phản ứng của hai vị ngôn sứ này cũng đối lập với nhau. Nét đặc trưng của ơn gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a là bầu khí thân tình lòng bên lòng với Thiên Chúa, trong khi ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a được định vị vào một thị kiến uy nghiêm hùng vĩ trong một cuộc thần hiển. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a không hề run sợ trước Thiên Chúa, nhưng lại sợ hãi khi phải đối đầu với con người. Trái lại, ngôn sứ I-sai-a run sợ trước vẻ uy nghi cao cả của Thiên Chúa và tự nguyện xin Chúa sai mình đi thi hành sứ vụ của Ngài cho con người.
Xem ra ngôn sứ I-sai-a xuất thân từ một gia đình thế giá ở Giê-ru-sa-lem và có mối quan hệ gần gũi với giai cấp lãnh đạo. Những người mà ông có sứ mạng chuyển giao sứ điệp là vua và các triều thần ở chốn cung đình. Ơn gọi của ngôn sứ I-xai-a được định vị vào “năm vua Út-di-gia-hu băng hà”. Vua Út-di-gia-hu là vị vua bất hạnh của vương quốc Giu-đa. Vào cuối triều đại hạnh phúc và thịnh vượng, vua bị bệnh cùi và qua đời năm 740 trước Công Nguyên.
Thị kiến khai mạc:
I-sai-a sinh vào năm 765 trước Công Nguyên. Vào khoảng 25 tuổi, ông đón nhận thị kiến ở Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong những giờ phút xuất thần hay trong một buổi phụng vụ. Dù thế nào, ông đón nhận một mặc khải về tính siêu việt và sự thánh thiện của Thiên Chúa đến nổi làm xáo động tâm trí của ông. Ngay liền sau đó, ông trở thành vị ngôn sứ của Thiên Chúa ngàn trùng chí thánh.
Cuộc thần hiển được diễn tả theo hình tượng truyền thống: đất rung chuyển, khói tỏa mù mịt, như ở trên núi Xi-nai trong Cựu Ước hay như ở Nhà Tiệc Ly vào ngày lễ Ngũ Tuần trong Tân Ước. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa cõi thế. Đức Chúa tỏ mình ra cho ông I-sai-a như một vị vua quyền năng mà sự uy nghi cao cả của Ngài bao phủ đền thánh, có các thần Xê-ra-phim hộ giá. Các thần này tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Đây là lời tung hô “ba lần thánh”, nghĩa là, cực thánh hay ngàn trùng chí thánh, xem ra được dùng trong phụng vụ rồi. I-sai-a hiểu lời tung hô này và sẽ đặt nó vào trọng tâm sứ điệp của mình. Ông sẽ gọi Đức Chúa là “Đấng Thánh của Ít-ra-en”.
Sự khiêm hạ của con người và lòng xót thương của Thiên Chúa:
I-sai-a nhận ra ngay sự bất xứng của mình nên thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”. Với lời thú nhận đầy khiêm hạ này, Đức Chúa đáp trả bằng lòng xót thương; Ngài sai một trong các thần Xê-ra-phim, tay cầm một hòn than hồng trên bàn Hương Án và thanh tẩy môi miệng ô uế của vị ngôn sứ tương lai: “Đây, cái này đã chạm vào đến môi ngươi, ngươi đã được tha tội và xá tội”, để ông có thể xứng đáng là sứ giả của Ngài, người được Chúa sai đi truyền đạt Lời Chúa cho con người.
Ơn gọi:
Đức Chúa đã bày tỏ sự siêu việt của Ngài nhưng cũng sự hào hiệp của Ngài. Trước tiếng gọi của Thiên Chúa: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?”, I-sai-a vào lúc đó mới 25 tuổi đời mau mắn đáp trả không một chút đắn đo suy nghĩ: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Cảm thấy mình có liên đới với dân này, “một dân môi miệng ô uế”, I-xai-a sẽ là sứ giả của Thiên Chúa cho họ. Trong Tân Ước, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan sau mẽ cá kỳ diệu, sau này thánh Phao-lô sau thị kiến về Đấng Phục Sinh trên đường đi Đa-mát, đã không thể nào cưỡng kháng lại trước tiếng gọi của Chúa Ki tô.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 1-11)
Chúng ta tiếp đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô.
Hai điều lợi ích:
Đoạn trích hôm nay cho chúng ta hai điều lợi ích. Điều lợi ích thứ nhất đó là thánh Phao-lô biện minh phẩm chất Tông Đồ của mình, vì thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình từ chính Chúa Ki-tô. Điều lợi ích thứ hai rất nổi tiếng: bản văn này là lời tuyên xưng đức tin về giá trị cứu độ của cái chết Đức Ki tô và một lời khẳng định quý báu về cuộc Phục Sinh, kèm theo danh sách của tất cả những chứng nhân đã thấy Đấng Phục Sinh, danh sách mà chỉ một mình thánh Phao-lô cho đầy đủ nhất. Các tác giả Tin Mừng không nói đến việc Chúa Ki tô hiện ra cho năm trăm người, cũng không nói đến việc Ngài hiện ra cho ông Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, người đảm nhận trách nhiệm của Cộng Đoàn Giê-ru-sa-lem. Trong danh sách này, thánh Phao-lô cũng kể ra việc Chúa Giê-su hiện ra cho tất cả các Tông Đồ. Thuật ngữ “Tông Đồ” ở đây rõ ràng phải được hiểu theo nghĩa rất rộng, bởi vì Nhóm Mười Hai được trích dẫn trước đó.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô đặt cuộc xuất hiện của Chúa Ki-tô mà thánh nhân đã được thụ hưởng trên đường đi Đa-mát trên cùng một bình diện với những lần xuất hiện của Chúa Ki-tô giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên. Ở đây chúng ta chỉ dừng lại ở nơi ơn gọi của thánh Phao-lô mà chủ đề phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn hướng đến.
Ơn gọi của thánh Phao-lô:
Như ngôn sứ I-sai-a, thánh Phao-lô đã bị Thiên Chúa bắt lấy. Thánh nhân đã có một thị kiến về Đức Ki-tô Phục Sinh, Ngài tỏ mình ra trong một luồng ánh sáng rực rỡ khiến thánh nhân ngã xuống đất. Kẻ trước đây đã cuồng tín ra tay bắt hại các người Ki-tô hữu, bây giờ thú nhận là mình bất xứng: “Tôi là kẻ hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng giống như I-sai-a, thánh Phao-lô đã được tha thứ và được gọi đích thân: “Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Chúng ta nhận ra tâm hồn của vị Tông Đồ này: một sự trộn lẫn thường hằng giữa sự khiêm tốn và sự tự hào hãnh diện.
Thánh Phao-lô biện minh ơn gọi Tông Đồ của mình:
Thánh Phao-lô có nhiều lý do để mà biện minh ơn gọi của mình. Trong số những tín hữu Cô-rin-tô, vài người bác bỏ tước hiệu Tông Đồ của thánh nhân và buộc tội thánh nhân là huênh hoang tự đắc.
Ở đầu thư, thánh Phao-lô tự giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki tô” (1Cr 1: 1). Như vậy, ngay từ đầu thư, các tín hữu Cô-rin-tô được báo trước rằng vị rao giảng của họ đòi hỏi tính chính danh ơn gọi Tông Đồ của mình. Sự đòi hỏi này được lập lại xa hơn một chút: “Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em” (9: 1-2).
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay được định vị vào cuối thư, vì thế, đây là lời thánh Phao-lô nhắc lại lần thứ ba về tính chất đặc thù của ơn gọi mình: chính Đức Ki-tô đã đích thân ủy thác sứ vụ tông đồ cho thánh nhân, chứ không có bất kỳ trung gian phàm nhân nào.
TIN MỪNG (Lc 5: 1-11)
Xem ra khi viết đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca vận dụng cùng một phương pháp văn chương mà thánh ký đã sử dụng rồi trong bài tường thuật “Chúa Giê-su viếng thăm Na-da-rét”: tập hợp lại những sự kiện nối tiếp nhau thành một bài trình thuật duy nhất trong cùng một khung cảnh, để tránh những lập lại và để câu chuyện trở nên sống động hơn, thậm chí kịch tính hơn. Bài trình thuật này là “một bức tranh có ba cảnh” nối tiếp nhau:
-Chúa Giê-su rao giảng trên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét (5: 1-3).
-Mẽ cá kỳ diệu (5: 4-7).
-Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
Chúa Giê-su rao giảng bên bờ hồ (5: 1-3):
Theo Tin Mừng Lu-ca, trước đây Đức Giê-su chọn các hội đường để truyền đạt đạo lý của Ngài cho dân chúng, giờ đây Ngài chọn bờ hồ Ghen-nê-xa-rét làm khung cảnh cho lời rao giảng của Ngài. Trong cùng câu chuyện này của thánh Mác-cô (Mc 1: 16-20), Chúa Giê-su chưa ban cho ông Si-mon một tên mới là Phê-rô; chỉ sau này Ngài sẽ cho ông tên mới này vào lúc Ngài chọn Nhóm Mười Hai (Mc 6: 14). Nhưng ngay trong câu chuyện của thánh Lu-ca, Chúa Giê-su chỉ định trước người ngư phủ miền Ga-li-lê này sẽ là thủ lãnh của Giáo Hội Ngài qua tên kép “ông Si-mon Phê-rô”. Như vậy, câu chuyện của thánh Lu-ca mang đậm nét viễn cảnh Giáo Hội hơn câu chuyện của thánh Mác-cô.
Trong hai con chuyền neo đậu ở đó, Chúa Giê-su chọn thuyền của ông Si-mon, “từ trên thuyền này Người giảng dạy đám đông”. Đây không phải là một sự tình cờ. Hình ảnh con thuyền Giáo Hội được thánh Phê-rô lèo lái đã trở thành kinh điển kể từ Giáo Phụ Tết-tu-li-a-nô và thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô; hình ảnh này xem ra tiềm ẩn ở nơi đoạn Tin Mừng này rồi. Đối với các Giáo Phụ, hình ảnh này là một biểu tượng kinh điển về Giáo Hội lữ hành trên trần thế, như lời giải thích của thánh Am-rô-si-ô: “Đây là con thuyền mà theo thánh Mát-thêu đang có nguy cơ bị chìm và theo thánh Lu-ca thì đầy cá. Ở đây chúng ta có thể thấy những bước khởi đầu đầy khó khăn của Giáo Hội và những thành quả sau này của nó” (St Ambrose, Expositio evangelii sec. Lucam, in loc.). Đức Ki-tô bước vào thuyền của thánh Phê-rô để giảng dạy đám đông dân chúng – và từ con thuyền của thánh Phê-rô, tức Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy toàn thể thế giới.
Mẽ cá kỳ diệu (5: 4-7).
Mẽ cá kỳ diệu được thánh Lu-ca thuật lại ở đây, một tình tiết mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu không biết. Chúng ta cũng gặp thấy mẽ cá kỳ diệu này ở trong phần phụ chương của Tin Mừng Gioan (ch. 21), nhưng được đinh vị sau biến cố Phục Sinh. Có thể chỉ có một biến cố duy nhất, nhưng chúng ta không còn biết rõ biến cố này được định vị vào lúc nào. Điều này cho thấy mỗi tác giả Tin Mừng có quan điểm thần học khác nhau về cùng một biến cố.
Sau khi rao giảng cho đám đông dân chúng, Chúa Giê-su đòi hỏi thánh Phê-rô một hành vi đức tin. Đối với một ngư phủ chuyên nghề đánh cá trên biển Hồ, đêm là thời gian thuận tiện để ra khơi thả lưới bắt cá, chứ không phải ban ngày. Ấy vậy, Chúa Giê-su lại bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, ông Si-mon nhấn mạnh sự phi lý của sự đòi hỏi này: “Thưa Thầy, chúng tôi vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”; tuy nhiên, đức tin của ông mách bảo ông chấp nhận sự thách đố này: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Đối với đức tin, điều không thể lại có thể. Một mẽ lưới đầy cá đến nổi họ phải ra hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền khác, là Gia-cô-bê và Gioan, đến giúp.
Chúng ta ghi nhận rằng ông An-rê, anh của ông Si-mon, không được kể ra. Tuy nhiên thánh Lu-ca dùng số nhiều: “Họ đã làm như vậy, và bắt được nhiều cá”, khi nói về những người bạn đồng nghiệp cùng ở với ông Si-mon. Sở dĩ không nêu tên thánh An-rê ở đây, thánh Luca nghĩ đến bộ ba: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, bộ ba này sẽ được liên kết với Chúa Giê-su một cách đặc biệt hơn các Tông Đồ khác: chỉ ba người môn đệ này sẽ được diễm phúc chứng kiến việc Chúa phục sinh con gái của ông trưởng hội đường (Lc 8: 51), biến cố Chúa Giê-su biến hình trên núi (Lc 9: 28), và cơn hấp hối của Ngài trong vườn Ô-liu (Mc 14: 33). Thật đáng ghi nhận rằng Chúa Giê-su vẫn tôn trọng tình bạn đồng nghiệp của họ trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ của Ngài; tuy nhiên, ba người môn đệ này sẽ là cột trụ của Giáo Hội tiên khởi. Sự cộng tác của tất cả họ vào mẽ cá kỳ diệu này phác họa sứ vụ của Giáo Hội tương lai rồi.
Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật “ơn gọi của các môn đệ tiên khởi” trong cùng một khung cảnh bên bờ hồ. Trong khi họ đang làm công việc hằng ngày của những ngư phủ: thánh Phê-rô và thánh An-rê đang quăng lưới đánh cá, còn thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê thì đang vá lưới ở trong thuyền, Chúa Giê-su gọi họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Trước tiếng gọi của Chúa Giê-su, không một chút đắn đo suy tính hơn thiệt, họ mau mắn đáp trả bằng thái độ dứt khoát: lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài. Hoạt cảnh thật giản dị nhưng thật cảm động.
Nét độc đáo của thánh Lu-ca là liên kết câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi với mẽ cá kỳ diệu. Khi làm như thế, thánh Lu-ca làm cho câu chuyện nầy thêm phần kịch tính hơn. Các môn đệ tương lai xem ra không thể cưỡng lại trước Đức Giê-su, một nhà phép thuật thần thông hơn là một nhà giảng thuyết lưu động, cho dù họ không tách biệt quá rõ nét hai khía cạnh hấp dẫn này ở nơi con người Đức Giê-su. Thánh Phê-rô phản ứng như ngôn sứ I-sai-a khi thánh nhân bày tỏ một khoảng cách tách biệt giữa phàm nhân tội lỗi và Thiên Chúa thánh thiện: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Như trong câu chuyện ơn gọi của vị ngôn sứ I-sai-a, lòng xót thương của Thiên Chúa đáp trả sự khiêm tốn của vị ngôn sứ, Chúa Giê-su cũng trấn an thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chính con người mà thánh nhân có sứ mạng thu phục. Trong viễn cảnh của sứ mạng này, bờ hồ Ghen-nê-xa-rét mờ nhạt trước một thế giới bao la đang chờ đợi Tin Mừng thu phục.
Một bức tranh ba cảnh của thánh Lu-ca có một sự duy nhất thật thấm thía: trên phong nền của toàn cảnh nổi bật một viễn cảnh về Giáo Hội phổ quát.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN – NĂM C
MAU MẮN ĐÁP LỜI CHÚA GỌI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I tường thuật ơn gọi của ngôn sứ Isaia : Khi nghe tiếng Chúa gọi “Ta sẽ sai ai đây ?”, Isaia đã nhanh chóng đáp lại : “Dạ con đây, xin sai con đi”.
– Bài Tin Mừng tường thuật ơn gọi của Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cũng đáp lời mời gọi cách nhanh chóng : “Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”.
– Trong bài đọc II, Phaolô nói về ơn gọi của mình : mặc dù ông không xứng đáng, bởi ông đã từng bách hại đạo Chúa, nhưng vì chính Chúa gọi ông làm tông đồ nên ông đáp lại lời Ngài và sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn để rao giảng Tin Mừng của Ngài.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Từ Chúa nhật đầu mùa Thường niên, chúng ta đã từng bước đi theo hành trình sứ vụ của Chúa Giêsu. Hôm nay Phụng vụ dẫn chúng ta tới lúc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan. Điểm đáng chú ý trong chuyện này là các ông đã mau mắn bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa.
Ngày hôm nay Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Ngài và hãy mau mắn đi theo Ngài.
Gợi ý sám hối
– Vì mải mê lo những công việc thế tục, chúng ta đã phớt lờ đi những lần Chúa lên tiếng kêu gọi chúng ta.
– Có nhiều thứ chúng ta quá quyến luyến nên không thể từ bỏ mặc dù biết là nó xấu.
– Cũng như thánh Phêrô ngày xưa, giờ đây chúng ta hãy khiêm tốn thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”.
Lời Chúa
Bài đọc I (Is 6,1-8)
Tường thuật ơn gọi của Isaia. Chúng ta hãy để ý đến tâm trạng và phản ứng của ông :
– Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong Đền thờ. Qua những hiện tượng đặc biệt như cảnh các thiên thần tung hô, các cửa đền thờ rung chuyển, đền thờ nghi ngút khói v.v. Isaia, biết là có Thiên Chúa đang hiện diện.
– Cảm giác đầu tiên của Isaia là thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện.
– Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy Isaia và sau đó mời gọi ông làm ngôn sứ, thì Isaia đã mạnh dạn đáp lời.
Đáp ca (Tv 137)
Đây là bài ca được hát trong đền thờ, “giữa chư vị thiên thần, con đàn ca kính Chúa”. Thánh vịnh này rất hợp với tâm tình của Isaia khi được Chúa kêu gọi.
Tin Mừng (Lc 5,1-11)
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22 :
– Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.
– Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nễ lời Ngài nên ông thả lưới.
– Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.
– Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
Bài đọc II (1 Cr 15,1-11)
Nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm tông đồ.
Để trả lời họ, Phaolô nói rằng tất cả những gì ông rao giảng đều là những gì ông đã lãnh nhận từ giáo huấn của Chúa Giêsu. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác.
Gợi ý giảng
* 1. Chúa gọi
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được rất nhiều điều về ơn gọi.
a/ Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa kêu gọi con người : Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc I). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được gọi (bài đọc II). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin Mừng). Đúng như lời Chúa Giêsu nói : “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
b/ Có khi ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đặc biệt với Chúa. Cuộc gặp gỡ đặc biệt làm nẩy sinh một cảm nghiệm sâu sắc. Rồi cảm nghiệm sâu sắc cuốn hút con người vào một tương quan thân thiết mới mẻ với Chúa. Như trường hợp của Isaia, ông vẫn biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và mạnh mẽ hơn các thần khác. Nhưng hôm ấy trong Đền thờ ông biết thêm rằng Ngài là Đấng hoàn toàn khác, là Đấng 3 lần thánh. Điều đó khiến ông xúc động mạnh. Ông diễn tả cảm xúc mạnh mẽ ấy qua những hình ảnh các trụ của đền thờ rung chuyển và khói tỏa mịt mù khắp Đền thờ. Còn Phaolô thì mô tả việc Chúa gọi ông đột ngột như “một đứa trẻ sinh non” trước khi đủ ngày đủ tháng. Phần Phêrô, mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
c/ Nhưng nhiều khi Chúa gọi con người trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt : nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng, nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ chuyển hướng cả cuộc đời. Hôm đó Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu.
Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì cuộc đời chắc chắn sẽ biến đổi.
* 2. Bất xứng và tín nhiệm
Ba bài tường thuật ơn gọi hôm nay đều có những nét giống nhau :
– Tất cả những người được gọi đều cảm thấy bất xứng : Isaia thốt lên “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế” ; Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” ; Phêrô thì sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu “Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
– Nhưng tất cả đều được Thiên Chúa tín nhiệm : Isaia được trao sứ mạng ngôn sứ ; Phêrô được chọn làm tông đồ ; Phaolô được sai đi làm tông đồ cho lương dân.
– Dù biết mình bất xứng mà Thiên Chúa vẫn tín nhiệm, nên các ngài đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng được trao phó : Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa “Dạ con đây, xin sai con đi” ; Phêrô “đưa thuyền vào bờ rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài” ; Phaolô dám khoe “Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.
Thành quả vàng son
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng ?
Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói : “Vianney, anh dốt đặc như con lừa ! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì”.
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời : “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao ?”
Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.
Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng : “Vì lời Thầy con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói : “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8).
Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.
Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.
“Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa : Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.
Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin : Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy : “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”, nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa : “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.
Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa : “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa : “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô : “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.
Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã “bỏ mọi sự mà đi theo Người ” (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.
Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào ; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.
*
Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.
Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen. (TP)
Thất bại và thành công
Phêrô và các bạn “đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Chán nản, mỏi mệt, các ông không đánh cá nữa và đi giặt lưới.
Cho dù đã làm hết sức mình nhưng con người vẫn có thể gặp thất bại. Người học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi thi rớt. Vận động viên thể thao cố gắng chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục con nên người tốt, nhưng nó lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.
Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông “Các anh đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy ?” Nhưng Ngài đã không trách. Tại sao ? Vì Ngài thông cảm với các ông. Đã cố gắng hết mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó đã làm các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng đau khổ thêm. Thất bại đã là một vết thương, không cần sát muối vào cho nó càng xót xa thêm.
Điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. “Thất bại không phải là nằm dưới, mà chỉ là đang đứng ở dưới thôi” (Failure is not the falling down, but staying down)
Vả lại, thành công là gì ? Thành công không phải là tất cả. Ta có thể thành công cãi thắng một cuộc tranh luận, nhưng rồi bị mất một người bạn. Ta có thể thành công trong cuộc tranh dành một địa vị cao hơn, nhưng sau đó các mối tương quan với đồng nghiệp trở thành lạnh nhạt hơn. Hương vị của ly rượu thành công có thể rất ngọt ngào ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng là trống rỗng.
Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để gậm nhấm nỗi chua cay. Ngài kích thích họ làm lại : “Hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”.
Emerson nói rằng mỗi người chúng ta đều có một tiềm năng to lớn, giống như một căn phòng, một vòi nước chưa bao giờ được mở ra. Cần có ai đó chỉ cho ta biết tiềm năng đó và khuyến khích chúng ta mở ra : “Hãy chèo ra chỗ nước sâu”.
Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không kích thích chỗ yếu đuối tội lỗi của ông, nhưng kích thích đúng vào tiềm năng của ông. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới bắt được nhiều cá. Sau đó các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Ngài thả lưới bắt người.
Con người thường thất bại. Nhưng con người cần có người tin tưởng và khuyến khích để lại vươn lên, vì “Từ thành công đền thất bại chỉ là một bước. Nhưng từ thất bại đến thành công là cả một con đường dài” (Yiddish) (FM)
* 5. “Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”
Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”, có lẽ ông đã vặn lại “Bộ anh khùng hả ? Anh muốn cho tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao ? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng”.
Nhưng vì người nói câu đó là Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”, nhưng liền sau đó thì vâng lời “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng phải vâng theo.
Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.
Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế ? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn “Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”.
Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)
Một bước khởi đầu tốt đẹp
Isaia, Phaolô và Phêrô là những gương mặt trung tâm của các bài đọc hôm nay. Cả ba đều đã làm được những việc trọng đại cho Chúa. Tuy nhiên cả ba, ai cũng mang mặc cảm thấp hèn, coi mình là người yếu kém. Các ngài không tự mình tiến lên phía trước, nhưng được Chúa mời gọi tiến lên. Các ngài đáp lại tiếng Chúa gọi một cách miễn cưỡng vì biết mình không xứng đáng.
Bước đi đầu tiên với nhận thức về thân phận bất xứng của mình, xét theo phương diện đạo đức, đó là một bước khởi đầu rất tốt. Người nào quá tự tin tiến về phía trước thì thường làm hại hơn là làm tốt, vì người đó dựa vào khả năng của mình và tìm kiếm vinh dự cho mình. Kiêu căng và tự phụ chỉ là cát, mà xây nhà trên cát thì sẽ sụp đổ thôi.
Ngược lại, khi ta gặp người nào biết sợ, biết lo thì ta có thể tin tưởng người đó. Thánh Phaolô nói một câu rất nghịch lý : “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Nghịch lý nhưng rất có lý, bởi vì khi Ngài biết mình yếu thì Ngài tìm về Chúa, và chính sức mạnh của Chúa làm cho Ngài mạnh.
Khi ta biết mình yếu, Chúa sẽ thêm sức cho ta. Khi ta biết mình trống rỗng, Chúa sẽ đong đầy cho ta. Khi ta biết mình nghèo nàn, Chúa sẽ làm giàu cho ta. Khi đó ta sẽ có thể làm được công việc của Ngài, và Ngài sẽ hoàn thành trong ta những điều ta không làm nổi.
Khiêm tốn là một bước khởi đầu tốt. Nhưng không phải vì thế mà ta cứ khăng khăng chối từ. Như thế chỉ là hèn nhát, lười biếng và ích kỷ. Cứ như thế thì ta không thể cứu nổi mình, càng không thể cứu ai khác. Isaia nói rằng môi miệng ông ô uế, nhưng Chúa đã sai thiên thần lấy than hồng thanh tẩy miệng ông. Phêrô xin Chúa lánh xa ông, nhưng Chúa gọi ông chia xẻ sứ mạng của Ngài. Chúa không chê bỏ người tội lỗi, trái lại Ngài đến với những kẻ tội lỗi, để cứu họ, và để mời họ hợp tác cứu những người tội lỗi khác. Chúa giúp những người tội lỗi đi bước đầu.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn để nhận biết sự yếu đuối của mình. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta vượt lên sự yếu đuối ấy. Rồi chúng ta hãy mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy bảo. Khi đó chúng ta sẽ vui mừng cảm nhận được như Phaolô là “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, vì yêu thương mà Chúa đã chọn chúng ta làm người Kitô hữu, làm tông đồ của Chúa. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh là Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh thần xuống trên Hội thánh / để Hội thánh ngày càng được tinh tuyền / vững mạnh / và phát triển không ngừng.
- Hằng năm / thiên tai vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mưa thuận gió hòa / để mọi người được sống trong cảnh an cư lạc nghiệp.
- Chúa Giêsu bảo thánh Phêrô : / Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đã từ bỏ mọi sự mà dấn thân theo Chúa hiểu rằng / nếu vâng theo thánh ý Chúa / họ sẽ thu được những kết quả bất ngờ.
- Đời sống đức tin của người Kitô hữu / không chỉ giới hạn trong việc đọc kinh / tham dự thánh lễ / lãnh nhận các bí tích ở nhà thờ / mà còn phải thể hiện ngoài xã hội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin của mình / bằng đời sống bác ái yêu thương đối với hết thảy mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con luôn cố gắng thực hiện lời mời gọi quan trọng ngày. Chúng con cầu xin…
Trong Thánh Lễ
– Trước Kinh Lạy Cha : Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu mang Tin Mừng cứu độ cho loài người. Chúa Giêsu lại kêu mời chúng ta chia xẻ sứ mạng ấy. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha.
Giải tán
“Hãy ra khơi thả lưới”. Đó là lời Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại như Phêrô xưa. Chúc anh chị em ra đi bình an.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH (10/05/2025) .: TẬN HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN (10/05/2025) .: CON CHIÊN CỦA CHÚA GIÊSU (10/05/2025) .: NGƯỜI MỤC TỬ (10/05/2025) .: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU (10/05/2025) .: VỊ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH (10/05/2025) .: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam