Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1366143

BỎ THÁI ĐỘ KHINH THƯỜNG

BỎ THÁI ĐỘ KHINH THƯỜNG (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe

Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ “quá khứ” xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa “trong quá khứ” hoặc “trong tương lai”: phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta… Hôm nay!

Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?

Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người

Tôi chiêm ngưỡng “miệng” Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những “lời ân sủng” từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn “không mất tiền” và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ “giải phóng” trả lại tự do, hay “giải thoát” (“aphésis” trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một “sứ điệp của ân sủng”, một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về “ân sủng” trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).

Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?”. Những người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?

Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?

Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: “Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse” (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với “sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là “con ông Giuse”. Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.

Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói” và “làm”. Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh “quá” con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến “con ông Giuse”.

Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!

Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn công. “Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!”. Người ta không ngừng đặt “cơn cám dỗ” lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những “dấu chỉ từ trời xuống” (Lc 11,16).

Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).

“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa “để phục vụ chúng ta” chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu Người “làm” điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một “động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi! Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’

Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình

Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.

Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm “người phát ngôn” của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: “Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).

Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc “chính nghĩa của Thiên Chúa”, nắm chắc lời “vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ “pro-phèmi” có nghĩa là “tôi nói vì”).

Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.

Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse trong cái “hố” ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.

Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi

Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm. “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Lc 7,34).

Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực

Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng “lôi” Đức Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Ong không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.

Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi

Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục “con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C

ĐỨC GIÊSU, LỜI BAN ÂN SỦNG CHO MỌI NGƯỜI – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.

1/. Một sứ mệnh không biên giới:

Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc trình thuật của thánh Luca về việc Đức Giêsu đến thăm hội đường Nagiarét. trình thuật đó đã được thánh Luca đặt vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ và được trình bày như một cảnh khái quát chương trình, một biến cố điển hình có dụng ý khai mở và tóm tắt những gì sắp xảy ra.

Sau khi đứng lên đọc đoạn sách Isaia 61: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi…”, theo tập tục, Đức Giêsu ngồi xuống giảng một bài và tuyên bố không úp mở rằng: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”.

Đầu tiên những người có mặt trong hội đường hôm ấy đều tán thành và thán phục những lời ban ân sủng (= những lời hay ý đẹp) thốt ra từ miệng Người”. Họ bảo nhau: “ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. (Đức Giêsu mà thánh sử đã ghi trong gia phả của Người, được coi là con của Giuse: 3,23).

Đức Giêsu nắm lấy ngay vai trò chủ động của mình bằng hai giai đoạn.

– Trước tiên, bằng cách tố giác hy vọng úp mở của những người đồng hương khi họ muốn Chúa làm cho họ, tại quê hương Người, những việc lạ lùng mà Người đã làm ở những nơi khác và muốn Người thi hành lời ban ân sủng để mưu ích cho họ. Dựa vào một câu tục ngữ, Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na- um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!

Lẽ nào ta lại không có thể coi đây như điều báo trước về lời nhục mạ mà người ta sẽ nhắm vào Đức Giêsu khi Người hấp hối trên thập giá: “Hãy tự cứu mình đi, nếu ông là Đấng Kitô “(Lc. 23,35. 7.39)

Rồi, bằng cách loan báo sứ mệnh của mình có tính phổ quát, Đức Giêsu đưa các thính giả của mình trở về với hai khuôn mặt lớn của Cựu ước là ngôn sứ Êlia và Eâlisa; đây là hai vị ngôn sứ có những hoạt động vượt ranh giới về mặt lãnh thổ cũng như tôn giáo. Vị thứ nhất đã hóa bánh và dầu ăn ra nhiều giúp nuôi sống một góa phụ ở Sarepta là miền đất thuộc dân ngoại (Cv. l7.7-27). Vị thứ hai là ngôn sứ Êlisa, môn đệ của Êlia đã chữa khỏi bệnh cùi cho một viên tướng người Syria đích thân tới gặp vị tiên tri ngày trên đất Israel (2 CV. 5, 1-27). Góa phụ Sarépta và Naaman người Syria được coi như những người cầm đầu đàn lũ đông đảo những dân ngoại mà công cuộc giải phóng họ đã được loan báo trong sách Isaia 61, thì “hôm nay” được ứng nghiệm nơi Người là Đức Giêsu.

“Gương Êlia và Êlisa ban ơn huệ của Thiên Chúa cho dân ngoại, như J. Dupgnt nhận xét, cho người ta thấy trước rằng một khi Chúa Giêsu đã bị dân Israel cũng như các đồng hương của mình chối bỏ thì sứ điệp cứu độ sẽ chuyên sang cho các dân ngoại. Vì thế biến cố ở Nagiarét là điềm báo trước những gì người ta thấy xảy ra đối với Phaolô ở Antiôkhia miền Pixiđia và ở Rôma khi ngài quay về phía các dân ngoại. Cách xử sự như vậy của Phaolô lúc này đã được hai vị ngôn sứ Eâlia và Êlisa thực hiện trong thời buổi của ngài như để tiên báo và biện minh cho hành động của Phaolô vậy”.

2/. Một sự chối bỏ báo trước sự chối bỏ khác:

Lời loan báo Israel không còn được hưởng đặc ân và Thiên Chúa tiếp đón các dân ngoại đã khiến cho cử tọa của hội đường đầy phẫn nộ. Y hệt như thái độ của những người Do thái ở Antiôkhia Pixiđia lúc đầu còn thiện cảm, tử tế rồi không bao lâu sau chuyển thành giận dữ khi họ thấy dân ngoại “nghe Lời Thiên Chúa” (Cv 13,44-45).

Thì này đây, những người đồng hương của Đức Giêsu đang đứng dậy lôi Người “ra khỏi thành” “để xô Người xuống vực”. Giống như những thù địch của Chúa rồi đây sẽ lôi Người “ra khỏi thành” Giêrusalem để đóng đinh Người. Chẳng khác gì những người Do thái sẽ lôi Stêphanô “ra khỏi thành” để ném đá ông vậy (Cv. 7,54).

Nhưng giờ của Người chưa tới, nên “Người băng qua họ mà đi”; Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường sẽ dẫn Người tới thành đô Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn của Người, và là nơi Người sẽ sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ vào sáng ngày Lễ Vượt Qua.

BÀI ĐỌC THÊM

1/. “Một bài tường thuật để loan báo tương lai” (H. Vulliez trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 90)

“Luca đã viế câu chuyện này để báo trước tương lai hơn là để tường thuật lại những gì xảy ra ở Nagiarét. Biến cố xảy ra trong hội đường hôm ấy là một giai đoạn mở đầu bi thảm báo trước những gì sẽ xảy ra cho sứ mệnh của Đức Giêsu khi ở giữa loài người. Một sứ mệnh sẽ vươn tới mọi dân tộc. Một sứ mệnh sẽ dẫn Người tới cái chết: Người sẽ bị người nhà của mình lên án tử, nhưng phàm những ai thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi mầu da nước tóc, đón nhận Người thì Người sẽ cho họ được làm con Thiên Chúa”.

2/. “Con người luôn có khuynh hướng muốn giam hãm Thiên Chúa”.

Những con người ấy nhận mình là những kẻ tin Chúa chân thành, có lòng đạo đức và thực hành đạo, thế mà sau khi đã ca ngợi Đức Giêsu ở trong hội đường, chính họ lại “đầy phẫn nộ, đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Vậy có ai dám nhận mình giống những người ấy không?

Dù là ai chăng nữa, chúng ta thảy đều có khuynh hướng muốn giam hãm Chúa và Đấng Kitô của Người trong một phạm vi nhất định của Giáo Hội ta, trong lời lẽ của những giáo điều, những truyền thống, những thực hành và ngay cả trong những cách sùng mộ của chúng ta nữa. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng nắm độc quyền về các ân sủng, phép lạ, ánh sáng của Chúa và ngay cả đức ái mà Người là nguồn mạch nữa. Vậy mà Phúc âm hôm nay khẳng định mạnh mẽ với ta rằng những người thân của Đức Giêsu thường sẵn sàng tống cổ Người ra khỏi nhà thờ, nghề nghiệp, quyết định và gia đinh của họ, mỗi khi sứ điệp của Chúa không làm vừa lòng họ, mỗi khi cuộc viếng thăm của Người gây phiền hà cho họ. Còn chính Chúa Giêsu thì lại nhắc nhở ta rằng Thiên Chúa đã thực hiện được những sự lạ lùng nơi các dân ngoại, đã cho những người cùi, những người thù địch của Israel, dân Chúa, được lành sạch. Đối với Thiên Chúa tình yêu, chỉ có tình yêu là tiêu chuẩn cuối cùng làm nên giá trị và sự thật cho tư tưởng và hành động của ta.

3/. “Một sự hiểu lầm đáng sợ” (G. Boucher, trong “Le ciel sur terre”)

Tại sao người con của quê hương lại không thực hiện được ở quê quán mình những việc lạ lùng mà người ấy đã làm ở những nơi khác? Và rồi có thể đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng trở mặt từ khen ngợi đến phẫn nộ đấy. Bởi lẽ, về phần Đức Giêsu thì Người nói rõ rằng điều cốt yếu mà Người muốn trình bày cho họ không phải chỉ có vấn đề các việc lạ lùng, mà Người muốn mạc khải cho họ tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa. Cái đó mới là điều hạnh phúc và may mắn thực cho chúng ta.

Lẽ ra Đức Giêsu phải cung cấp cho những người đồng hương của mình tiền bạc hoặc chữa cho họ khỏi những bệnh này tật nọ mới đúng. Xem ra người ta ao ước một điều, thì Chúa lại đưa ra điều ngược lại. Bởi lẽ ai nấy đều thích được lãnh nhận, trong khi Đức Giêsu lại đòi hỏi phải cho đi, cho đi bản thân mình, cho đi mạng sống mình. Và kết cục sẽ là thành công và hạnh phúc.

Đức Giêu có hy vọng những người đồng hương của mình sẽ hiểu biết và thông cảm hơn với Người không? Bởi vì họ là những người nhà của Người mà. Họ biết Người hơn, từng sát cạnh liền kề với Người, quý chuộng Người và yêu mến Người mà!

Vậy mà chỉ mới ngay trong buổi nói chuyện đầu tiên, họ đều nổi xung lên với Người. Cả đám đều đứng dậy xô đẩy Người ra ngoài, loại bỏ và trục xuất Người khỏi cộng đồng của họ. Là vì Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong đợi. Họ nghĩ là Người lừa gạt quần chúng!

Chừng nào sứ điệp của Người còn là lại kêu gọi hoán cải cuộc đời và chừng nào người ta chỉ thích sống dễ dãi, thì việc chối bỏ Đấng Thiên Chúa sai đến đã khởi sự rồi.

Họ muốn cho Người phải chết, nên họ tìm cách loại bỏ Người con của quê hương này ra khỏi nhà họ bằng cách xô Người xuống vực thẳm.

Nhưng Đức Giêsu “băng qua giữa họ mà đi”. Người là kẻ tự do, hết sức tự do, Người cứ thảnh thời đi trên con đường của mình lòng đầy tự tin và tin vào sự trung tín của Thiên Chúa Cha Người. con đường Người đi được vạch sẵn. Không có gì làm cho Người phải lui bước!

 CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C

SỨ MẠNG GIAN KHỔ CỦA CÁC NGÔN SỨ (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các ngôn sứ đã kinh qua. Các ngài đã công bố những ý định của Thiên Chúa ngược lại với kỳ vọng của con người. Vì thế, để chu toàn sứ mạng của mình giữa những chống đối, các ngài phải cậy dựa vào Thiên Chúa.

Gr 1: 4-5, 17-19

Vốn bản tính là một người hiền lành, nhút nhát có một tâm hồn nhạy cảm, không muốn làm phiền lòng ai, tư tế Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Ngài để loan báo án phạt sắp đến của Thiên Chúa cho một dân bất tín, vì thế ông bị mọi người căm ghét và tìm cách hãm hại.

1Cr 12: 31-13: 13

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bài thánh thi nổi tiếng ca ngợi “đức mến” cao trọng trên tất cả.

Lc 4: 21-30

Tin Mừng tiếp tục thuật lại phần thứ hai của câu chuyện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét ở đó Ngài gặp phải thái độ tiêu cực từ phía đồng hương của Ngài, họ không hiểu và tìm cách hãm hại Ngài.

BÀI ĐỌC I (Gr 1: 4-5, 17-19)

Trong lịch sử của trào lưu ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chiếm lấy một chỗ đặc thù. Tác phẩm của ông chứa đựng, hơn bất kỳ tác phẩm nào khác, những lời trần tình bộc lộ cách tự nhiên đời sống nội tâm sâu xa của vị ngôn sứ. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ông Gióp là tưởng tượng. Trái lại, trong cuộc đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a phản ảnh đúng những gì vị ngôn sứ đã thực sự kinh qua.

Vốn là một con người hiền lành, nhút nhát có tâm hồn nhạy cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận một sứ mạng hết sức khó khăn. Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của ông “từ năm thứ mười ba triều vua Giô-si-gia-hu”, tức là năm 626 t.Cn. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt, nơi có một thánh địa thời xưa, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số.

1/.Thiên Chúa gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Ngài:

Thiên Chúa đích thân kêu gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ cho Ngài khi xưng mình là Ta:

“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;

trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi,

Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (1: 5).

Đây là biểu thức quen thuộc trong các sấm ngôn, biểu thức này bày tỏ mối quan hệ mật thiết đặc biệt giữa Thiên Chúa và vị ngôn sứ của Ngài. Người ta cũng có thể nghĩ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa vang lên trong lòng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.

Sáng kiến của Thiên Chúa là ưu tiên và vô điều kiện. Thiên Chúa chọn những ai phục vụ những ý định của Ngài đều là như thế. Đức Giê-su gọi các môn đệ của Ngài cũng theo cùng một cách như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15: 16).

Thiên Chúa đã gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a ngay từ trong lòng mẹ. Trong Kinh Thánh cho đến lúc đó, kiểu nói này chỉ được dành cho ông Sam-son (Tl 13: 5). Ngôn sứ I-sai-a sẽ lấy lại và áp dụng cho “người tôi trung” mầu nhiệm:

“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,

lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi” (Is 49: 1).

Thánh Phao-lô cũng sẽ định nghĩa ơn gọi của ngài như vậy: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong bụng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người” (Gl 1: 15). Thánh Lu-ca cũng sẽ nói về Gioan Tẩy Giả (Lc 1: 15) cũng như về Chúa Giê-su như vậy trong câu chuyện Truyền Tin.

Kiểu nói: “Ta đã biết ngươi” nói lên một sự hiểu biết chan chứa yêu thương, được ẩn chứa trong động từ “biết” của ngôn ngữ Híp-ri, nghĩa là Thiên Chúa dành sự ưu ái của Ngài cho người mà Ngài chọn. Kiểu nói: “Ta đã thánh hóa ngươi” hàm chứa một sự tấn phong về phương diện thiêng liêng theo cùng một cách thức như các ngôn sứ khác.

Khi nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn quá trẻ: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Chúng ta không biết tuổi đời của ông vào lúc đó, có thể khoảng chừng ngoài hai mươi tuổi. Ông tự coi mình còn trẻ người non dạ, chưa có đủ bề dày kinh nghiệm trước một sứ mạng cao trọng này.

2/.Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:

Chính vị tư tế còn trẻ người non dạ này mà Thiên Chúa truyền lệnh:

“Hãy chỗi dậy! hãy nói với chúng

tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.

Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ;

nếu không, trước mặt chúng,

chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (1: 17).

Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a là kêu gọi toàn dân hoán cải và loan báo án phạt sắp tới: Thiên Chúa sẽ hủy diệt vương quốc, tàn phá Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Với tâm hồn nhạy bén, ông sẽ khóc than về nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc của ông, nhưng với tư cách là ngôn sứ, ông sẽ kiên vững trong sứ mạng của mình cách sáng suốt đến kinh ngạc và nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển của mình vào một “Giao Ước Mới”.

3/.Ơn phù trợ của Thiên Chúa:

Vì loan báo những tai họa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bách hại, bị chế nhạo. Ông sẽ cho thấy lòng can đảm khôn sánh trong những gian nan thử thách. Đức Chúa hứa với ông:     

 “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố,

nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ:

từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh,

các tư tế và toàn dân trong xứ” (1: 18).

Trong các ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a có vận mệnh gần giống với vận mệnh của Chúa Ki-tô hơn cả.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 31: 13: 13)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bản văn nổi tiếng được gọi là “bài ca đức mến”. Bài ca đức mến này hấp dẫn chúng ta vì nhiệp điệu của nó, những từ chủ yếu được láy đi láy lại, câu kết luận gây ấn tượng trên chúng ta: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba điều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (13: 13).

1/.Chủ nghĩa cá nhân:

Thánh Phao-lô vừa gợi lên sự giàu có của những ân huệ mà Thánh Thần ban cách quảng đại cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên, những ân ban này gây nên những xáo trộn, những ghen tuông. Thánh Phao-lô đã nhận thức rất rõ một trong những khuyết điểm cốt yếu của các tín hữu này là “chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, thánh nhân thường hằng cầu xin cho họ ý thức rằng họ là một phần của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki-tô.

Phương thuốc thật sự chữa trị chủ nghĩa cá nhân là “Mến Chúa và yêu người”. Đây là một ân huệ vượt trên mọi ân huệ. Mọi người trong cộng đoàn muốn được ơn nói tiên tri, được ơn nói tiếng lạ, được biết mọi điều bí nhiệm, thánh Phao-lô đáp lại: “Giả như tôi có được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chăng là gì” (13: 1-2).

Thánh Phao-lô không nghi ngờ đức tin của tín hữu Cô-rin-tô, thậm chí “chuyển núi dời non”; thánh nhân không nghi ngờ đức mến của họ, thậm chí đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí; thánh nhân không nghi ngờ đức cậy của họ, thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Điều quan trọng mà thánh nhân muốn nhắn gởi đến họ chính là nếu họ “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì” (13: 3).

2/.Cao trọng hơn cả là đức mến:

Nếu phần bút chiến chiếm một chỗ lớn trong lời khuyên bảo cháy bỏng của thánh Phao-lô, điều này không là tất cả. Những phẩm chất của “đức mến” mà thánh nhân kể ra không dứt và cuối cùng thánh nhân quả quyết: “Đức mến không bao giờ mất được”. Viễn cảnh đều hướng đến yêu thương người thân cận, nhưng mến Chúa cũng được hàm chứa ở đây. Trong tất cả các thư của mình, thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại lòng mến đối với Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta để sinh hoa kết trái, đó là những hoa trái của đức ái huynh đệ. Thánh Phao-lô chỉ cho thấy dù làm bất kỳ công việc nào, ngay cả hiến thân mình cho đến chết, mà không có đức mến thì chưa đủ. Chính đức tin gợi lên đức mến; chính đức cậy nâng đỡ đức mến. Tự bản chất, ba nhân đức này đều là thánh thiện, nhưng “cao trọng hơn cả là đức mến”.

TIN MỪNG (Lc 4: 21-30)

Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su về thăm đồng hương Na-da-rét của Ngài theo thánh Lu-ca. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đã được mọi người đồng hương hoan hỷ chào đón và ngưỡng mộ, vì họ hãnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách thức giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại, phần thứ hai mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay là một thất bại và gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét. Câu chuyện này biểu tượng cho hai thái độ tương phản của dân Ít-ra-en: trước hết hoan hỷ tiếp đón Đức Giê-su, sau đó tìm cách loại bỏ và giết chết Người. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo sứ mạng phổ quát của Người.

1/.Thái độ của người đồng hương Na-da-rét từ thiện cảm sang ác cảm (4: 22):

Từ thái độ thiện cảm: “Mọi người đều tán thưởng và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giê-su”, những người đồng hương Na-da-rét chuyển sang thái độ ác cảm với Ngài chỉ vì Ngài xuất thân từ một gia đình tầm thường: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”. Gia thế tầm thường của Ngài đã che khuất tầm nhìn của họ khiến không thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng được sai đến để thực hiện “lòng Chúa xót thương” trải rộng cho tất cả mọi người, nhất là những người bất hạnh, nghèo hèn, cùng khốn, bị áp bức trong xã hội, mà  ngôn sứ I-sai-a đã báo trước.

2/.Câu trả lời của Đức Giê-su (4: 23-27):

Đức Giê-su vạch trần những ý nghĩ thầm kín trong lòng họ khi trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Câu tục ngữ này tiên báo thật hoàn hảo về những lời thách đố được lập lại đến ba lần ở dưới chân thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (23: 35, 37, 39).

Với niềm kiêu hãnh hẹp hòi và với cái nhìn nông cạn, họ cảm thấy bị chạm tự ái vì Đức Giê-su, người đồng hương của họ, đã không làm những điều kỳ diệu ở tại Na-da-rét như Ngài đã làm tại Ca-phác-na-um. Họ cho rằng mình có quyền chính đáng đòi hỏi Ngài thực hiện những phép lạ cốt để thỏa mãn tính tự phụ của họ, chứ không nhằm thay đổi lòng dạ của họ. Vì thế, Đức Giê-su trích dẫn câu tục ngữ thứ hai: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình”. Qua câu tục ngữ thứ hai này, Đức Giê-su phác họa số phận chung của các ngôn sứ thời xưa, các ngài đã không được hiểu và bị bách hại bởi chính những người đồng hương của mình, tiêu biểu là số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đồng thời tiên báo số phận của chính Ngài.

Cuối cùng, Đức Giê-su dẫn chứng hai mẫu chuyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sê được trích từ 1V 17 và 2V 5. Qua hai mẫu chuyện này, Đức Giê-su muốn ám chỉ đến sứ mạng phổ quát của Ngài. Ngài đến để thực hiện sấm ngôn Is 61: 1-2, nhưng không chỉ đóng khung cho những người đồng hương của Ngài: dân Na-da-rét hay toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn mở rộng ra đến hết mọi dân mọi nước khác nữa. Việc Ngài chọn Ca-phác-na-um làm cứ điểm truyền giáo của mình theo cùng một ý nghĩa như vậy. Thành này, được gọi là “Ngã Tư của các dân tộc”, là nơi giao tiếp thường hằng của dân Do thái với những dân ngoại chung quanh. Chiều kích hoàn vũ của sứ điệp được phác họa rồi. Đó cũng là toàn bộ chương trình mà Giáo Hội, tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su, sẽ thực hiện như được miêu tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, sách này cũng là công trình biên soạn của chính thánh Lu-ca. Chính vì sứ mạng này mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thực hiện bằng cả mạng sống mình và cũng vì sứ mạng này mà Giáo Hội hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang.

3/.Tiên báo tương lai (4: 28-30):

Việc Đức Giêsu hủy bỏ đặc quyền đặc lợi của họ trong việc thi ân giáng phúc gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét của Ngài. Sự phẩn nộ của họ: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, tiên báo sự phẫn nộ của những thành viên Thượng Hội Đồng sau này. Phản ứng dữ dội của họ: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”,  tiên báo cuộc Khổ Nạn của Ngài. “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”: tiên báo cuộc Phục Sinh tương lai của Ngài. Hiện thời, chưa tới giờ của các đối thủ, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường của mình, con đường ấy rốt cuộc sẽ dẫn Ngài lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ bị dẫn ra ngoài thành thánh đến tận đỉnh đồi và bị đóng đinh tại đó.

4/.Ý nghĩa của câu chuyện Tin Mừng hôm nay:

Theo thánh Lu-ca, câu chuyện Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét mang tính ngôn sứ: câu chuyện này quy tụ mọi yếu tố tiên báo tiến trình sứ mạng của Đức Giê-su. Để hiểu một cách xác đáng những tương hợp lịch sử giữa cuộc viếng thăm Na-da-rét của Đức Giê-su và cuộc đời cứu độ của Ngài, chúng ta nên đọc liên tục: lòng nhiệt thành của đám đông dân chúng; thái độ từ chối của dân Ít-ra-en; sứ điệp được hứa cho lương dân; viễn cảnh Tử Nạn; và cuối cùng, sự tự do tối thượng của Đức Giê-su, Đấng làm chủ cuộc sống và cái chết của Người: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).

Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng tiên báo sứ mạng của Giáo Hội trong tương lai: việc loan báo về những đặc ân dành cho dân Ít-ra-en đã đến hồi kết thúc và thời kỳ Thiên Chúa đón nhận lương dân gây nên sự phẩn nộ từ phía người Do thái. Điều này dự báo những người Do thái ở An-ti-ô-khi-a chuyển dần từ thiện cảm sang “phẩn nộ” đối với thánh Phao-lô khi họ thấy dân ngoại “nghe lời của Thiên Chúa” (Cv 13: 44-45).

Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng có thể là câu chuyện của mỗi người chúng ta trong mối quan hệ với Lời Chúa. Những người đồng hương Na-da-rét đã có sẵn hình tượng về Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi không thể đòi hỏi Đức Giê-su hành động theo đúng ý muốn của họ, họ từ chối Ngài và thậm chí tìm cách hãm hại Ngài. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường hay cư xử Lời Chúa theo cùng cách thức như thế. Chúng ta đọc và tìm cách uốn nắn lời Chúa sao cho phù hợp với sở thích, ước muốn của chúng ta, thay vì để cho lời Chúa thực sự chất vấn chúng ta. Chúng ta sử dụng Lời Chúa như phương tiện biện minh cho cách sống hiện nay của mình, thay vì để cho Lời Chúa thật sự là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đó là lý do tại sao Lời Chúa không thể tác động vào cuộc sống của chúng ta, sinh hoa kết trái trong cuộc đời của chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ