Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1370624

BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ TIN MỪNG CỨU ĐỘ

Bức tranh toàn cảnh về Tin Mừng Cứu Độ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh. Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho Thế Vận hội này.

Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp với 3 gam màu chủ đạo.

1. Gam màu vàng cam. Đó chính là hình ảnh các Tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung thành với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà… Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp “chứng chỉ tốt nghiệp” hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!

Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với Thầy Giêsu Chí Thánh.

Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?

2. Gam màu xanh thẳm. Đó là gam màu phác hoạ hình ảnh đám đông dân chúng như là đàn chiên đang hết lòng đi theo Mục Tử của mình và khao khát được nghe lời hằng sống của Vị Mục Tử ấy. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh “bị” tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, ngoài biển khơi, hay trong hoang địa… Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Marcô mô tả.

Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.

Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.

3. Gam màu hồng thắm. Đây là gam màu nổi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Hậu Từ Tâm.

Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại, Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!

Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).

Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.

 

 

 

 

 

51. Ân cần với mọi người

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

 

Ở riêng một chỗ

Có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay theo hai đề tài: tách biệt và đám đông. Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đi riêng ra một nơi, còn đám đông lúc nào cũng có mặt. Theo thánh Mác-cô, hai đề tài này là những chiều kích của Nước Trời.

Tách biệt

Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền sau bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Các môn đệ đã được Đức Giêsu sai đi truyền giáo và bây giờ các ông trở về thuật lại những công việc đã làm. Các ông đã được mời gọi đến với Đức Giêsu, và lời mời gọi này chỉ có được ý nghĩa vì cuộc ra đi liền sau đó. Hôm nay, sau chuyến đi truyền giáo trở về, các ông được mời gặp gỡ với Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng.” Từ ngữ này vẫn thường được sử dụng trong những trình thuật kể lại chuyện Đức Giêsu tách riêng ra một nơi để cầu nguyện. Và theo Kinh Thánh, nơi thanh vắng hay sa mạc là nơi đặc biệt để nghe lời Thiên Chúa.

Sự tách biệt này là điều cần phải có sau thời gian hoạt động, là một nhịp thở thứ hai trước khi lại lên đường. Khoảng cách cần thiết này, thay vì là thời gian để phán xét các hoạt động, lại là lúc để các môn đệ tìm lại ý nghĩa xem ai đã cắt cử các ông đi, đồng thời có thể là lúc để tái khám phá về Chúa.

Quả vậy, sau một thời gian hoạt động, các môn đệ lại trở về sống thân mật với Thầy của mình. Ở bên Người, các ông mới hiểu được ý nghĩa cuộc sống, cũng như tìm được lý do làm cho lời giảng của mình có sức thuyết phục. Các ông trở về sống với Đức Giêsu, không phải để nhằm thoả mãn tình cảm của mình, nhưng là để cảm nghiệm sâu xa tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Người, và cũng hiểu rằng sứ vụ truyền giáo vẫn chưa trọn vẹn. Thời gian này là thời gian để tái khám phá. Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự khám phá này qua một câu có vẻ như trái ngược nhau: “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu các ngài.”

Đám đông

Thế nhưng đám đông dân chúng đã không để cho Đức Giêsu và các môn đệ tránh xa họ. Ngay từ những ngày đầu tiên Đức Giêsu mới rao giảng, họ đã có thiện cảm với Người. Dù Người có trốn vào nơi thanh vắng, họ cũng tuốn đến, có khi không để cho Đức Giêsu và các môn đệ dùng bữa (2,2.13; 3,7-9…). Họ là những người chờ mong Đấng Mê-si-a, và khi gặp được Đức Giêsu, họ hy vọng Người sẽ đáp ứng điều họ trông mong. Vì thế, Đức Giêsu có mặt ở đâu, họ cũng có mặt ở đó, có khi còn đến nơi trước Đức Giêsu và các môn đệ. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô đã mô tả cách ngộ nghĩnh: đám đông đi bộ vòng quanh hồ đã đến nơi nhanh hơn Đức Giêsu và các môn đệ đi bằng thuyền. Họ là sự trông đợi có mặt trước khi người phải xuất hiện đến.

Do lòng trông đợi, đám đông này sẽ làm thành Vương quốc. Các con chiên đầy náo nức này sẽ trở thành một đoàn chiên khi nhận biết Vị Mục Tử. Đám đông này đã lên đường, đã ra khỏi nhà của mình, đã rời xa thành phố, nên họ có thể gặp được Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.

Đối với họ, lúc này là thời gian yên tĩnh để lắng nghe Lời Chúa, lúc này là thời gian nghỉ ngơi, ở riêng một chỗ.

Người dạy dỗ họ nhiều điều

Sau bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Đấng Mê-si-a có thể dọn bàn ăn ngay tại nơi hoang vắng; Người cũng chẳng cần đợi đến mùa gặt: Đấng Mê-si-a chính là người gieo hạt, người trồng nho, người chăn chiên, nói chung là người làm vườn trong vườn Ê-đen mới. Như thế, có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay như một lời tiên báo long trọng về bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác, về Bánh Hằng Sống.

Đám đông đi theo Đức Giêsu đang cần bánh, họ bị cơn đói hành hạ. Đám đông không có tư cách của một dân. Nó đồng nghĩa với đám người hỗn độn, không trật tự, một thực tại đầy xảo trá và nguy hiểm. Hôm nay đám đông ấy vây quanh Đức Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được nuôi dưỡng, nhưng đến chiều thứ Năm Tuần Thánh, cũng đám đông này khạc nhổ vào Đức Giêsu và kêu la đòi đóng đinh Người vào thập giá!

Đức Giêsu thương đám đông ấy. Thánh Mác-cô cho thấy mối xúc động của Đức Giêsu có lý do rất sâu xa: đám đông chỉ là một tập hợp, không phải là một dân; đám đông đang lầm lạc vì không biết đường đi.

Đám đông ấy là những con chiên không có người chăn dắt; họ lang thang trong những cánh đồng đầy chết chóc. Họ thiếu thốn mọi sự. Thiếu của ăn, nhưng điều quan trọng hơn cả là thiếu một nguyên lý thống nhất làm cho họ có thể quy tụ và hiệp thông với nhau.

Đấng Mê-si-a là người đáp ứng những đòi hỏi này. Người sẽ cho họ của ăn, cho họ chỗ nghỉ “trên đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành”. Nhưng điều quan trọng và có ý nghĩa nhất là Người làm cho họ trở thành một dân tộc, và Người sẽ là Mục Tử săn sóc họ.

Thánh Mác-cô bỏ lửng câu chuyện sau khi thuật lại thái độ ân cần của Đức Giêsu với dân chúng: “Đức Giêsu chạnh lòng thương… và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” Đức Giêsu nói gì với dân chúng?

Theo bối cảnh của câu chuyện, có lẽ Đức Giêsu đã nói với họ về nỗi thống khỗ sâu xa của con người: họ chưa được quy tụ lại với nhau để sống với nhau như bạn hữu, để trở thành một dân trong đó mọi người coi nhau như anh em; nói chung lại, để thành một vương quốc theo nghĩa Kinh Thánh.

Có lẽ Đức Giêsu cũng gợi lên cho đám đông ấy biết là Người được sai đến, không phải chỉ để làm Mục Tử coi sóc nhà Ít-ra-en, nhưng còn coi sóc toàn thể nhân loại. Người được sai đến với nhiệm vụ thực hiện điều Thiên Chúa vẫn ước mong. Tất cả hãy nên một theo hình ảnh của Ta, hãy tiến sâu hơn vào trong mối tương giao chia sẻ và hiệp thông.

Đó cũng là ơn gọi của Hội Thánh, của mỗi người: làm cho thế giới đang bị chia rẽ trở thành một dân tộc anh em.

Lời giảng chính là sự sống

“Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”

“Đức Giêsu không ngừng dạy dỗ chúng ta. Khi người ta muốn tôn Người làm vua, đặt Người xa khỏi chúng ta, dành cho Người uy quyền và vinh quang như chúng ta quan niệm, Người đã từ chối… và muốn dạy bảo chúng ta.

“Người dạy bảo gì?

“Người không nói về kiến thức, về những điều phải tin, về những giáo lý trong sách vở. Nhưng Người dạy bảo chúng ta về sự sống, sự sống đích thực.

“Sự sống đích thực là gì?

“Không ai có thể trả lời đầy đủ câu hỏi này, dù người ấy có hiểu nhiều biết rộng. Sự sống, Đức Giêsu đã dạy chúng ta qua những rung động trong cuộc sống của Người, qua những lời luôn mới mẻ của Người, qua những lỗ hỗng Người không ngừng mở ra cho nhân loại.

“Đó là sự sống của Thiên Chúa, Đấng mà Đức Giêsu gọi là Cha với tất cả niềm thân ái. Đức Giêsu đã tự nhận Người ngang hàng với Chúa Cha. Nhiều người sống cùng thời với Đức Giêsu đã không thể chấp nhận những giáo huấn này của Đức Giêsu.” (theo G.Bessière)

Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận lời giảng của Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận sự sống mà Đức Giêsu muốn dạy bảo chúng ta? Chúng ta có đáp ứng thái độ ân cần của con người?

Vì Người yêu mến con người sống tự do,

nên người ta bảo rằng Người chẳng nói gì.

Vì Người mang khuôn mặt nhân loại,

nên người ta bảo rằng Người che giấu.

Vì Người quan tâm đến người nghèo,

nên người ta bảo rằng Người đã chết.

Vì Người là một Thiên Chúa đầy từ tâm,

nên người ta bảo rằng Người đang ngủ.

Vì Người không có mưu toan

nên người ta bảo rằng Người chẳng có ích gì.

(theo P. Fertin)

 

 

 

 

 

52. Đức Giêsu chạnh lòng thương – JKN.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài không?

2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử tốt không?

3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình, hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không?

Suy tư gợi ý:

1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng

Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ.

Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa». Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều». Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người chăn dắt». Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì.

2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương»

Ước gì mọi mục tử – là những người muốn noi gương Đức Giêsu một cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác – cũng có khả năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài!

3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương»

Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử – vốn là hiện thân của Đức Giêsu – cần phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38).

Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử – gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài – để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ!

4. Những «mục tử ghẻ»

Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12).

Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi. Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho» (Mt 11,28).

5. Số phận của những mục tử

Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3).

Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng «chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ».

Cầu nguyện

Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen.

 

 

 

 

 

53. Lòng thương của Chúa

(Suy niệm của FX. Nguyễn Tất Đạt)

 

“Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt”.

Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau:

Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương. Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều chào hỏi niềm nở với chúng tôi.

Kính thưa quí ông bà và anh chị em.

Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người khác chúng ta mới hiểu và thông cảm với họ. Đó là bài học mà chúng ta cần phải học hỏi và rút ra từ chính cuộc đời của Chúa Giêsu để có thể sống đúng luật bác ái của Ngài. Để cảm thông với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã hoá thân làm người, và khi làm người, Ngài chọn kiếp sống nghèo hèn cũng như sống thân thiết với người nghèo. Thiên Chúa muốn nên một với con người, nhất là những người nghèo hèn cùng khổ, những người bị gạt bỏ ra ngoài lề của xã hội.

Bài Tin Mừng hôm nay đã ghi lại sự cảm thông ấy của Chúa Giêsu trước tiên là với các Tông Đồ. Ngài biết các ông đã rất mệt mỏi sau chuyến đi công tác về, và không đợi các ông ngỏ ý, Ngài đã khuyên các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Còn đối với đám đông, Thánh Mac cô đã tóm gọn: “Ngài động lòng thương”. Trái tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa như đang từng giây, từng phút bừng cháy một ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa cảm thông và trìu mến đối với tất cả mọi người chúng ta.

Kính thưa quí ông bà và anh chị em, Chúa Giêsu xuống thế làm người là để sống và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người. Có lẽ ai trong chúng ta ít nhất cũng đã hơn một lần được nghe các đoạn Tin Mừng nói về:

– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của Lazarô và Ngài đã cho sống lại.

– Chúa Giêsu động lòng thương trước sự hối cải của tên trộm trên đồi Calvê và hứa ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.

– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của một thanh niên con bà goá ở thành Na-in và Ngài đã cho anh ấy sống lại.v.v.

Qua những việc làm cao cả đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài, đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn tỏ bày cho chúng ta nhân tính đích thực của con người. Không thể làm người mà không biết xúc động, cảm thông trước những đau khổ của người chung quanh.

Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông thì giống cánh”. Chúng ta là dân riêng của Chúa Giêsu, là học trò của Chúa Giêsu, và là con cái của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta đã học đựơc nơi Ngài điều gì để xứng đáng được gọi là học trò của Ngài? Chúng ta đã nên giống Ngài ở điểm nào để xứng đáng được gọi là con cái của Ngài ?

Vậy qua bài Tin Mừng hôm nay, tất cả mỗi người chúng ta cần phải nhìn lại xem:

– Đã bao lần ta thực sự cảm thông trước lầm lỗi của người khác?

– Đã bao lần ta thực sự chia sẻ trước những đau khổ của người khác?

– Đã bao lần ta thực sự động lòng thương trước những người ngày ngày lê lết ngoài phố chợ kia chưa?…

Kính thưa cộng đoàn, chúng ta phải không ngừng học hỏi Đức Giêsu là Thầy của chúng ta để sống cho ra người, sống cho xứng đáng với phẩm giá con người, chính mỗi người chúng ta phải biết rung động và cảm thông trước những đau khổ với người khác, biết chia sẽ nổi khổ của người khác, biết lấy nổi khổ đau của người khác làm của chính mình. Nếu chúng ta thể hiện được những việc như thế, chúng ta mới xứng đáng là những người trò, người con của Đức Kitô sống để làm chứng cho lòng thương xót, sự cảm thông và tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, và có lẽ chúng ta cũng cần khẳng định rằng đó chính là sứ vụ, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu dưới lòng trần thế. Amen.

 

 

 

 

 

54. Người chạnh lòng thương

(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.

Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.

Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).

Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).

Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.

 

 

 

 

 

55. Đi tìm con người – Lm. Nguyễn Lộc Hòa

 

Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy”. Nhà hiền triết trả lời: “Ta tìm con người”. Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy nghẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.

Bài Tin Mừng thánh Maccô cho thấy: Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên không người chăn dắt. Sao lại không có người chăn dắt? Họ là người Israel có vua quan, có chức quyền, có nhà nước cai trị mà. Phải mà không phải vậy. Bởi lẽ vua Hê-rốt và quần thần của ông ta thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn phải dựa vào thế lực của đế quốc Rôma để sinh tồn. Điều suy nhất họ vẫn cần mẫn chu toàn là giáng xuống đồng bào khốn khổ của họ, siêu cao thuế nặng để có của cống nạp cho quan tề nước lớn. Đồng thời không từ một biện pháp chuyên chính đẩm máu nào để chèn ép mọi manh nha phản kháng nổi dậy của dân chúng.

Nhưng dù gì thì dù, người Israel vẫn cứ là dân riêng của Chúa. Họ có tôn giáo, có đền thờ, có các bậc lãnh đạo tinh thần, những vị này đâu hết rồi. Có chủ chăn song cũng như không. Một số các vị gồm tư tế và kinh sư chạy theo thời cuộc dấn sâu vào chính trị. Tôn giáo đối với họ chỉ là thứ để tạo thế lực đổi chac1t với nhà cầm quyền. Một số các vị khác đặc biệt như nhóm tư tế đền thờ đã tận dụng vai trò “thầy cúng” của họ để làm giàu, thậm chí biến nhà Chúa thành thị trường kinh doanh trục lợi. Cũng chính vì tham vọng tiền và quyền họ thi nhau xén lông vắt kiệt sữa chiên trong khi không hề bận tâm lo cho chiên nắm cỏ, ngụm nước. Bóc lột chiên chán chê họ quay ra ẩu đả cắn xé lẫn nhau. Đó là bức tranh thảm thương của dân chúng thời ngôn sứ Giê-ri-mi-a vừa được tái hiện hầu như nguyên vẹn trước mắt Đức Giêsu. Không đau lòng Đấng Cứu Thế sao được, không xót dạ vị Thiên Sai sao được, nổi đau vừa do số phận đáng thương của đàn chiên và vì tính cách bất xứng vô đạo của các chủ chăn chiên. Đây là thời điểm Thiên Chúa bị chủ chăn tối cao hành động. Ngài sẽ nghiêm khắc trừng trị đám chủ chăn gian ác bất xứng. Người đem đàn chiên của người khỏi tay chúng để trao cho vị mục tử nhân lành chăm sóc. Vị mục tử này giàu lòng cảm thương vừa lo cho chiên ăn mạnh trong đàn vừa lặn lội đi tìm chiên lạc.

Và như thánh Phaolô miêu tả vị mục tử chính nhân đó sẽ thí mạng đổ máu trên thập giá để hòa giải liên kết chiên thành một để biến đổi mọi kẻ xa lạ thành người nhà bà con ruột rà với nhau và với Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa đến với mỗi người, mỗi cộng đoàn Hội thánh cũng như với đất nước ta hôm nay làm sống lại niềm hy vọng gần như tàn lụi giữa bao khó khăn truyền miên trong lịch sử và trong hiện tại. Thiên Chúa vẫn luôn để mắt đến dân của ngài. Đức Giêsu Kitô vị mục tử nhân lành đầy lòng trấn ẩn luôn dẫn dắt bảo vệ và nuôi dưỡng đàn chiên của người.

 

 

 

 

 

56. Tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

 

Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.

Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.

Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?

Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.

Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!

Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.

Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.

Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.

Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:

Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ

về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi

sau những ngày giờ làm việc vất vả.

Xin giúp thánh hoá công việc con làm

và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi

hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả

và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa

để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.

 

 

 

 

 

57. Chúa Nhật 16 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

 

Khi còn tại thế, Chúa Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin Thiên Chúa thánh hoá công việc họ làm. Sách Sáng thế ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, ta cần làm việc để nuôi thân và hộ đỡ gia đình. Ta bị gò bó vào giờ làm việc trong sở làm. Tuy nhiên nếu lúc nào ta cũng làm việc, và coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh là sa vào thuyết duy vật. Thuyết duy vật coi con người là dụng cụ sản xuất, và đánh giá con người theo năng lượng sản xuất.

Trong Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy: Sau khi các tông đồ thuật lại mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy, Người bảo các ông hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi một chút (Mc 6:31). Và rồi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ap dụng lời Chúa dạy, ta cầm tìm thời giờ nghỉ ngơi để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống. Việc nghỉ ngơi không có nghiã là việc mất thời giờ. Việc nghỉ ngơi đã được Thiên Chúa chúc phúc trong Phúc âm hôm nay. Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là đạo Ki-tô giáo đã dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, để thờ phượng và cảm tạ Chúa thay vì ngày thứ bảy.

Có bao giờ bạn cảm thấy dù bận rộn việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu.. mà ta vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Chúa khuyên các tông đồ cần tìm sự yên tĩnh, tìm bàu khí thinh lặng để ở một mình với Chúa, và để có thể lắng nghe tiếng Chúa. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng người ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa. Tại xứ này nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi. Trường hợp đó ta cần tìm nghỉ bù vào ngày khác để dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.

Thống kê trong cuốn sách Future Shock của Alvin Tofler có nhận định trung bình một người Mỹ cuối thế kỷ 20 thâu nhận từ mười tới hai mươi ngàn tiếng nói mỗi ngày từ báo chí, truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra mỗi ngày họ còn nghe truyền thanh chừng 70 phút, và coi truyền hình hàng giờ, và còn nhiều hơn nữa vào cuối tuần.

Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem mình đã dành cho Chúa được bao nhiêu thời giờ vào việc cầu nguyện và thờ phượng? Không những giáo sĩ mà cả giáo dân, mỗi người phải biết tìm những nơi thanh vắng, để tĩnh tâm, cầu nguyện, đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa. Hôm nay ta tụ họp trong nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về màu nhiệm nhập thể, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chủ nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa, và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Cuối tuần khi ta kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và sức mạnh thiêng liêng.

 

 

home Mục lục Lưu trữ