Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1372717

BƯỚC ĐI THEO ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI LỜI CHÚA

BƯỚC ĐI THEO ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI LỜI CHÚA-  Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Lễ Hiển Linh là lễ Biểu Lộ và Mạc Khải Đấng cứu thế cho muôn dân. Ba Vua là hình ảnh của các dân tộc, nhiều người khác nhau thuộc các thế hệ khác nhau trong nhân loại đã biết chân thành tìm kiếm và nhìn nhận Đấng cứu thế mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Lễ Ba Vua biểu lộ sự chiến thắng ngay từ đầu của Đấng cứu thế trên những thế lực của tội lỗi và sự chết đang cầm giữ nhiều người, luôn muốn từ chối Đấng cứu thế.

Vào thời Chúa Cứu thế, ba Vua là những nhà chiêm tinh, những người vốn thường tìm hiểu ý nghĩa của những biến cố xuyên qua các dấu chỉ. Đời sống của họ cũng hòa hợp với những gì họ hiểu biết, vì thế khi nhận ra dấu chỉ của ngôi sao lạ, họ đã mau mắn lên đường theo dấu ngôi sao lạ để tìm đến thờ lạy  vua người Do thái mới giáng sinh. Họ đã bỏ quê hương xứ sở để lên đường đến Giêrusalem và chân thành tìm kiếm để thờ lạy vị vua giáng sinh này. Khi đến Giêrusalem, họ đã không ngần ngại hỏi thăm và tìm kiếm hài nhi để thờ lạy : « Vua người do thái mới sinh ở đâu ? Chúng tôi nhận thấy ngôi sao của người hiện ra ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái người. » Thánh sử Matthêu muốn diễn tả sự biểu lộ của Vinh quang Giêrusalem khi giờ Chúa viếng thăm đã được các tiên tri loan báo, khi mà mọi dân tộc sẽ tuốn về từ muôn phương cùng với những lễ vật. Đồng thời, đứng trước sự biểu lộ của Vinh quang Thiên Chúa, mỗi người được đặt trước một chọn lựa quyết định : đón tiếp Thiên Chúa Mạc khải nơi hài nhi vừa giáng sinh hay khép kín lòng mình trước lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa chỉ vì sợ mất quyền lợi và địa vị bản thân.

Thánh Matthêu mô tả sự trái ngược giữa thái độ của những nhà đạo sĩ đông phương và thái độ của dân chúng ở Giêrusalem và của Hêrôđê. Những đạo sĩ đông phương, mặc dù là những người xa lạ, nhưng đã biết chân thành đón nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi sao lạ. Họ đã đáp lại dấu chỉ của mạc khải của Thiên Chúa một cách kính cẩn và nghiêm túc, và đã đến để triều bái người. Trong khi đó thì dân chúng ở Giêrusalem, vốn là những người gần gũi và là những chủ nhà, lẽ ra họ phải là những người trước tiên đón tiếp Đấng cứu thế được ban tặng cho họ, lại tỏ ra bối rối, không sẵn sàng trước biểu lộ của mạc khải Thiên Chúa cho họ. Thái độ bối rối này được diễn tả qua thái độ của Hêrôđê và những đại giáo trưởng và luật sĩ thân cận của ông. Với lời cố vấn của những người thân cận, Hêrôđê đã trả lời chính xác cho các nhà đạo sĩ nơi chốn của Đấng cứu thế vừa giáng sinh là Bêlem theo lời tiên tri Mikêa. Nhưng Hêrôđê lại không chân thành đón nhận mạc khải của Thiên Chúa để giới thiệu cho những người khách từ phương xa đến mà ông chỉ giả vờ hỏi thăm các đạo sĩ để rồi tìm cách làm hại hài nhi và cả các đạo sĩ.

Thuật ngữ được dùng bởi Tin mừng theo Matthêu rất rõ nét: triều bái. Đây là thái độ thờ lạy, tôn thờ, nhìn nhận quyền bính của vị vua vừa giáng sinh. Ngay trong cách nói do thái, người ta còn thêm là phủ phục xuống sát đất, mặt cúi xuống sát đất để diễn tả cử chỉ kính trọng trước Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ba nhà đạo sĩ đến nơi, họ đã dâng những lễ vật dành cho một bậc quân vương, là vàng, nhủ hương và mộc dược. Hơn nữa, những lễ vật này còn dành cho hài nhi để nhìn nhận thần tính của người. Tin mừng Matthêu muốn diễn tả những lời loan báo của các tiên tri giờ đây đã được ứng nghiệm nơi hài nhi Giêsu vừa mới giáng sinh. Tiên tri Isaia đã loan báo thời đại đầy vinh quang của Israel khi muôn dân thiên hạ sẽ đổ về Giêrusalem, họ tìm đến Giêrusalem vì ánh sáng phát xuất từ chính nơi đây, bởi vì đó là lúc chính Chúa đang đứng dậy và vinh quang của Thiên Chúa bừng sáng trên họ. Đoạn văn mô tả một khung cảnh vui tươi hạnh phúc tràn ngập dành cho Giêrusalem, bởi vì các con trai con gái của họ sẽ từ xa và từ khắp nơi sẽ trở về đoàn tụ và những kho tàng và của cải từ chư dân đổ về Giêrusalem với những đàn lạc đà và những lễ vật như vàng và nhủ hương. Thánh Matthêu hiểu những lời tiên tri của Isaia giờ đây đã được thực hiện và ông mô tả việc ba nhà đạo sĩ thăm viếng với hình ảnh ngôi sao lạ dẫn đường đến Giêrusalem và Bêlem để thờ lạy và dâng lễ vật cho hài nhi Giêsu vừa mới giáng sinh.

Việc Ba vua từ Đông phương theo dấu ngôi sao lạ tìm đến kính viếng vị vua cứu thế mới giáng sinh đặt ra thái độ của con người trong việc đón tiếp sự nhập thể của Thiên Chúa. Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm của tình yêu, mà tình yêu là một hành động hoàn toàn tự do. Chỉ có tình yêu khi có tự do thế nào thì tình yêu này chỉ trọn vẹn thực sự khi được đón nhận. Nếu Thiên Chúa yêu thương con người mà không gặp được sự đón nhận từ phía con người, thì tình yêu này của Thiên Chúa vẫn chưa có thể biểu lộ trọn vẹn. Đức Mẹ và thánh Giuse đã biểu lộ thái độ đón nhận nhanh nhẹn và đầy lòng tin. Thánh Giuse mau mắn đón nhận Đức Maria về nhà của mình và đồng hành cùng Maria trong mọi hành trình để phục vụ cho hài nhi Giêsu giáng sinh, Đức Maria thưa vâng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và lên đường để sinh con ở Bêlem, đi Ai cập và trở về Nazarét. Ba Vua biểu lộ thái độ đón nhận khi vượt đường dài từ quê hương để đến kính viếng và dâng lễ vật thờ lạy hài nhi mới giáng sinh. Trong khi đó thái độ của Hêrôđê cũng như những người ở Giêrusalem thì hoài nghi và bối rối vì không muốn đón nhận một vị vua nào khác, họ sợ quyền lợi và địa vị của mình bị lung lay vì một vị vua mới giáng sinh. Họ khép lòng mình trước lời mời gọi tình yêu của Thiên Chúa và còn tìm cách giết chết hài nhi Giêsu.

Đón nhận biểu lộ mạc khải của tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi một dấn thân cương quyết. Cũng giống như Ba Vua, đời sống hằng ngày của chúng ta biểu lộ thái độ đón nhận trước mạc khải của Thiên Chúa giáng sinh. Khi đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, các ngài đã lần theo dấu sao lạ, đến nơi Đấng cứu thế giáng sinh và thờ lạy. Mỗi người chúng ta cũng phải đi theo dấu ánh sáng của Lời Chúa trong hành trình cuộc đời. Trong hành trình này của cuộc đời, chúng ta cũng được mời gọi biết dùng khả năng hiểu biết để tìm hiểu ánh sáng Lời Chúa và bước đi theo ánh sáng Lời Chúa, giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn gian khổ của hành trình để gặp được Chúa Cứu thế và thờ lạy người như Ba Vua. Thái độ dấn thân cương quyết cũng đòi hỏi thái độ quên mình. Ba Vua phải vất vả lên đường theo dấu sao lạ trong một hành trình dài và hiểm trở, chúng ta cũng sẽ phải học thái độ quên mình trong cuộc hành trình theo Chúa, dưới ánh sáng của Lời Chúa hướng dẫn, ngay cả đón nhận những thập giá, những hy sinh mà chúng ta có thể gặp phải trong cuộc đời. Ba Vua đã dâng tiến những lễ vật là vàng, nhủ hương và mộc dược. Những lễ vật của chúng ta sẽ là những cố gắng chu toàn bổn phận trong cuộc đời, những hy sinh quên mình mà chúng ta đã cố gắng và những việc làm của chúng ta khi cùng làm việc và cộng tác với các anh chị em khác trong tình yêu thương chân thành. Thánh Phaolô chia sẻ xác tín của người về ơn mạc khải mà người nhận được trong tư cách là tông đồ của Chúa. Mạc khải này là mới mẻ bởi vì những thế hệ trước đây người ta chưa được biết, đó là nhờ Tin mừng mà các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được thông phần vào lời hứa và trở nên cùng một thân thể. Đây chính là thực tại mà chúng ta đang chia sẻ, và vì thế, chúng ta càng nhận ra tầm mức quan trọng của ánh sáng Lời Chúa hướng dẫn cuộc hành trình của chúng ta. Nhờ ánh sáng Lời Chúa, chúng ta vốn là những người thuộc chư dân, nhưng được mạc khải của Lời Chúa hướng dẫn, đang bước đi trên con đường dẫn đưa tới Thiên Chúa là nguồn sống và hạnh phúc vô tận.

 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

CUỘC HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…

Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:

Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)

Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.

“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).

Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…

“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).

“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt.2,2).

Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.

“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).

Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.

“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.

Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.

Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.

Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.

Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.

Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.

“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt. 2,4-6).

Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.

Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.

… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ

Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.

Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.

Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.

Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).

Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.

Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.

Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.

Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.

Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.

Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.

Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.

Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.

Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.

Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.

Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn… rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.

Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.

Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.

Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.

Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.

Lạy Chúa,

Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:

-“Vì sao Thánh Giá”

tỏa sáng muôn nơi,

khắp mọi phương trời,

dẫn đưa con người,

về miền đất hứa:

-“Thế giới đệ huynh

anh em một nhà,

Thiên Chúa là Cha.” Amen.

 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

HÀNH TRÌNH TÌM CHÚA- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

 Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương Đông (Tv. 72, 10), vì các ông dám vào cung điện hỏi thẳng vua Hêrôđê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”. Nhưng các ông không phải là thứ hôn quân như Hêrôđê, mà là các bậc anh quân yêu nước thương dân như các vua Nghiêu, vua Thuấn. Có thể các ông là các nhà bác học như Thales, Pythago, Hypocrate đã lập ra các trường tu, vừa tập luyện đạo đức vừa nghiên cứu khoa học, thiên văn, y học. Nhưng hơn hết, các nhà đạo sĩ này là những người dầy công đi tìm chân lý.

Khi các ông chiêm ngắm các hành tinh vĩ đại vận chuyển lạ lùng trong vũ trụ và nghiên cứu muôn vật sinh sống kỳ diệu, các ông nhận ra rằng: phải có Đấng toàn năng vô cùng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật này.

Thêm vào đó các ông sưu tầm kinh điển cổ kim đông tây, các ông đã hiểu hết các thần tượng được tôn thờ ở Ba tư, Ả rập, Ai cập, La mã, Hy lạp, các ông nhận thấy thần nào cũng đầy tính mê nết xấu như loài người.

Nhưng tìm đến Kinh thánh của Do thái, các ông thấy đầy những sự lạ lùng tốt đẹp: từ Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật trong sách Sáng Thế, đến những việc Ngài tỏ cho lãnh tụ Môsê: Ta là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng sống đầy lòng thương xót đã giải phóng dân Do thái thoát ách thống khổ nô lệ Aicập. Các ông càng phấn khởi khi đọc sách tiên tri Isaia cho các ông biết Thiên Chúa sắp đến tỏ mình ra cho mọi xác phàm, các dân ngồi trong bóng tối sự chết sẽ nhìn thấy ánh sáng muôn thuở của Ngài “Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là cố vấn kỳ diệu, vua muôn thuở, Cha đời đời và là Hoàng tử thái bình vô tận”. Ngài thật là Đấng muôn dân đang trông đợi (Is. 7, 14 ; 9, 1-6 ; 40, 5. 10).

Sau bao nhiêu năm tháng sưu tầm học hỏi hòa nhịp với tâm tư suy nghĩ và cầu nguyện trông cậy, đột nhiên các ông thấy trên không trung xuất hiện một ngôi sao lạ đang từ từ tiến đến các ông. Các ông reo lên: “Thôi đúng rồi, một ngôi sao lạ mọc lên từ nhà Gia cóp, một vương trượng xuất hiện từ Israel” (Ds. 24, 17). Thế là các ông sung sướng hối hả lên đường theo ánh sao hướng dẫn. Các ông bỏ nhà, bỏ nước, bỏ mọi tiện nghi sang trọng, dấn thân đến miền xa lạ. Dù đường xa chông gai núi non hiểm trở, vực thẳm cheo leo, rừng hoang sa mạc, dù nóng bức thiêu đốt, dù phong ba bão táp, dù sương tuyết lạnh lùng, dù nguy hiểm tính mạng, không làm cho các ông sờn lòng nản chí, ánh sao là hy vọng vô tận của các ông rồi. Suốt cuộc lữ hành tìm Chúa, các ông luôn luôn nhìn lên ánh sao cầu nguyện để được can đảm, mạnh sức thắng vượt mọi gian khổ.

Khi tới Giêrusalem, ánh sao biến mất, các ông tưởng đã gặp được Đấng Cứu thế. Nhưng chưa, các ông phải đi tìm Ngài mọi nơi, mọi người, từ dân quê mùa đến hàng trí thức, từ kẻ tốt lành đến kẻ gian ác như Hêrôđê. Làm thế, Thiên Chúa muốn dẫn dắt các ông bằng mọi phương tiện đều có thể giúp các ông đến với Chúa, miễn là các ông vững tin Ngài. Nhờ đó, Ngài càng gia tăng sự vui mừng cho các ông. Chính trong lúc các ông băn khoăn, bối rối nhất, Thiên Chúa đã cho các ông được ơn gặp Hài Nhi Giêsu, Đấng cứu độ các ông. Các ông phục xuống kính bái Ngài: Một Hài Nhi thanh tú tuyệt vời như thuở con người mới được tạo dựng. Các ông cảm thấy gần gũi Ngài quá, lòng các ông ấm áp, trí các ông sáng suốt, ánh sáng thánh thiêng của dung nhan Ngài đang truyền sang toàn thân các ông, lửa yêu mến của Ngài đang cháy lên trong con tim rạo rực của các ông. Các ông dâng lên Ngài trọn vẹn hồn xác và toàn thể dân tộc các ông. Các ông ra về lòng chan chứa hân hoan trong âm vang du dương của muôn tiếng hát thiên thần:

“Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,

Bình An dưới thế cho người thiện tâm”

Những con người thiện tâm như Ba Vua đang đi khắp thế giới loan báo Tin mừng bình an cho muôn dân. Tin mừng bình an của Hài nhi Giáng Sinh đã đến với chúng ta. Tâm hồn chúng ta có trong sạch, có thiện tâm và sáng lên để đón mừng bình an của Chúa Cứu thế chưa?

Lạy Chúa, các đạo sĩ dù là dân ngoại, đã dầy công tìm Chúa và gặp được Chúa nơi hang đá và trong vinh quang muôn đời. Xin cho chúng con thành tâm thiện chí ra sức tìm Chúa trong cầu nguyện, trong lời Chúa, trong hy sinh và bác ái với mọi người, vì Chúa đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ cửa sẽ mở cho”.

Xin mở cửa cho chúng con được gặp Chúa trong bình an và chan chứa tin yêu.

home Mục lục Lưu trữ