Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1374681

CÁC CON LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

Các con là ánh sáng thế gian

 

Anh chị em thân mến!

Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.

Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.

Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối” (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian”.

Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.

Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: “Các con là ánh sáng thế gian”. Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.

Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.

Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động… và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.

Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc… mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: “Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.

 

 

 

 

 

20. Bảo vệ ánh sáng – Lc 2,22-40

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

 

Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.

Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.

Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.

Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.

Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.

Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.

Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.

Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.

Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.

Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.

Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.

Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.

 

 

 

 

 

21. Dâng hiến vào đền thờ: Chúa Giêsu tỏ mình ra

(Chú giải của Hugues Cousin)

 

Trong bảng đối chiếu ở trang 38-40 chúng tôi đã đặt cảnh này trong việc trình bày song song giữa Gioan và Chúa Giêsu. Hai em bé sơ sinh đã thực sự tỏ mình ra; bài thánh ca của ông Simêon (cc. 29-32), rồi lời sấm của ông (cc. 34-35) giữ một vai trò tương tự như Thánh vịnh tiên tri của ông Giacaria về Gioan. Nhưng Chúa Giêsu lại chiếm ưu thế trong cả hai giai đọan: việc sinh ra trong máng cỏ, là dấu chỉ cho các mục tử, đã đi trước việc mặc khải sẽ được diễn ra giữa cuộc sống Do Thái giáo. Sự song song về hình thức gặp ở đoạn trước lại hoàn toàn không thấy có ở đây, khoảng cách biệt giữa Đấng Mêsia và vị tiền hô của Ngài không được đặt lên hàng đầu nữa, dù rằng nó vẫn còn vết tích đây đó trong bản văn.

Việc Gioan đi vào lịch sử cứu độ được diễn ra trong Đền thờ, lúc cử hành việc phụng tự – nhưng chính Gioan lại không bao giờ đặt chân tới Đền thờ. Còn Chúa Giêsu, tuy được thụ thai một cách âm thầm lại sắp tỏ mình ra ở Đền thờ (cc. 22-24). Một biến cố kép đã được tiên liệu bởi luật Môsê là dịp cho sự tỏ mình này: việc thanh tẩy Đức Maria (cc. 22a.24) và việc chuộc lại con trai đầu lòng (cc. 22b-23). Điều đáng chú ý là chỉ duy có hai lần trong “Tin Mừng thời niên thiếu” Luca quy chiếu rõ ràng tới Thánh Kinh. Khi là người nghèo, một phụ nữ vừa sinh con “bắt hai con chim gáy hay hai con bồ câu, một để dùng sát tế một để dâng làm hy lễ đền tội; khi vị tư tế làm nghi thức thanh tẩy trên bà, bà sẽ được thanh tẩy” (Lv 12,8). Về việc chuộc lại con đầu lòng thì hợp với luật của Xh 13,12: “Mọi kẻ sinh ra…, tất cả những con cái của ngươi, là giống đực, ngươi hãy dâng hiến cho Chúa”. Nhưng không vì thế mà điều đó ngăn cản việc Thánh Thần có những ám chỉ tới Kinh Thánh: khuôn mẫu của các câu này được lấy từ 1Sm 1,22-24: bà Anna tiến lên dâng cho Thiên Chúa cậu bé Samuel vừa mới dứt sữa và cậu ở lại như người phục vụ trong nhà của Thiên Chúa.

Một cách trang trọng, công thức “những ngày (thời gian) đã hoàn tất” được nói lên lần thứ năm và cũng là lần cuối cùng trong Lc 1 và 2. Ngoài ra, sự chú ý của chúng ta đã được hướng tới những ghi chú về thứ tự thời gian nối kết các hoạt cảnh lại với nhau; cảnh này được nối với cảnh trước bởi quy luật của Lv 12,1-4 ấn định thời gian bốn mươi ngày từ khi sinh tới lễ thanh tẩy. Như vậy bảy mươi tuần trôi qua, đã hoàn tất, từ khi sứ thần Gabriel loan báo việc đản sinh của Gioan: việc giải phóng Giêrusalem trở thành một thực tại.

Cha mẹ là những người đạo đức và tuân phục luật Môsê (được nhắc tới ba lần trong các câu 22-24. Các Ngài thực hiện ngay cả những điều không bắt buộc: đích thân dâng em bé mới sinh theo gương bà Anna mà lời Kinh ca ngợi của bà đã gợi hứng cho Đức Maria.

Không có thành viên nào thuộc hàng tư tế được nêu lên trong các câu dẫn nhập này, vả lại những câu này không mô tả hai nghi thức đã được Luật ấn định. Nhưng có một người không phục vụ trong đền thờ lại đến vì được Thánh Thần thúc giục (cc. 25-35), ông không chỉ là người công chính và đạo đức. Như những người khác (c. 38) ông mong chờ việc thực hiện lời sấm về bảy mươi tuần lễ, ông đợi giờ cuối cùng khi Thiên Chúa sẽ đến cứu thoát dân Người một cách dứt khoát; đó là niềm hy vọng mà Sách An ủi đã tuyên bố (Is 40-55). Nhưng Simêon được thụ hưởng một ân huệ duy nhất: ông biết việc can thiệp này đã gần, ông sẽ thấy khoảnh khắc mà, cùng với việc Đấng Mêsia đến, lịch sử sẽ dứt khoát lật qua một trang mới. Sự biến chuyển xảy ra trong một cuộc gặp gỡ của con người; như trong cảnh thăm viếng (1,39-55) và trong câu chuyện về Cornay (Cv 10), tất cả đã được thực hiện khi hai con người được Thần Khí thúc đẩy, gặp gỡ và thông truyền cho nhau, cách này hay cách khác, những gì họ đã nhận được từ Thiên Chúa.

Là người lính canh cuối cùng của giao ước vũ trông đợi bình minh của thời Đấng Mêsia, ông ẵm trong tay Người Con đầu lòng của thế giới mới mà ông đã nhận ra. Ông lần lượt công bố một bài ca ngợi (cc. 29-32) rồi một sấm ngôn (cc. 34-35). Khác với Đức Maria và ông Giacaria nói về Chúa ở ngôi thứ ba trong các thánh ca của họ, Simêon nói trực tiếp với Chúa. Tước vị chủ tể đã giữ lời hứa, ông nhận biết rằng nhiệm vụ canh thức của ông đã chấm dứt: như tổ phụ Abraham, ông có thể ra đi bình an về với cha ông mình để được chôn cất (St 15,15); vị tổ phụ đã nhận lời hứa, còn ông, ông thấy lời hứa ấy được thực hiện. Hơn nữa, Thần Khí tiên tri ban cho ông một ánh sáng lạ lùng về vai trò của em bé – một sứ điệp mà thiên thần Gabriel đã không mặc khải cho Đức Maria: Đức Giêsu sẽ là Người Tôi Tớ mà Chúa đã ấn định cho trở nên ánh sáng của muôn dân, để ơn cứu độ của Người đạt tới tận cùng trái đất (Is 49,6). Các người lương sẽ không chỉ là chứng nhân mà còn là những người thụ hưởng ơn cứu độ vĩnh viễn, ngang hàng với Israel. Điều đó được nói đến sớm một cách kỳ lạ, bởi vì đấy là chương trình mà sau này Đấng Phục Sinh sẽ tuyên bố ở Lc 24,47 và sẽ thực hiện nhờ Phaolô, người sẽ nhân danh Chúa của mình mà hoàn tất, lời sấm ngôn ở Is 49,6 (Cv 14,46-47).

Như những người khác trước mình (x. 1,63; 2,18), cha mẹ Ngài ngạc nhiên, sửng sốt, như vậy con của họ, đã là Đấng Mêsia của Israel, cũng sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn thế giới! Nhưng mà tiếp theo bài ca ngợi hân hoan là một sấm ngôn có tính cách đe dọa (cc. 34-35), người con của Đức Maria sẽ trở nên nguồn gốc chia rẽ trong Israel – lời sấm ngôn mà Chúa Giêsu sẽ nói lại: “Ta không đến để đem bình an, nhưng đem chia rẽ. Bởi vì, từ nay trong một nhà năm người sẽ có chia rẽ, ba chống lại hai và hai chống lại ba” (Lc 12,51-53). Việc Israel loại trừ Chúa Giêsu và lời của Người sẽ chạy xuyên suốt như một sợi chỉ đỏ trong tác phẩm của Luca cho tới đọan kết cuộc đáng sợ của sách Công vụ: nói với những người Do Thái bị phân tán ở Rôma, Phaolô sẽ quả quyết rằng chính là cho dân ngoại mà ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gửi đến, bởi vì họ sẽ nghe lời (Cv 28,24-29). Thực vậy, phải xảy ra việc tuyên bố ủng hộ hoặc chống lại Đấng Thiên Chúa sai phái, và điều đó nhất thiết sẽ bày tỏ tư tưởng thầm kín của nhiều người, nghĩa là sự cứng lòng của họ. Một lời tiên tri như thế là thể hiện một xác tín của Thánh Kinh: cùng những hồng ân của Thiên Chúa sẽ là nguồn phát sinh sự sống hoặc sự chết tùy theo thái độ của những kẻ đón nhận. Simêon vắn tắt cho thấy rằng một sự chia rẽ như thế sẽ làm Đức Maria đau đớn một cách sâu xa. Ta đừng coi đây như lời loan báo những đau khổ của Đức Maria ở dưới chân thập giá – Luca sẽ không nói tới sự kiện này. Nhưng là mẹ Đấng Mêsia, Đức Maria sẽ đau khổ hơn mọi người Israel khác để cho thời Đấng Mêsia sẽ được thể hiện. Lần đầu tiên ta thấy thảm kịch đã thấp thoáng.

Trình thuật có thể kết thúc ở đây. Bà cụ tiên tri Anna tiến vào không mang một mặc khải nào mới (cc, 36-38); bằng cách tiên báo, bà nói theo thể văn gián tiếp, nhưng chính nơi bà cụ này, mẫu gương cho góa phụ Do Thái hay Kitô giáo, mà Luca làm vang dội lại bài thánh ca ông Simêon – điều đó cho phép Luca kết thúc cảnh mặc khải này với một sắc thái hân hoan.

Phần kết luận (cc. 39-40) nhắc nhở một lần nữa lòng trung thành của hai cha mẹ đối với lề luật. Rồi sau đó là việc trở về Galilê trái với Gioan ở trong hoang địa. Chúa Giêsu sống ở Nagiaret. Điệp khúc về việc tăng trưởng song song với 1,80; nhưng Chúa Giesu nên mạnh mẽ, đầy khôn ngoan trong khi thần khí của Gioan nên mạnh mẽ. Những tương quan giữa Chúa Giêsu và Thần Khí lại mang một bản chất khác…

 

 

 

 

 

22. Chú giải của William Barclay

Các nghi lễ được tuân giữ: 2,21-24

 

Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.

Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày Sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.

Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel-chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.

Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nở. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hằng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ của Người nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu của phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.

Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cũng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Nhưng người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.

Giấc mơ thành tựu: 2,25-35

Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Những họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt với trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần, nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại, nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên! Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị Vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bấy giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.

Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lại tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với lòng nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.

Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.

Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trùng lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.

Tuổi già đáng yêu: 2,36-40

Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức hoạ về tâm tính bà.

Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho cta một trong hai điều: nó có thể làm cho chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm cho chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tuỳ thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một loại bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.

Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tuỳ thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng. Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không thể giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?

Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.

Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.

 

 

 

 

 

23. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

 

LỊCH SỬ NGÀY LỄ.

Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).

Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.

Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh.

(Lm Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ chư thánh, tập 1, tr 68).

Ý NGHĨA NGÀY LỄ

1. Theo tập tục của luật Maisen.

Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).

Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).

Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8).

Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.

Sách Xuất hành qui định: “Giavê phán cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta”. Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không phải lo việc phụng tự nữa.

Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con trai.

2. Đức Maria dâng con theo lề luật.

Theo luật Maisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế.

Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40 ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc phải.

Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn, ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa:”Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32).

Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà thưa:”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”(Lc 2,34-35).

Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.

Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.

3. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến

Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.

Chính cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói:”Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa sáng” (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).

Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. “Ánh Sáng” là một từ thường được dùng để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn… Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.

BƯỚC THEO MẸ MARIA.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.

Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.

Đức Giêsu cũng không buộc phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.

Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.

Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.

Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.

Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: “Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?

Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.

Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.

Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.

Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.

Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?

Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.

Qua câu truyện ngụ nôn về cây bút chì, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.

Bạn hãy cố thực hành:

Thứ nhất, bạn có thể làm nên những chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho bạn.

Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ, bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.

Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.

Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của bạn

Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.

Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao phó.

Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay đổi bất cứ thứ già cả.

Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

home Mục lục Lưu trữ